K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

19 tháng 6 2020

A. phố cổ

B. đoan trang

23 tháng 6 2020

A: Đường phố

Giải thích:Vì các từ như: Phố cổ, phố phường, phố xá. Đều là để chỉ con phố

còn riêng từ đường phố là chỉ con đường đi nên từ 0 cùng loại là từ '' Đường phố''

B: Câu này theo tôi nghĩ: 2 từ ngoan hiền và ngoan ngoãn là 1 cặp, đoan trang vf thùy mị là một cặp

Giải thích: Vì ngoan hiền và ngoan ngoãn là đều có ý nghĩa là 'ngoan'

                 Còn 2 từ là đoan trang và thùy mị thì là tính từ chỉ phẩm chất của người con gái, ý là nết na, dịu dàng

( Nếu thấy đúng thì nhớ chọn câu trả lời của tui nha! Cảm ơn.)

20 tháng 6 2020

3 lần số thứ 2 là

42,5-15,5=27

số thư 2 là

27:3=9

Số thứ 1 là

15,5-9=6,5

18 tháng 6 2020

11/3 là phân số lớn nhất.

7 tháng 8 2020

11/3 la phan so lon nhat

18 tháng 6 2020

Số lượng bút mực là: [240 : (7 - 3)] . 7 = 420 (cây)

Số lượng bút chì là: [240 : (7 - 3)] . 3 = 180 (cây)

Đáp số: 420 cây bút mực, 180 cây bút chì.

19 tháng 6 2020

Cam on cam ban

20 tháng 6 2020

PT<=> (2x2+5)(x-3)=0

<=> x=3 

\(2x^2\left(x-3\right)+5x-15=0\)

\(\Leftrightarrow2x^3-6x^2+5x-15=0\)

\(\Leftrightarrow\left(2x^2+5\right)\left(x-3\right)=0\)

TH1 : \(2x^2+5=0\Leftrightarrow2x^2=-5\left(voli\right)\)

TH2 : \(x-3=0\Leftrightarrow x=3\left(tm\right)\)

Vậy phương trình có nghiệm là x = 3 

30 tháng 6 2020

lớp 7          mình chịu       

1 tháng 7 2020

Với đặc điểm hình thành đất đai, từ sớm Thái Bình - miền đất hạ lưu sông Hồng đã luôn luôn chứa đựng trong mình cả hai yếu tố song hành: thuận lợi và khó khăn. Đó là hứa hẹn to lớn về một cuộc sống định cư mở mang trước vùng đất vốn là sản phẩm bồi tụ màu mỡ của thiên nhiên. Song, đó cũng lại là miền đất hoang sơ với muôn vàn hiểm nguy rình rập, thử thách như dông bão, nắng hạn, đầm lầy, lau lách, thú dữ,...

 

1. Đoàn kết cải tạo thiên nhiên, trị thủy, khai hoang lập làng

Với đặc điểm hình thành đất đai, từ sớm Thái Bình - miền đất hạ lưu sông Hồng đã luôn luôn chứa đựng trong mình cả hai yếu tố song hành: thuận lợi và khó khăn. Đó là hứa hẹn to lớn về một cuộc sống định cư mở mang trước vùng đất vốn là sản phẩm bồi tụ màu mỡ của thiên nhiên. Song, đó cũng lại là miền đất hoang sơ với muôn vàn hiểm nguy rình rập, thử thách như dông bão, nắng hạn, đầm lầy, lau lách, thú dữ,... Đặc biệt, do kết quả tiến lùi, dồn tụ qua hàng vạn năm của sóng, gió biển, bề mặt địa hình của cả vùng có sự cao thấp khác nhau hết sức phức tạp: nơi nhiều gò đống, nơi úng trũng quanh năm. Đó là các yếu tố tác động sâu sa buộc những chủ nhân của miền đất Thái Bình trong trường kỳ lịch sử phải trải qua cả một hành trình bền bỉ đấu tranh ác liệt giành giật với thiên nhiên, biển cả, từng bước tạo lập một cuộc sống định cư trù mật, lâu dài.

Mặc dù hiếm có thể tìm được nguồn tài liệu để dựng lại một cách chân thực những cuộc khai khẩn chinh phục từ thuở hồng hoang trên đất Thái Bình, song chắc chắn đó là kết quả tất yếu của những cuộc thiên di dũng cảm do các bộ lạc Việt cổ từ các vùng cao tràn xuống xây dựng nơi cư trú chiếm lĩnh miền đồng bằng. Công cuộc chuyển cư của lớp cư dân đầu tiên này đã gắn với truyền thuyết mở mang bờ cõi của con rồng cháu lạc. Và cuộc đấu tranh sống còn chống giặc lụt để giành lấy đất đai màu mỡ ven sông biển cũng sớm trở thành thiên anh hùng ca in đậm trong huyền thoại về những cuộc đối đầu dữ dội giữa Sơn Tinh và Thủy tinh mà “giặc nước” chính là kẻ phải đành cam chịu thất bại trước tinh thần đoàn kết của người dân.

Tuy nhiên, hoạt động trị thủy - khẩn hoang ở Thái Bình chỉ thật sự diễn ra rõ nét với quy mô ngày càng tăng khi có thêm các luồng dân cư mới tiếp tục dồn đến đòi hỏi mở rộng địa bàn canh tác và điểm cư trú. Từ biện pháp dùng dao để cày, dùng lửa để trồng với sự tiến bộ về công cụ kim khí, những người dân đã nhanh chóng thích nghi với điều kiện địa hình sáng tạo ra kỹ thuật dùng lửa để đốt cây cỏ, dùng nước để trồng trọt rồi tiến đến dùng trâu bò cày kéo khai hoang trồng lúa ở cả một vùng đồng bằng ven biển.

Từ sau Công nguyên và đặc biệt đến thế kỷ VI, với sự ra đời của Nhà nước Vạn Xuân độc lập, mảnh đất Thái Bình thật sự trở thành điểm dừng chân hội tụ của nhiều luồng cư dân ở khắp các miền đất nước. Cũng từ đó, công việc khai hoang, trị thủy đã được đẩy mạnh một bước, để đến thế kỷ X - XI, vùng đất này đã trở thành “vựa lúa của cả nước, làng xóm đông vui”.

Dưới thời Lý - Trần, việc khẩn hoang được thuận lợi, nhiều trang, ấp, làng xóm mới ra đời, nhiều nhất là ở vùng Hưng Nhân, Duyên Hà, Quỳnh Côi, Phụ Dực (thuộc huyện Hưng Hà và Quỳnh Phụ ngày nay).

Trong công cuộc xây dựng lại đất nước (sau khi lật đổ ách thống trị nhà Minh), vua Lê Thái Tổ ban hành chính sách khuyến nông, bãi bỏ chế độ điền trang, thái ấp, thực hiện chế độ quân điền, khuyến khích thành lập các sở đồn điền để phát triển kinh tế nông nghiệp. Nhờ đó, kinh tế nông nghiệp nói chung, công việc khai hoang, phục hóa, mở rộng làng xã ở thời kỳ này nói riêng đã đạt được nhiều thành tích to lớn. Riêng ở Thái Bình, số làng xã mới được thành lập cũng tăng lên đáng kể (theo ghi chép của Nguyễn Trãi trong Dư địa chí năm 1435, số lượng làng xã ở Thái Bình là trên 400 đơn vị xã, thôn, trang...; theo Hồng Đức bản đồ, ở Thái Bình có 503 đơn vị làng xã...).

Đến thời Nguyễn, nhờ đẩy mạnh khai hoang mà nhiều huyện mới, tổng mới... đã ra đời ở khu vực ven biển đồng bằng Bắc Bộ và Nam Bộ, trong đó có huyện Kim Sơn (Ninh Bình) và huyện Tiền Hải (Thái Bình).

Với những quy định có lợi cho người tham gia khẩn hoang, nên công cuộc doanh điền, khẩn hoang của Doanh điền sứ Nguyễn Công Trứ ở bãi Cồn Tiền được thực hiện nhanh chóng, chỉ trong 6 tháng đã lập nên 7 tổng với 14 lý, 27 ấp, 20 trại, 10 giáp; 18.970 mẫu ruộng, 8.000 mẫu đất (thổ ương, thổ cư), 2.350 suất đinh, đưa tới sự ra đời của huyện Tiền Hải.

Cùng thời gian này, nhiều vùng đất hoang ven biển của huyện Thụy Anh được khai phá. Đất khai phá được chia thành 153 phần cho 122 suất đinh, mỗi phần được 6 sào 2 khấu (mỗi khấu bằng 36m2). Năm Thành Thái thứ 13 (1901) dân trong lý làm đơn xin chuyển số ruộng đất này thành “tư điền tam đẳng” để truyền cho con cháu.

Xét trên phạm vi toàn tỉnh, đến đầu thế kỷ XX, nhờ đẩy mạnh khai hoang, phục hóa, điều chỉnh địa giới hành chính và dân cư, nên số làng xã ở Thái Bình đã tăng lên đáng kể. Theo thống kê của Ngô Vi Liễn, năm 1928, tỉnh Thái Bình có 817 đơn vị hành chính cấp xã, với trên 1.200 thôn, làng, xóm, trại.

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, vấn đề trị thủy - khẩn hoang, lập làng, lấn biển thật sự trở thành vấn đề thường trực tất yếu, một công việc có cả bề dày kinh nghiệm, của nhiều thế hệ cư dân Thái Bình. Truyền thống trị thủy - khẩn hoang, quai đê lấn biển, lập làng không chỉ là cội rễ tự nhiên của tinh thần cố kết cộng đồng mà còn là cơ sở thiết yếu cho việc mở rộng địa bàn cư trú, thuần dưỡng đất đai, phát triển ngành nghề. Bằng sức mạnh của đoàn kết người dân Thái Bình đã đấu tranh vật lộn với đồng đất, giành giật với thiên nhiên, biến miền đất hoang dã ngập mặn thành phì nhiêu màu mỡ. Thành quả này được các thế hệ người Thái Bình đời sau kế thừa, phát huy dưới nhiều hình thức, với những cách làm sáng tạo, mang dấu ấn đặc trưng riêng của người Thái Bình. Lịch sử đã ghi nhận những mô hình sáng tạo của làng khẩn hoang ven biển từ cuối thế kỷ XIX đến nay như: Làng kinh tế mới ven biển những thập niên 60 - 70 của thế kỷ XX; làng kháng chiến kiểu mẫu thời kỳ chống Pháp và đặc biệt là làng văn hiến, làng nghề, làng văn hóa... trong xây dựng nông thôn mới hiện nay ở Thái Bình.

2. Cần cù, sáng tạo trong lao động - sản xuất

Theo các nguồn sử liệu thì vào giữa thiên niên kỷ thứ nhất, nhiều vùng đất nay thuộc tỉnh Thái Bình đã khá sầm uất với các lớp cư dân sinh sống chủ yếu nhờ gieo cấy lúa nước và đánh bắt thủy hải sản. Với địa hình ba mặt là sông lớn, một mặt là biển, nội địa lại chằng chịt những sông ngòi nhỏ, những người dân cư tụ ở Thái Bình đã sớm thích nghi xử trí thông minh, biến yếu tố vốn thường coi là đứng đầu trong các hiểm họa (thủy, hỏa, đạo, tặc) trở thành điều kiện, biện pháp hàng đầu trong kỹ thuật thâm canh trồng lúa. Việc quai đê, đắp đập. khơi ngòi, đào mương máng, dựng kè cống,… đã thay thế cho phương thức sản xuất trồng lúa nước dựa vào sự lên xuống của thủy triều hết sức thụ động ở buổi sơ khai. Kỹ thuật làm thủy lợi, kinh nghiệm trị thủy đã giúp người dân nơi đây khống chế được nước lũ trong mùa mưa, giữ được nước trong màu cạn, thau chua, rửa mặn cải tạo đất canh tác phục vụ tích cực cho trồng trọt mà trực tiếp là sự sinh trưởng phát triển của cây lúa.

Để tăng cường chất đất cho việc trồng lúa, người nông dân Thái Bình tư lâu không chỉ biết tận dụng mọi nguồn phân bón cùng với kỹ thuật làm ải, bừa tơi mà còn biết sử dụng phân bón phù hợp với từng loại đất để cây lúa cho năng suất cao. Đặc biệt, nhiều địa phương ở Thái Bình đã nổi tiếng với việc phát triển, nuôi cấy một nguồn phân bón tạo được nhiều chất màu cho đất, lại thích hợp với cây lúa. Đó là kỹ thuật gây chọn, nhân giống bèo hoa dâu ở các làng: La Vân( Quỳnh Phụ), Bích Du (Thái Thụy), Búng (Vũ Thư),… Cùng với tri thức chung của nghề trồng lúa ở đồng bằng sông Hồng “nhất nước nhì thục”, người Thái Bình còn tiến xa hơn nữa trong việc xem xét thời vụ để gieo trồng “chiêm bơ bải, màu phải thời”,.. và cũng rất thành thục trong việc chọn đất giống gieo cấy cho thích hợp với địa hình, chất đất.

Khai thác di sản vô giá về những kinh nghiệm trồng trọt của quê hương mình nên trong khá nhiều tác phẩm, đặc biệt là ở bộ sách Vân đài loại ngữ, Lê Quý Đôn đã chú tâm khảo tả khá tỉ mỉ về sự siêng năng, cần mẫn, về kỹ nghệ gieo cấy lúa nước trong các khâu: nước, phân, cần, giống của người nông dân ở các phủ huyện nay thuộc Thái Bình.

Kết quả của sự cần cù, sáng tạo trong lao động, đặc biệt trong truyền thống thâm canh lúa nước đã biến vùng đất hoang sơ Thái Bình xưa kia thành vựa lúa của cả nước. Trong suốt chiều dài phong kiến, Thái Bình luôn được chọn làm kho lương thực đảm bảo quân lương cho quân đội, là căn cứ quân sự vững mạnh. Và trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thái Bình lúc nào cũng là hậu phương vững với khẩu hiệu “thóc thừa cân, quân vượt mức”. Tự hào với danh hiệu “quê hương 5 tấn”, Thái Bình đang và sẽ là quê hương đi đầu trong thâm canh lúa nước.

Bên cạnh trồng trọt, Thái Bình còn nổi tiếng với các nghề thủ công truyền thống như: dẹt vài và tơ lụa ở Then, Mẹo (Hưng Hà); Bơn, Đọ (Đông Hưng), Cao Bạt (Kiến Xương), Bộ La (Vũ Thư); dệt chiếu làng Hới (Hưng Hà); đúc đồng An Lộng (Quỳnh Phụ); rèn sắt Cao Dương (Thái Thụy), chạm bạc Đồng Sâm (Kiến Xương); mộc ở Vế, Diệc (Hưng Hà) và Đông Hồ (Thái Thụy);... Theo các tài liệu lịch sử, các địa danh cũng như các di tích lịch sử để lại thì ngay từ thế kỷ I đã xuất hiện nghề dệt ở Thái Bình, các thế kỷ tiếp theo, vào thời Trần đã có các nghề rèn, đúc, khảm trai, sơn mài, móc, đan lát, mây tre... Cuối thế kỷ thứ X, nghề dệt chiếu đã thịnh hành ở Thái Bình, nghề chạm bạc ở Đồng Xâm (Kiến Xương) đã xuất hiện từ thế kỷ XVII (năm 1680).

Ngược dòng lịch sử, theo một số tài liệu của Pháp để lại, vào cuối năm 1941, ở 5 huyện (Kiến Xương, Đông Hưng, Tiền Hải, Vũ Thư, Hưng Hà) đã có 65 cơ sở dệt tơ lụa với 750 thợ lành nghề, chiếm 10% số thợ lành nghề của cả vùng Bắc Bộ lúc bấy giờ. Trong số các làng nghề ở Thái Bình, có nhiều làng nổi tiếng được cả nước biết đến như dệt Phương La (Hưng Hà), Bộ La (Vũ Thư), Đọ (Đông Hưng), Ngọc Đường (Kiến Xương), Vân Tràng (Thái Thụy), các mặt hàng chế biến từ tơ tằm, bông, đay, cói, gai vô cùng phong phú và nghề dệt vải, tơ tằm là nghề phổ biến nhất của Thái Bình. Câu ví “Lụa Bộ La, là Sóc, đũi Ngọc Đường” vải Bơn, vải Bái, lụa Nguyễn là những câu phương ngôn điển hình được dân gian lưu truyền. Đặc biệt, như nghề dệt chiếu ở làng Hới (làng Hải Triều, xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà), với câu ca “Ăn cơm hom, nằm giường hòm, đắp chiếu Hới” và từ làng này đã phát triển nghề dệt chiếu ở nhiều nơi trong tỉnh với nhiều mẫu mã khác nhau như chiếu ở các xã An Tràng, An Vũ (huyện Quỳnh Phụ), Đông Hà (huyện Đông Hưng), An Hạ (huyện Tiền Hải),... Nhiều tài liệu còn ghi chép làng Hới và thợ làng Hới đã một thời là trung tâm buôn bán, trao đổi sản xuất của nghề chiếu. Tại làng Hải Triều (xã Tân Lễ, huyện Hưng Hà), vào đầu thế kỷ XX, người Hoa đã về đây lập ra hai cơ sở dệt chiếu, đó là cơ sở Vạn Sinh và cơ sở Minh Ký. Với hai cơ sở này lúc bấy giờ đã thu hút 2.500 hộ tham gia, mỗi năm sản xuất 12.000 - 15.000 lá chiếu, số chiếu làm ra phần lớn được mang về Trung Quốc tiêu thụ. Ngoài ra, Thái Bình còn có rất nhiều nghề truyền thống khác ở các địa phương ngoài nghề dệt vải, dệt chiếu cói như chạm bạc, đúc đồng, thêu, thảm len, mây tre đan, mộc, chế biến lương thực, thực phẩm, làm bánh cáy, bánh đa, bún, bánh...

Mặc dù bị hạn chế vì tính chất tự cung tự cấp của các làng xã, song với bàn tay khéo léo của người dân Thái Bình, các sản phẩm thủ công đã có một ví trí không thể thiếu trong đời sống đa dạng, thường nhật của cư dân nông nghiệp. Một số sản phẩm không chỉ phục vụ nhu cầu tại chỗ mà còn vượt ra khỏi phạm vi làng xã đến với sự trân trọng, đánh giá cao của đông đảo cư dân ở nhiều vùng, miền khác nhau trong cả nước.

3. Tinh thần thượng võ, kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc

Do địa thế chiến lược của vùng đất ven biển với các cửa sông lớn như cửa Ba Lạt (cửa sông Hồng), cửa Hộ (cửa sông Diêm), cửa Luộc (nơi sông Hồng đổ vào sông Luộc), từ cửa Tuần Vường đến Bố Hải xuống cửa Trà (các cửa sông Trà Lý)... nên trong lịch sử dựng nước và giữ nước, vùng đất nay thuộc tỉnh Thái Bình vẫn từng được xác định là một trong những cửa ngõ hiểm yếu của Tổ quốc. Trong các cuộc chiến tranh ái quốc, trải qua hàng nghìn năm đương đầu với mọi kẻ thù, cư dân trong các làng xã của Thái Bình từng sớm phải chống chọi với các đạo quân xâm lược và hải tặc từ đường biển tiến vào các cửa sông để tiến đánh sâu vào nội địa. “Sóng cửa Trà, ma cửa Hộ” vốn từng là nỗi kinh hoàng của nhiều đạo quân xâm lược đến Việt Nam thuở trước. Cũng chính vì vị thế chiến lược này cùng với Thái Bình là vựa lúa, kho lương của vùng mà nhiều lãnh tụ khởi nghĩa thời Bắc thuộc và các vương triều phong kiến đều chú ý xây dựng lực lượng bố phòng trên đất Thái Bình.

Ngay buổi đầu Công nguyên, mùa xuân năm 40, đáp lại lời hịch cứu nước của Hai Bà Trưng, nhiều anh hùng hào kiệt Thái Bình đã nhất loạt nổi dậy, không địa bàn nào là không có lực lượng khởi nghĩa. Tiêu biểu cho thủ lĩnh địa bàn phía Bắc tỉnh phải điểm đến người phụ nữ tài sắc nổi tiếng Vũ Thị Thục tự xưng là“Bát nạn tướng quân“ phất cờ khởi nghĩa ở Tiên La (Đoan Hùng - Hưng Hà), Lê Đô (xã An Khê, huyện Quỳnh Phụ); Nguyễn Thị Cẩm Hoa người làng Thượng Phán (Quỳnh Hoàng, Quỳnh Phụ); Quế Hoa (Vũ Thư); Bắc Nương, Đống Lang (Thái Thụy); Đặng Chấn, Đặng Minh, Đặng Mẫn (Hưng Hà);...

Vào thế kỷ VI, để nổi dậy lật đổ ách đô hộ của nhà Lương, người anh hùng Lý Bí đã chọn vùng đất hiểm trở nay thuộc địa phận Thái Bình để nhen nhóm lực lượng đầu tiên cho đại nghiệp dựng nước Vạn Xuân.

Vào thế kỷ X, Bố Hải Khẩu nay thuộc thành phố Thái Bình là vùng đất hiểm yếu về quân sự. Khi đất nước xảy ra cảnh loạn lạc 12 sứ quân thì Trần Lãm đã chiếm giữ vùng đất này rồi trở thành một sứ quân mạnh nhất với mưu lược thôn tính dần các sứ quân khác. Biết thế đất hiểm trở và lực lượng của Trần Lãm hùng mạnh, Đinh Bộ Lĩnh đã tìm đến xin nương tựa để từ đây mưu nghiệp đế vương.

Bước sang triều Lý, những dấu tích của cuộc kháng chiến chống Tống trên những làng xã cổ của Thái Bình không còn nhiều lắm. Nhưng từ vùng đất sông nước này vào cuối triều Lý đã xuất hiện một số dòng họ quý tộc như họ Lưu, họ Đàm, họ Tô có những nhân vật nắm giữ những cương vị trọng yếu trong triều như Thái úy Lưu Khánh Đàm, Thái phó Lưu Ba, Đàm Dĩ Mông, Tô Trung Từ quê ở vùng đất Ngự Thiên (nay thuộc huyện Hưng Hà).

Từ cuối thế kỷ XII tại vùng đất Hải Ấp (nay thuộc huyện Hưng Hà) họ Trần đã mưu nghiệp lớn. Từ đất Long Hưng, họ Trần làm nên nghiệp đế và cũng chính đất này là nơi thực hiện cuộc lui binh của nhà Trần để lập hậu cứ chống quân Mông - Nguyên. Làng Chúa, làng Triều Quyến, làng Đình Ngự (Hưng Hà) là những làng xã trọng yếu để các gia quyến triều thần về lánh nạn. Năm 1250, triều đình đã cho lập những kho gạo lớn có tên A Sào, Tiểu Nẫm, Đại Nẫm, nay thuộc địa phận của các xã An Đồng, An Thái, Quỳnh Thọ (Quỳnh Phụ), giao cho Trần Quốc Tuấn trấn giữ. Nhiều làng xã thuộc vùng đất này đã rèn đúc vũ khí tập trung tại Am Qua (xã An Đồng, huyện Quỳnh Phụ). Một phòng tuyến kiên cố, hiểm trở được xác lập dọc theo sông Luộc, sông Hóa thuộc các làng xã từ Hưng Hà đến Quỳnh Phụ, Thái Thụy. Hệ thống đồn trại từ cửa Hải Thị (Tân Lễ, Hưng Hà) đến ngã ba Nông (Điệp Nông, Hưng Hà) là lực lượng thủy quân thiện chiến do Yết Kiêu quản lãnh. “Đào Động, Lộng Khê, Tô Đê, A Sào” từng gắn với những võ công của Trần Hưng Đạo và các danh tướng của nhà Trần. Có thể thống kê được những đồn binh lớn, những kho đụn quân lương lớn trải dài ở vùng đất này như đồn Gọc Vòi (Thụy Hưng, Thái Thụy), đồn Gọc Chợ (Thụy Việt, Thái Thụy), Lưu Đồn, Vạn Đồn (Thụy Hồng, Thái Thụy), Phương Man (Thụy Dũng, Thái Thụy), kho Đại Nẫm (Quỳnh Thọ, Quỳnh Phụ), kho Mễ Thương (An Thái, Quỳnh Phụ), kho Phong Nẫm (Thụy Phong, Thái Thụy)... các bãi tập trận, bãi cọc ngầm từ cửa Hải Thị (cửa Luộc) đến Bát Đụn trang (cửa sông Thái Bình) và cửa Ba Lạt (cửa sông Hồng)... còn lưu dấu tích qua các địa danh.

Cuộc kháng chiến chống quân Mông - Nguyên trên đất Thái Bình đáng được coi là điển hình của một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện bằng nghệ thuật thủy chiến. Trải qua thử thách và rút ra những bài học từ cuộc kháng chiến chống Mông - Nguyên (thế kỷ XIII) đến cuộc kháng chiến chống Minh (thế kỷ XV), thế trận diễn ra trên đất Thái Bình tuy không rộng lớn, đều khắp như ở thời Trần nhưng phần nhiều những địa danh quân sự thời Trần lại được lập lại ở cuộc kháng chiến chống Minh như cửa Đại Toàn (cửa Diêm), cửa Ba Lạt, cửa sông Thái Bình... Chỉ tính những cứ điểm trọng yếu của các nghĩa quân từ Thái Bình nổi lên theo thế tứ giác ở bốn điểm trên đất Thái Bình như Đoàn Mãnh ở vùng Quảng Nạp (Thụy Trình, Thái Thụy), Phạm Bôi ở vùng Đông Linh (An Bài, Quỳnh Phụ), Bùi Đằng Liêu ở vùng Thụy Lũng (Quốc Tuấn, Kiến Xương), Tân Đệ (Vũ Thư) cũng đủ thấy thế trận tiến công giặc Minh của các làng xã ở Thái Bình được phối hợp triển khai bằng hệ thống liên hoàn của các con sông lớn. Những địa danh đường Ngô Lột, đấu Đong Quân, đền Trại Đồn đã được nhắc tới ở những trang trên vốn là dấu tích văn hóa vũ trang thời Lê trên đất Thái Bình.

Sự đa dạng trong văn hóa vũ trang của cư dân Thái Bình còn cần được tìm hiểu kỹ hơn qua sự thăng trầm của lịch sử Việt Nam với các sự kiện lớn. Chẳng hạn: ở thế kỷ XVI nhà Mạc đã chọn vùng đất Phụ Dực (cũ) làm thánh địa để củng cố căn cứ Hải Đông. Dấu ấn thành lũy của nhà Mạc nay vẫn còn khá rõ trên vùng đất hai huyện Hưng Hà, Quỳnh Phụ. Ở thế kỷ XVIII, Lê Chiêu Thống đã về vùng nam Kiến Xương để lập đại bản doanh. Đặc biệt là các cuộc khởi nghĩa nông dân chống lại sự cai trị hà khắc của triều đình phong kiến vào những thế kỷ XVIII - XIX với đỉnh cao là hai cuộc khởi nghĩa lớn ở Thái Bình trước và sau phong trào Tây Sơn mà lãnh tụ của hai phong trào này từng được cả nước biết đến đó là Hoàng Công Chất (thế kỷ XVIII) và Phan Bá Vành (thế kỷ XIX).

Khi Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam (1858), ở Thái Bình đã sục sôi khí thế chống Pháp, nhiều nghĩa sĩ đã lên đường theo đoàn quân Nam tiến. Pháp tiến đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất (1873), ở Thái Bình đã sớm hình thành các căn cứ kháng Pháp. Những căn cứ lớn có sức quy tụ nhiều làng trong vùng vào thời điểm này phải kể đến Động Trung (Kiến Xương), Văn Môn (Vũ Thư), Yên Tứ Hạ (Tiền Hải)... gắn liền với tên tuổi của các thủ lĩnh như Nguyễn Mậu Kiến, Doãn Khuê... Pháp tiến đánh Bắc Kỳ lần thứ hai (1883), ngoài các căn cứ, các thủ lĩnh trên là đồng loạt các cuộc vũ trang chống Pháp của Đinh Tiến Đức trên triền sông Luộc, Lê Nguyên Quang ở vùng Kiến Xương - Tiền Hải tiếp đó là những căn cứ của Bang Tốn ở vùng Tam Nông (Hưng Hà), Phạm Huy Quang vùng Đọ (Đông Hưng), Đốc Nhưỡng vùng Đô Kỳ (Hưng Hà), Lãnh Hoan vùng Thọ Vực (Đông Hưng), Nguyễn Thành Thà vùng Phan Bổng (Hưng Hà)... Khi vua Hàm Nghi xuống chiếu Cần Vương, hầu khắp các làng xã ở Thái Bình đã đồng loạt vũ trang Cần Vương. Ngoài các căn cứ, các thủ lĩnh kể trên còn có hàng chục thủ lĩnh khác là những văn thân, sĩ phu yêu nước lập ra từ một làng rồi liên làng, liên huyện tổ chức đánh Pháp ròng rã hàng chục năm. Khi Kỳ Đồng Nguyễn Văn Cẩm từ Angiêri về nước mộ dân lên Yên Thế mở đồn điền lập căn cứ kháng Pháp thì quần chúng yêu nước ở nhiều làng xã lại hào hứng hưởng ứng. Nhiều nho sĩ, trí thức ở các làng xã trong tỉnh có vai trò đặc biệt trong việc tổ chức lực lượng, hoạch định các kế sách để vũ trang kháng Pháp. Có những lãnh tụ vũ trang, không trực tiếp hoạt động trên đất Thái Bình nhưng lại có ảnh hưởng đặc biệt như trường hợp Tiến sĩ Phạm Thế Hiển (Luyến Khuyến, Thái Thụy), Hoàng giáp Nguyễn Quang Bích (Trình Phố, Tiền Hải). Những gương mặt trí thức yêu nước ở Thái Bình có nhiều đóng góp cho văn hóa vũ trang kháng Pháp trước ngày có Đảng (1930) ngoài Phạm Thế Hiển, Nguyễn Quang Bích phải kể đến: Nguyễn Mậu Kiến, Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Bản (Động Trung, Kiến Xương), Doãn Khuê và anh em con cháu dòng họ Doãn (Song Lãng, Vũ Thư), Nguyễn Doãn Cử, làng Dũng Nghĩa (Vũ Thư), Trần Xuân Sắc (Đông Thành, Tiền Hải), Phạm Huy Quang (Phù Lưu, Đông Hưng)... và các võ tướng là thủ lĩnh của các phong trào kể trên.

Kế thừa truyền thống đấu tranh của các thời kỳ trước, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã lãnh đạo, tổ chức cuộc chiến tranh nhân dân theo tư tưởng quân sự mới thì các làng xã ở Thái Bình lại tiếp tục vào trận, đưa nghệ thuật chiến tranh nhân dân lên tầm cao mới. Trải qua cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, văn hóa quân sự thời Hồ Chí Minh đã bồi tụ thêm vốn văn hóa quân sự trong từng làng xã ở Thái Bình. Các hình thức đấu tranh vũ trang, bán vũ trang, tiêu thổ kháng chiến, rào làng kháng chiến, phá bốt diệt đồn, chiến tranh du kích kết hợp bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân du kích, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang trong từng thời kỳ, trong từng trận đánh... đã làm nên nghệ thuật quân sự tài tình trong chiến tranh nhân dân, chiến tranh giải phóng. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, nhiều làng kháng chiến của Thái Bình đã gắn liền với những chiến công lớn được lịch sử ghi nhận, mà làng Nguyên Xá (Đông Hưng) được tặng cờ “Làng kháng chiến kiểu mẫu” là một điển hình. Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, quân dân ở Thái Bình được tặng cờ “Quân dân một lòng tiêu diệt quân địch” là một sự ghi nhận văn hóa vũ trang ở Thái Bình đã phát triển đến đỉnh cao trong thời kỳ hiện đại.

Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, vốn văn hóa vũ trang của từng làng không chỉ để trang bị cho con em lên đường đi các chiến trường, mà ngay trên đất Thái Bình phải tìm cách đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ và sẵn sàng chờ đón sự đổ bộ từ biển vào của đối phương bằng gián điệp, bằng tình báo... Sự sáng tạo để vừa sản xuất, vừa chiến đấu “tay cày, tay súng”, “tay búa, tay súng”, “tay bút, tay súng” của từng làng, từng vùng đã góp phần làm cho văn hóa vũ trang thời đánh Mỹ ở Thái Bình thêm phong phú. Chính nhờ kế thừa vốn văn hóa vũ trang của từng làng xã mà con em ở Thái Bình tham gia quân đội đã lập được nhiều chiến công qua hai cuộc kháng chiến. Cũng chính nhờ vốn văn hóa vũ trang mà từ vùng đất tiền tiêu, chịu nhiều tấn bom đạn của hải quân và không quân Mỹ mà vào những tháng năm ác liệt nhất, Thái Bình đã viết nên bài ca năm tấn đầu tiên và xứng đáng với tên gọi là “pháo đài bên bờ Biển Đông”.

4. Truyền thống dân chủ

Với lịch sử di cư, khai hoang lập làng, chống chọi với thiên nhiên, cải tạo thiên nhiên để xây dựng mảnh đất Thái Bình trù phù và kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm, người dân Thái Bình đã sớm hình thành tính dân chủ. Đời nối đời, tính dân chủ đó đã trở thành một truyền thống quý báu của người dân Thái Bình.

Ngay từ thuở ban sơ trên mảnh đất này, không có người thủ lĩnh, không có người đứng đầu, người dân từ các hướng đổ về đã tự mình đứng lên khai hoang, lập làng, cải tạo thiên nhiên biến mảnh đất sình lầy, lau lác, hoang sơ thành mảnh đất trù phú, màu mỡ. Cho đến khi hình thành nhà nước Văn Lang, hay suốt thời kỳ Bắc thuộc, người dân Thái Bình vẫn làm chủ được ngôi làng của mình, những người đứng đầu mỗi làng đều là người địa phương, người chủ của mảnh đất này vẫn thật sự là người dân. Và tính dân chủ còn thể hiện ở việc người dân Thái Bình không bị các nước phương Bắc đồng hóa về văn hóa, phong tục, tập quán.

Và trong suốt chiều dài phong kiến, tính dân chủ của người dân Thái Bình được thể hiện mạnh mẽ qua hệ thống các hương ước, quy ước, tục lệ của làng. Dân gian có câu “phép vua còn thua lệ làng” đã cho thấy tính làm chủ của người dân vô cùng mạnh mẽ đối trọng với quyền lực phong kiến. Tiểu biểu cho truyền thống dân chủ của người dân Thái Bình là các cuộc khởi nghĩa của nông dân chống lại chính quyền phong kiến phản động. Trong đó phải kể đến hai cuộc khởi nghĩa nông dân của Hoàng Công Chất và Phan Bá Vành.

Tiếp nối truyền thống của cha ông, trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới, Thái Bình đã tập trung thực hiện chương trình “điện, đường, trường, trạm, nước sạch và điện thoại”, với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, lấy người dân làm chủ và người dân là chủ trong thực hiện chủ trương này. Từ điểm nóng toàn quốc về mất ổn định chính trị những năm 1997 - 1999, Thái Bình là chiếc nôi dân chủ, được Trung ương chọn làm điểm để nghiên cứu, ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong công cuộc xây dựng nông thôn mới hiện nay, dân chủ được phát huy tối đa với khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đã mang lại những kết quả to lớn trong việc xây dựng nông nghiệp, nông dân, nông thôn, diện mạo nông thôn của tỉnh có sự đổi thay rõ rệt, đời sống người dân không ngừng được nâng lên. Phát huy truyền thống dân chủ, và nhớ lời Bác dạy “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong” Thái Bình đang, và sẽ nêu cao tinh thần làm chủ của nhân dân để xây dựng Thái Bình ngày càng văn nminh, giàu đẹp.

5. Miền đất đậm đà những nét đẹp văn hóa truyền thống

Không chỉ có truyền thống lao động, sản xuất, chống giặc ngoại xâm, Thái Bình còn chứa đựng cả một đời sống sinh hoạt văn hóa truyền thống vừa mang những nét đặc trưng văn hóa tiêu biểu của cư dân đồng bằng sông Hồng, vừa có những sắc thái riêng do tác động sâu sắc của đặc điểm hình thành đất đai - dân cư. Đó là sắc thái văn hóa của vùng chiêm trũng hạ lưu sông Hồng vừa đa dạng vừa cởi mở, phóng khoáng.

Về lĩnh vực di sản văn hóa vật thể, Thái Bình hiện tồn tại trên 3.000 di tích, là các thiết chế văn hóa làng xã gồm các loại: đình, đền, chùa, miếu, phủ, điện, từ đường dòng họ... trong đó có 2 di tích Quốc gia đặc biệt, 114 di tích Quốc gia và 550 di tích cấp tỉnh. Cùng với các thiết chế đó là hàng chục nghìn các hiện vật, di vật được lưu giữ, bảo tồn tại di tích ở các huyện, thành phố và bảo tàng tỉnh. Trong đó có rất nhiều cổ vật và bảo vật quốc gia bằng nhiều chất liệu và loại hình (gỗ, đá, kim loại, giấy, vải, đất nung, gốm, sứ...).

Về lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể: Đất Thái Bình mãu mỡ lại ở gần biển, khí hậu gió màu nóng ẩm là môi trường lý tưởng để cho cây lúa nước phát triển, vì vậy Thái Bình là điển hình của văn minh lúa nước, văn minh sông Hồng. Biểu hiện văn hóa này trước hết đã được hội tụ sâu sắc qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, tín ngưỡng tôn giáo mà sự phản ảnh rõ nét nhất là qua các lễ hội, trò chơi dân gian, diễn xướng dân gian, múa dân gian,...

Ở Thái Bình ngày nay hầu như xã nào cũng có lễ hội truyền thống, xã ít là một lễ hội, xã nhiều có tới bốn lễ hội. Thái Bình có đủ các loại hình lễ hội: lễ hội nhằm tái hiện cuộc sống nông nghiệp; lễ hội tôn vinh những anh hùng dân tộc, những người có công với dân, với nước; lễ hội tái hiện phong tục tín ngưỡng; lễ hội đua tài, vui chơi giải trí... Nhiều lễ hội có quy mô lớn như hội chùa Keo ở xã Duy Nhất, huyện Vũ Thư (một năm hai lần mở hội vào mồng 4 tháng giêng và từ 13 đến 15 tháng 9); lễ hội đền Trần ở làng Tam Đường, xã Tiến Đức, huyện Hưng Hà; lễ hội đền Tiên La, đền Buộm ở xã Đoan Hùng, Tân Tiến (Hưng Hà) từ ngày 10 đến 20 tháng 3, ngày giỗ của Bát Nạn tướng quân; lễ hội đền A Sào, Đồng Bằng (Quỳnh Phụ), đền Chòi ở xã Thụy Trường, đền Lưu Đồn, Vạn Đồn, Tu Trình (Thái Thụy), vào dịp tháng 8 giỗ Hưng Đạo Đại Vương. Đặc biệt, đền Đồng Bằng còn thờ vua cha Bát Hải Đại Vương, các thánh mẫu, các quan hoàng... nơi hội tụ con nhang đệ tử của đạo Mẫu trong cả nước... Những lễ hội này đã thu hút hàng vạn, chục vạn người về dự. Ngoài các lễ hội kể trên còn phải kể đến những lễ hội có quy mô vùng miền như hội Đồng Xâm (Kiến Xương), hội Lạng, hội miếu Hai Thôn, hội chùa Múa (Vũ Thư), hội đền Quang Lang (Thái Thụy), hội La Vân, hội Lộng Khê (Quỳnh Phụ), hội làng Thượng Liệt, hội chùa Thiên Quý (Đông Hưng)... Các lễ hội trình nghề tiêu biểu như: trình nghề nông nghiệp ở làng La Vân (Quỳnh Hồng), trình nghề dệt chiếu ở hội làng Hới (Hưng Hà), trình nghề chạm bạc ở hội Đồng Xâm (Kiến Xương),... Ở hầu hết các lễ hội trong tỉnh đều có những nghi thức gắn với nông nghiệp như tục rước nước, đua thuyền... Hội làng Quang Lang xã Thụy Hải (Thái Thụy) rước nước trên vịnh biển; hội Bổng Điền, Kiến Xá (Vũ Thư), nhiều hội rước nước trên sông Trà Lý, sông Luộc, sông Hóa... Hội đua thuyền (bơi trải) diễn ra ở nhiều nơi như Đồng Xâm, Lại Trì (Kiến Xương), Đồng Bằng (Quỳnh Phụ), chùa Keo (Vũ Thư), Diêm Điền (Thái Thụy)...

Cùng với các lễ hội truyền thống là các trò chơi dân gian, diễn xướng dân gian, múa dân gian... Múa dân gian như múa cờ, múa trống, múa sênh tiền - mõ lộn, múa sư tử, múa tứ linh, trong đó có những điệu múa có lịch sử lâu đời như: giáo cờ giáo quạt ở làng Thượng Liệt, xã Đông Tân (Đông Hưng), múa bát dật ở làng Lộng Khê, làng Hiệp Lực xã An Khê (Quỳnh Phụ), múa kéo chữ ở nhiều làng thuộc huyện Quỳnh Phụ. Các trò chơi mang tính thượng võ, thi tài diễn ra ở nhiều địa phương như chơi đu, vật cầu, thi vật, đánh gậy, kéo co hố, thi bơi trải,... lại có các trò chơi tối cổ như trò ông Đùng bà Đà, trò đánh hổ, săn bắt cuốc... Các trò chơi đấu trí, thi tài: nấu cơm thi, làm cỗ thi... như thi gói bánh chưng ở làng Nghìn, làm bánh dầy ở làng Bệ (Quỳnh Phụ), thi làm cỗ chay ở làng Lạng (Vũ Thư), thi bắt cá ở Tam Đường, Lưu Xá (Hưng Hà), làm cỗ cá ở Tam Đường, Dương Xá, Vân Đài,...

Nghệ thuật diễn xướng dân gian ở Thái Bình rất đa dạng tuồng, hát ca trù, hát chầu văn, hát đúm, hát đò đưa, hát trống quân, cò lả... Nhưng nổi bật nhất là nghệ thuật hát chèo với chiếu chèo sân đình có mặt ở hầu hết các làng của Thái Bình. Nhiều làng có phường, gánh chèo lớn như: chèo Hà Xá (Hưng Hà), chèo làng Khuốc (Đông Hưng) và chèo Sáo Đền (Vũ Thư). Sự tồn tại, phát triển lâu đời của các hành chèo đã là nguyên nhân để Thái Bình được coi là “cái nôi chèo” ở vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Cùng với hát chèo, múa rối nước, một loại hình sân khấu độc đáo, con đẻ của vùng sông nước cũng xuất hiện để nhắc tới Thái Bình là nhắc tới vùng quê “sớm rối, tối chèo”. Một loại hình nghệ thuật gắn với ao hồ là múa rối nước, Thái Bình xưa có 7 phường rối nước, nay còn 2 làng Nguyễn và Đống (thuộc huyện Đông Hưng), đây là những phường rối có lịch sử lâu đời, có nhiều trò diễn đặc sắc.

Đời sống văn hóa phong phú, đa dạng đã nuôi dưỡng nên những người con Thái Bình lạc quan, yêu đời dù đứng trước những thử thách ác nghiệt của thiên nhiên, hay trước những thủ đoạn tàn bạo của quân thù.

6. Truyền thống hiếu học, khoa bảng

Sản sinh từ miền đất giàu bản lĩnh ý chí, trưởng thành đắm mình trong môi trường nhiều chất văn hóa lành mạnh, tiếp thu có sáng tạo truyền thống của ông cha, con người Thái Bình qua nhiều thế hệ đã trau dồi hiểu biết, hòa nhập và vươn tới đỉnh cao của tri thức đương thời, để Thái Bình trở thành vùng đất văn hiếu, hiếu học, khoa bảng nổi trội, thời nào cũng có nhân tài, người đỗ đại khoa. Trải qua gần 1.000 năm Nho học, cả nước có gần 3.000 trí thức, đại khoa, trong đó Thái Bình có hơn 120 người. Nếu kể từ Đặng Nghiêm người làng An Để nay thuộc xã Hiệp Hòa huyện Vũ Thư đỗ đại khoa sớm nhất tỉnh Thái Bình vào năm 1185 đến Trịnh Hữu Thăng, người làng Bách Tính xã Bách thuận, huyện Vũ Thư đỗ khoa cuối cùng vào năm 1919, thì truyền thống học hành, khoa cử của Thái Bình trải gần nghìn năm liên tục.

Đọc lại các sách khoa lục, xem xét số người lấy đỗ ở mỗi khoa, thấy trong nhiều khoa thị, nhất là từ thời Lê sơ trở về sau, người Thái Bình thường chiếm tỷ lệ đỗ đạt cao, có tới hơn 10 khoa thi, người Thái Bình chiếm tỷ lệ đỗ từ 30% đến 50% tổng số người đỗ đạt. Đặc biệt khoa thi Nhâm Thân (1752), cả nước lấy đỗ 6 người thì Thái Bình có 4 người đỗ( Đỗ đầu là Tam nguyên bảng nhãn Lê Qúi Đôn (Hưng Hà), người đỗ thứ hai là Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục (Quỳnh Phụ), tiếp theo là tiến sĩ Nghiêm Vũ Đẳng (Thái Thụy) và tiến sĩ Nguyễn Xuân Huyên (Vũ Thư)).

Trong các khoa thi Nho học thời phong kiến, Thái Bình có nhiều người được bảng vàng, bia đá khắc ghi. Đó là trường hợp Tam nguyên Trạng nguyên Phạm Đôn Lễ (Hưng Hà) đỗ năm 1481 được coi là người đỗ Tam nguyên đầu tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam; trạng nguyên Đỗ Lý Khiêm (Vũ Thư) đỗ năm 1499; Hoàng Công Lạc (Hưng Hà) chưa đến 18 tuổi đã đỗ Hương cống và năm 24 tuổi đỗ tiến sĩ (năm 1712),... Song vượt lên trên tất cả, niềm tự hào của Thái Bình vẫn là tri thức uyên bác, bản lĩnh văn hóa trác việt của Bảng nhãn Lê Qúy Đôn - nhà bác học lớn của Việt Nam thời phong kiến. Ông đã để lại cho đường đại và hậu thế khối lượng trước tác đồ sộ, làm phong phú thêm kho tàng học thuật của nước ta, xứng đáng là “Ngôi sao sáng trên bầu trời Việt Nam, làm vẻ vang cho dân tộc, giống nòi”.

Đáng chú ý, trong truyền thống học hành, khoa bảng ở Thái Bình là truyền thống đỗ đạt của nhiều gia đình, dòng họ. Những gia đình, những dòng họ có truyền thống khoa bảng thường tập trung ở một làng làm nên làng khoa bảng. Trong các vị đỗ đại khoa ở Thái Bình có tới 6 trường hợp là cha con, 5 trường hợp là anh em, 4 trường hợp là ông cháu, và nhiều trường hợp là họ hàng cùng đỗ đại khoa. Nổi bật là dòng họ Đỗ ở Quỳnh Phụ liên tiếp 5 đời có 6 cha con, anh em, ông cháu nối tiếp nhau thi đỗ đại khoa.

Hầu hết các trí thức đại khoa của Thái Bình đều thực hiện được hoài bão lập công, lập ngôn, lập danh ở những lĩnh vực khác nhau. Trong sự nghiệp kinh bang tế thế, nhiều nhà khoa bảng của Thái Bình đã có đóng góp trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Nhiều người đã có những đóng góp quan trọng trong các lĩnh vực sử học, văn học, luật pháp như: Quách Đình Bảo, Quách Hữu Nghiêm, Đoàn Huệ Nhu, Nguyễn Tông Quai, Bùi Sĩ Tiêm, Lê Qúy Đôn, Đoàn Nguyên Thục, Nguyễn Quang Bích, Đào Nguyên Phổ, Nguyễn Can Mộng,...

Thời Pháp thuộc, những năm đầu của thế kỷ XX, do sự chuyển đổi từ nền giáo dục “Hán học” sang nền giáo dục “tân học”, chữ quốc ngữ được thay thế cho chữ Hán thì khoa cử Hán học cũng chấm dứt. Với mục đích cai trị, thực dân Pháp chỉ phát triển giáo dục một cách nhỏ giọt, hạn chế tầm hiểu biết của nhân dân ta. Tuy nhiên, ngoài ý muốn của chính quyền thực dân, những người yêu nước, những nho sĩ, quan lại đã từ quan về quê mở trường dạy học; ở nhiều nơi trong tỉnh, phong trào học chữ quốc ngữ nở rộ, đã làm xuất hiện một đội ngũ trí thức mới và là lực lượng chính tiếp thu Chủ nghĩa Mác - Lênin, họ trở thành những nhà hoạt động cách mạng, chiến sĩ, đảng viên cộng sản gieo hạt giống cách mạng, tiêu biểu như: Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Văn Năng, Nguyễn Danh Đới...

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, hưởng ứng Lời kêu gọi chống nạn thất học của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phong trào bình dân học vụ ra đời và phát triển nhanh chóng, mạnh mẽ, rộng khắp vùng quê. Ở các thôn xóm của Thái Bình thường xuyên có hàng chục vạn người đủ mọi tầng lớp theo học. Sáng, chiều bận lao động sản xuất thì tranh thủ học trưa, học tối...Rất nhiều tấm gương tiêu biểu trong học tập ở Thái Bình giai đoạn này được Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư khen ngợi (cụ Nguyễn Văn Đản ở Hưng Hà, cô Phạm Thị Phương ở Tiền Hải...).

Từ những năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giáo dục Thái Bình thời kỳ này có các địa chỉ rất đáng tự hào trên cả nước như: Thăng Long - Đông Hưng (về giáo dục đạo đức); Thụy Thanh - Thái Thụy (vở sạch chữ đẹp); Tán Thuật - Kiến Xương (thể dục vệ sinh)...

Niềm tự hào sâu sắc về lớp lớp nhân tài đã trở thành một trong những yếu tố quan trọng khơi nguồn, dẫn mạch hình thành ở Thái Bình truyền thống học hành, khoa cử. Phát huy truyền thống ấy, ngày nay Thái Bình là địa phương có phong trào học tập phát triển mạnh mẽ. Học sinh Thái Bình vẫn giữ vững truyền thống hiếu học, học giỏi. Hằng năm, trong các kỳ thi quốc gia ở các cấp, học sinh Thái Bình luôn đạt giải cao, tỷ lệ đỗ vào các trường đại học, cao đẳng luôn ở top đầu của cả nước.

 Nguồn: .
20 tháng 6 2020

HD bạn qua dàn ý nha !

MB : -Dẫn dắt câu tục ngữ ''Uống nước nhớ nguồn''.

TB:

*Giải thích: "Uống nước nhớ nguồn".

-Nghĩa đen:+ ''Uống nước'' là hành động sử dụng nước có trong thiên nhiên , đã được lọc sạch.

                   + ''Nguồn'' là :nguồn gốc, cội nguồn của dòng nước.

=> Khi uống nước , ta phải  nhớ , trân  trọng nguồn nước  đã tạo ra nước để chúng ta sử dụng và sinh hoạt hàng ngày.

-Nghĩa bóng :+ ''Uống nước '' là hưởng thụ thành quả, kết quả của người khác.

                      +''nhớ nguồn'' là nhớ tới , biết ơn những người đã tạo ra thành quả cho chúng ta hưởng thụ.

==>Nghĩa cả câu :là lời khuyên nhủ của ông cha ta đối với con cháu, những ai đã, đang và sẽ thừa hưởng thành quả công lao của người đi trước phải  biết ơn những người đã tạo ra thành quả cho ta hưởng thụ.

*Tại sao ta lại phải uống nước nhớ nguồn?

-Vì đó là hành động đẹp, một nghĩa cử đẹp mà cha ông ta đã đúc kết lại qua bao đời nay nên chúng ta cần trân trọng, giữ gìn và phát huy vẻ đẹp truyền thống đó.

-Của cải vật chất các thứ do bàn tay người lao động miệt mài  vất vả làm ra.

-Đất nước giàu đẹp do cha ông gây dựng, gìn giữ tiếp truyền.

-Ghi nhớ công ơn của tổ tiên  (tục lệ thờ cúng tổ tiên, ngày lễ, Tết,...)

- Ghi nhớ công ơn dạy dỗ của thầy cô (chúc mừng ngày 20/11,...)

- Nhớ ơn những thế hệ đi trước đã bỏ công sức và trí tuệ làm cho đất nước phát triển như ngày hôm nay (ngày 27/7 tri ân các anh hùng liệt sĩ,...)

=>Vì thế,uống nước nhớ nguồn là đạo lí đúng đắn mà chúng ta phải nghe theo , thực hiện theo.

Vậy chúng ta cần làm gì để tỏ lòng biết ơn?

- Mỗi người cần có nhận thức đúng đắn, ý thức giữ gìn, bảo vệ và phát huy nét đẹp văn hóa bản sắc dân tộc bằng những hành động thiết thực : 

+tự hào với lịch sử anh hùng và truyền thống văn hóa vẻ vang của dân tộc.

+ tích cực học tập, lao động góp phần xây dựng đất nước.

+Có ý thức gìn giữ bản sắc, tinh hoa của dân tộc Việt Nam mình và đồng thời tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hóa của nước ngoài.

+ tiết kiệm, chống lãng phí khi sử dụng thành quả lao động của người khác.

KB:

-Nêu ý nghĩa của câu tục ngữ “uống nước nhớ nguồn”

-Bài học kinh nghiệm rút ra từ câu tục ngữ , liên hệ bản thân.

       

27 tháng 6 2020

      Qua quá trình lao động của nhân dân ta và trong hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã chống lại ngoại xâm và thiên tai khắc nghiệt, lập nên bao chiến công hiển hách, những trang sử vẻ vang, nhiều câu ca dao, tục ngữ thấm nhuần nhiều đạo lí làm người. Qua đó, chúng khuyên bao thế hệ người Việt Nam những lời khuyên bổ ích cho việc làm người. Chính đặc điểm lịch sử đó đã tạo nên một truyền thống tốt đẹp và quý báu của dân tộc ta, đó là đạo lý “uống nước nhớ nguồn” thể hiện lòng biết ơn đối với những ai đã tạo nên thành quả cho người đời sau hưởng thụ.

      Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là “uống nước nhớ nguồn”. “Uống nước” là sự hưởng thụ thành quả, sản phẩm vật chất và tinh thần. “Nguồn” chỉ nguồn gốc, nguồn cội và tất cả những thành quả mà con người được hưởng bao gồm cả con người, lịch sử, truyền thống. “Nhớ nguồn” là hành động mang tính đạo đức cao, hưởng thụ những thành quả không tự nhiên mà có, do đó, người hưởng thụ phải biết tri ân, giữ gìn, phát huy thành quả của người làm ra chúng.

      Câu tục ngữ như lời khuyên răn biết bao thế hệ sau về việc nhớ đến những người đã làm ra những thành quả cho mình hưởng thụ ngày nay. Cuộc đời có nhiều loại người cùng chung sống. Không phải ai cũng hiền lành, trung thực, đạo đức tốt, cũng có lắm kẻ dữ tợn, giả dối, vong ân bội nghĩa người làm ra thành quả. Câu tục ngữ thể hiện thật chính xác và sâu sắc ý nghĩa của mình nhằm khuyên răn những kẻ “khỏi vòng cong đuôi”, “có mới nới cũ”, “qua cầu rút ván”, “khỏi rên quên thầy”, “ăn cháo đá bát”,…

      Như ta đã biết, đất nước Việt Nam ta ngày xưa đã có những vị anh hùng lịch sử, từ Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Lê Lợi, Quang Trung,… đến Phan Bội Châu,Chủ tịch Hồ Chí Minh. Họ đã giúp giải phóng đất nước thoát khỏi chiến tranh cũng nhờ duy trì nền hoà bình dân tộc bền vững và đồng thời giúp đất nước ta tiến bộ, bắt nhịp theo thời đại. Họ là người có công với đất nước, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh. Do đó, nhân dân ta ngày xưa đã nhắc nhở:

       “Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba”

      Cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã chú ý rất nhiều đến chính sách xã hội để làm sao cho tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, xã hộ. Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với cải thiện đời sống của đại đa số nhân dân lao động cũng như kết hợp với xóa đói, giảm nghèo. Chúng ta đã cố gắng làm được nhiều việc để đền đáp công ơn thương binh, liệt sĩ, các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, người có công với nước. Vào dịp 27-7 hằng năm, ngày thương binh liệt sĩ, toàn Ðảng, toàn dân ta có dịp nhìn lại những việc đã làm để đền ơn đáp nghĩa thương binh, liệt sĩ.

      Cùng với các chuyến hành hương thăm lại chiến trường xưa, tổ chức lễ cầu siêu cho các linh hồn liệt sĩ đã hy sinh vì đất nước, nhiều hoạt động tri ân khác cũng đồng loạt diễn ra với sự thành kính, biết ơn những người đã ngã xuống. Chắc khó có nơi nào trên thế giới, hoạt động đền ơn đáp nghĩa lại có sức lan tỏa rộng khắp như ở Việt Nam, để rồi trở thành phong trào tri ân trong toàn xã hội, trở thành đạo lý “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước, nhớ nguồn”… Dân tộc Việt Nam là vậy, con người Việt Nam là vậy – chung thủy, nghĩa tình.

      Gần gũi với chúng ta hơn đó là cha mẹ. Từ khi mới lọt lòng, mỗi người đều đã ở trong vòng tay của mẹ. Ai ai cũng lớn lên qua những câu hát chứa chan tình thương. Rồi chính bố là người dẫn dắt ta đi khắp nẻo đường đời. Dù khôn lớn nhường nào, trong mắt cha mẹ, các con luôn là những đứa trẻ, luôn cần sự bảo bọc, che chở. Các thầy cô giáo là những người dạy dỗ chúng ta nên người. Họ trang bị cho chúng ta những hành trang vững chắc nhất để vào đời, đó là kiến thức. Do đó, ai cũng rất yêu mến cha mẹ, kính trọng thầy cô, không quên công lao to lớn của họ đã giúp chúng ta khôn lớn. Một lần nữa, đạo lí “Uống nước nhớ nguồn” được thể hiện cụ thể nhất

20 tháng 6 2020

Tháng một vừa qua, em đã được theo dõi một trận thi đấu thể thao rất hay, rất quyết liệt trên truyền hình. Đó là trận đấu bán kết giải bóng đá châu Á giữa Việt Nam và Qatar tại Trung Quốc. Sân bóng là một hình chữ nhật rộng lớn được vạch những dòng trắng ngang dọc. Dưới thảm cỏ xanh mướt, các cầu thủ áo trắng Việt Nam, áo đỏ Qatar dần tiến vào sân. Khi nhạc quốc ca mỗi nước vang lên, mười một cầu thủ của các đội tuyển đặt tay lên trái tim hát vang. Trọng tài tít còi và phất cờ báo hiệu trận đấu bắt đầu. Đội trưởng Lương Xuân Trường đặt trái bóng ở chính giữa sân, đá chuyền đi cho đồng đội. Các cầu thủ vạm vỡ chạy thật nhanh để giành bóng. Bóng được chuyền qua chân người này tới chân người khác. Bóng tới gần khung thành thủ môn, khán giả hò reo ầm ĩ để cổ vũ. U23 Qatar có quả đá phạt nên ghi bàn trước. Ngay sau đó, cầu thủ số 19 Nguyễn Quang Hải ghi bàn bằng một cú sút ấn tượng. Các cầu thủ Qatar lại ghi bàn bằng cú đánh đầu đẹp mắt nâng tỉ số lên 2-1. Họ chạy khắp sân để ăn mừng. Nhưng bất ngờ, chỉ sau hai phút, chân sút Quang Hải lại ghi bàn lần nữa. Trận đấu kết thúc với tỉ số hòa nên hai đội bước vào hiệp phụ. Hai hiệp phụ khốc liệt diễn ra vẫn không định phân thắng bại. Hai đội tuyển bước vào loạt đá luân lưu căng thẳng. Qatar mở tỉ số. Thủ môn Bùi Tiến Dũng đã nhanh chóng cản phá được hai cú sút của đội bạn. Phút giây cầu thủ Vũ Văn Thanh đứng trước trái bóng tròn để thực hiện lượt sút cuối, khán giả nín thở hồi hộp. Chỉ một giây sau đó, lưới của đội bạn đã rung lên. Mọi người vỡ òa trong chiến thắng. Niềm vui, niềm bất ngờ trong trận đấu hôm đó giờ em vẫn không thể quên.

20 tháng 6 2020

Ngày 22 tháng chín vừa qua em đã dịp được xem một trận thi đấu thể thao cầu lông vô cùng gay cấn trên tivi tại nhà cùng bố em. Trận đấu giữa cầu thủ của đội tuyển Việt Nam và cầu thủ của đội tuyển Indonesia trong Seegame 29.

Trận thi đấu cầu lông được diễn ra trong nhà, có rất nhiều khán giả đến cỗ vũ. Mỗi lần có một bàn thắng của một cầu thủ được ghi là tiếng trống, tiếng pháo tay reo hò lại vang lên rầm rộ. Cầu thủ của đội Việt Nam mặc áo màu đỏ, đi giày thể thao màu đỏ, còn cầu thủ còn lại mặc áo màu vàng đi giày màu đen. Tỉ số lúc bấy giờ là 1-0 đang giành phần thắng về cầu thủ của đội Indonesia. Trận đấu đang rất gay cấn bởi chỉ cần cầu thủ của đội Indonesia thắng 1 hiệp nữa là trận đấu cầu lông sẽ kết thúc. Lúc này, cả 2 đội đều rất quyết tâm vì thế mà trận đấu ngày càng diễn ra quyết liệt làm sao! Bên nào cũng tấn công dữ dội, đỡ cầu vô cùng điêu luyện. Thỉnh thoảng chú trọng tài lại phất cờ và thổi còi khi một trong 2 cầu thủ mắc lỗi. Điểm số của các đội cứ nhích dần lên 8-7, 8-8,… 22-21, 24-21. Khi thi đấu, cả 2 cầu thủ đều toát rất nhiều mồ hôi, họ thường xin nghỉ giải lao một lúc để uống nước và hội ý với huấn luyện viên. Cuối cùng, trận đấu cũng có kết quả khi cầu thủ Indonesia liên tiếp ghi bàn ở những phút cuối. Kết thúc trận đấu với tỉ số 2-0 với đội thắng là Indonesia.

Vận động cầu lông của viên của Việt Nam đã thi đấu hết mình. Em rất khâm phục tinh thần chiến đấu của cầu thủ cầu lông Việt Nam.

Trên đây là dàn ý và nội dung bài văn kể về một trận thi đấu thể thao - lớp 3 ngắn mà chúng tôi muốn chia sẻ đến bạn. Hy vọng bài văn kể về một trận thi đấu cầu lông trên đây có thể giúp các bé xây dựng ý tưởng viết bài tốt hơn.

2. Kể về một trận thi đấu cầu lông mẫu 2

Chiều chủ nhật vừa qua, trường em tổ chức thi đấu môn cầu lông giữa các đội khối 5. Chúng em là những cổ động viên nhiệt tình cho các đội. Mỗi đội gồm có hai cầu thủ một trai, một gái. Đội của lớp 5B gồm có chị Hải Yến và anh Trung Thành, đội 5C có anh Phi Long và chị Thùy Trang. Trận đấu diễn ra thật sôi nổi. Các tay vợt đều là những cầu thủ có kĩ thuật cao và phối hợp chặt chẽ, nên điểm số của hai đội luôn cân bằng. Nhiều pha bỏ nhỏ hay đập mạnh của đội này luôn được đội kia đỡ, đón và phản công lại thật tuyệt diệu. Mọi người nhận xét, cả hai đội đều ngang tài ngang sức. Nhưng trong thi đấu tất yếu phải có đội thắng đội thua. Đội 5B vừa nhích lên được 1 điểm thì bất ngờ bị một quả bỏ nhỏ của chị Thùy Trang, chị Hải Yến lao tới nhưng đã muộn. Số điểm lại cân bằng. Trận đấu cứ thế kéo dài… Sau phút nghỉ giải lao, hai đội lại tiếp tục trận đấu. Bằng một quả phát bóng lắt léo, anh Trung Thành đã nâng điểm số của đội mình lên. Và tiếp theo sau chị Hải Yến lại đem về cho đội mình một điểm nữa bằng một cú đập bật lưới. Trận đấu kết thúc trong tiếng la hét rầm trời của những cổ động viên.

20 tháng 6 2020

Trong đời sống, lao động học tập, ông cha ta – những thế hệ đi trước đã có những kinh nghiệm, những đúc kết lâu đời mà nó đã được khẳng định, liên hệ với thực tế qua nhiều thế hệ. Những đúc kết, kinh nghiệm đó đã được thể hiện dưới những câu nói hằng ngày, mang tính chất đơn giản. Qua thời gian, nhờ sự sáng tạo của nhân dân, những câu nói thường ngày đó đã được thể hiện, bộc lộ dưới những câu từ vần điệu, âm sắc, ngắn gọn, giàu hình ảnh và có tính biểu trưng cao, phổ biến trong nhân gian. Đó chính là những “túi khôn” giúp chúng ta vận dụng trong đời sống, suy nghĩ, lời ăn tiếng nói ở mọi lúc, mọi nơi. Chúng như lời gợi ý, sự trợ giúp giúp chúng ta có thể định hướng được con đường đúng đắn, hợp lí nhất. Tục ngữ dân gian Việt Nam được chia làm nhiều nhóm như tục ngữ về thiên nhiên, lao động sản xuất ; tục ngữ về con người xã hội... Nó phản ánh chung về những kinh nghiệm, luân lí, công lí, cũng có khi là sự phê phán.
Trong lao động, lí trí của con người đã được tôi luyện, con người đã biết phân biệt cái tốt, điều xấu, ý thức được về thẩm mỹ. Những sáng tác dân gian truyền miệng sâu lắng, những tư tưởng, quan điểm mà dân gian ta gửi gắm vào đó, chúng chính là những suy nghĩ, những điều thấm thía mà ông cha ta đã cảm nhận được. Thời xưa, tuy chưa có khoa học, nhưng bằng kinh nghiệm, tổ tiên chúng ta cũng đã nắm được trong một chừng mực nhất định quy luật của thiên nhiên.
Giữa người với người xuất hiện những câu tục ngữ rút ra ở sinh hoạt, có tính chất nhận xét, giải thích, khuyên răn, theo một luân lí và thế giới quan cảm nhất định.
Trong những việc đối nhân, xử thế, những người có trí thức thời xưa thường mượn những lời lẽ thánh hiền hoặc của những bậc cao nhân được trọng vọng để củng cố, khẳng định ý kiến, đề nghị của mình. Trong trường hợp ấy, những người lao động không có sách vở, họ chỉ biết dựa vào những thực tế, nói lên những câu tục ngữ là người nghe sẽ đồng tình, vì đó là ý kiến tập thể chung đúc lại. Tục ngữ được cấu tạo nên bởi lí trí nhiều hơn là cảm xúc. Tư tưởng trong tục ngữ là những tư tưởng hùng hồn, đanh thép, sắc bén, nhạy cảm nhưng cũng có lúc mềm dẻo, yểu điệu nhưng vẫn thể hiện được tinh thần cương trực biết dựa vào lẽ phải. Thanh điệu trong tục ngữ luôn luôn có, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau và một trong những hình thức thể hiện là vần. Vần trong tục ngữ thường là vần lưng tức vần giữa câu. Ví dụ:
Bút sa gà chết
Có tật giật mình.
Những câu năm chữ:
Cơm treo, mèo nhịn đói
Việc bé, xé ra to.
Những câu sáu chữ:
Một điều nhịn, chín điều lành
Hay những câu nhiều chữ, có vần cách nhau hai ba chữ như:
Đi chợ ăn quà, về nhà đánh con
Gà cựa dài thì rắn, gà cựa ngắn thì mềm.
Đi sâu vào một vấn đề ta mới thấy được ý nghĩa của tục ngữ.
Chẳng hạn trong vấn đề về thiên nhiên, phần nhiều các câu tục ngữ đều được dựa trên những hiện tượng thường xuyên của tự nhiên như sự vận động của Trái đất, của gió, của nắng mưa, bão táp, các hiện tượng xảy ra trong ngày, trong năm, trong tháng, trong mùa.
Ví dụ “Tháng bảy kiến bò, chỉ lo lại lụt”, trong thực tế vào tháng bảy, tháng tám ở Bắc bộ thường xẩy ra những trận bão lụt, kiến là một loài nhạy cảm với thời tiết nên dự cảm trước, chúng bò lên cao, tránh chỗ thấp để không bị lụt cuốn trôi, ổn định được đời sống, và khi lụt xong đất ẩm, dễ đào lại tổ.
Hay câu tục ngữ: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối”. Theo tự nhiên hay sự vận động của Trái Đất quanh mặt trời và quay quanh trục, vào tháng năm, tháng mười, từng bộ phận, toạ độ trên trái đất có góc chiếu từ mặt trời đến lớn hoặc nhỏ, hơn nữa còn phụ thuộc vào nửa cầu nào ngả về phía mặt trời sẽ nhận được nhiều ánh sáng và nhiệt nên dẫn đến các hệ quả là đêm, ngày, ngắn hoặc dài. Tuy nhiên ngày xưa, ông cha ta chỉ biết dựa theo những quy luật, những điều xảy ra mà mắt thấy, tai nghe mà phát thành lời. Do đó mà mới có câu tục ngữ trên.
Nói chung những câu tục ngữ không mang ý kiến của một riêng ai, nó không mang một tính chất, một đặc điểm của bất cứ một cá nhân nào, nó thể hiện những vấn đề trong xã hội, đề cập về nhiều mặt, nó còn như một hành trang kiến thức, một kiểu thể loại văn học dân gian, công chúng do thế hệ trước hay nói cụ thể hơn là ông cha ta để lại giúp chúng ta có thể sử dụng như một công cụ hữu ích về tinh thần, ý tưởng. Xét cho cùng tục ngữ có hình thức và nội dung cực kì hoàn hảo, vừa cân đối, hài hoà, lại vừa mang tính chất dân gian, dễ hiểu, gần gũi với đời thường. Có những câu tục ngữ chỉ hiểu theo nghĩa đen tức là nghĩa của chúng được cấu thành dựa trên nghĩa của từng từ tạo nên nó. Nhưng cũng có những câu tục ngữ lại được hiểu theo nghĩa bóng tức là thông qua một số sự vật, hình ảnh, thường là những sự vật tiêu biểu, phổ biến để ẩn ý, làm người nghe phải suy nghĩ, liên tưởng đến một vấn đề nào đó có nghĩa tương đồng, nó thể sử dụng vào một số trường hợp tế nhị, khó nói hoặc nhắc khéo để dạy bảo, khuyên răn một vấn đề, lĩnh vực nào đấykhiến người khác không bị tổn thương, xấu mặt, mất danh dự. Tục ngữ còn được sử dụng trong những lối chơi chữ, đối nghĩa, những câu thơ mang tính đối đáp. Có những câu tục ngữ vừa đọc ta có thể cảm nhận được nghĩa chúng ngược nhau nhưng thực chất là chúng bổ sung, nâng đỡ, tôn nhau, làm hoàn chỉnh nhau và mỗi câu tục ngữ đều khẳng định nổi bật, nâng cao tầm quan trọng vấn đề về một mặt, một lĩnh vực nào đó. Ví dụ hai câu tục ngữ: “Không thầy đố mày làm nên” và câu “Học thầy không tày học bạn”. Câu đầu tiên khẳng định tầm quan trọng của người thầy trong con đường học tập của học sinh nhưng trong thực tế có một số trường hợp chúng ta ngại hỏi thầy mà khi hỏi bạn thì trạng thái sẽ được thoải mái, tự tin, xem xét kĩ mọi vấn đề mà không sợ ảnh hưởng đến những vấn đề tế nhị. Câu thứ hai đã đề cập và giải thích điều đó. Nói chung cả hai câu tục ngữ trên đều khuyên răn sự học hỏi, cần cù, hãy biết kết bạn, mở rộng quan hệ để đạt được mục đích một cách tối ưu nhất. Chính vì vậy có câu “tục ngữ là túi khôn” quả không sai. Khi đọc tục ngữ, chúng ta cần thấm thía, cảm nhận từng từ, từng ý nghĩa mà nó đem lại, hãy biết tổng hợp, phân tích để có thể cảm thụ được câu tục ngữ đó một cách vĩ mô, tổng thể nhất. Có thể nói tục ngữ như một tác phẩm, một ngọn đèn chân lí của xã hội, cộng đồng mà luôn tồn tại, bất diệt, song hành cùng thời gian và trí tuệ con người.

7 tháng 7 2020

những lời khuyên quý báu của cha ông ta về những phẩm chất và lối sống đẹp đã để lại cho chúng ta từ ngàn dời qua các vần điệu ca dao , tục ngữ cho đến nay vẫn rất hữu ích . trong cuộc sống hiện đại ngày nay , dù công nghệ thông tin phát triển mạnh mẽ song chúng ta vẫn ko thể phủ nhận vai trò của những kinh nghiệm dân gian . thực tế đã chứng minh rằng , những câu tục ngữ cha ông để lại thể hiện vốn tri thức , vốn hiểu biết của nhân dân về nhiều mặt trong tự nhiên và xã hội 

những câu tục ngữ mà dân gian để lại đc đúc rút kinh nghiệm qua nhiều thế hệ , thể hiện tri thức của nhân dân . vì thế đến với tục ngữ ca dao là có thể để tìm thấy những lời khuyên quý báu mà cha ông ta đã giữ gìn từ ngàn đời nay . đc nhân dân tiêp thu và vận dụng vào đời sống , suy nghĩ và lời ăn tiếng nói hằng ngày . bản thân tên gọi văn học này đã phần nào phản ánh bản chất của thể loại ."tục" là thói quen từ lâu đời , đc mọi người công nhận ;"ngữ" là lời nói .như vậy ,"tục ngữ" là lời nói phản ánh những thói quen lâu đời , những vấn đề đã đc mọi người trải nghiệm và công nhận .

ông cha ta đã để lại cho thế hệ sau 1 kho tàng ca dao tục ngữ vô giá về nhiều lĩnh vực trong cuộc sống . nhg lĩnh vực mà mọi người quan tâm nhất vẫn là những lời khuyên quý báu của cha ông về phẩm chất và lối sống đẹp mà mỗi người cần phải có . VD về thầy cco giáo :

"ko thầy đó mày làm nên"

"muốn sang thì bắc cầu kiều 

muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy"

VD về bố mẹ :

"công cha như núi thái sơn 

nghĩa mẹ như nc trong nguồn chảy ra"

VD về biết ơn :

"uống nc nhớ nguồn"

"ăn quả nhớ kẻ trồng cây"

20 tháng 6 2020

Bài giải
Thời gian xe máy đi trước ô tô là :
9 giờ - 8 giờ 15 phút = 45 phút = 0,75 giờ
Quãng đường xe máy đi trước ô tô là :
32 x 0,75 = 24 ( km )
Quãng đường còn lại dài là :
174 - 24 = 150 ( km )
Thời gian xe ô tô đuổi kịp xe máy là :
150 : ( 32 + 43 ) = 2 ( giờ )
Đáp số : 2 giờ