Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.
Tham khảo
Vì Tây Sơn thượng đạo gồm 3 vòng, tập trung chủ yếu tại thị xã An Khê ngày nay. Thôn An Lũy là vòng phòng thủ trung tâm, nơi đóng chỉ huy sở của nghĩa quân, nơi tập trung binh lính, sinh hoạt ăn ở và rèn binh, tập trận. Chỉ huy sở được xây dựng rất kiên cố gồm An Khê đình (đình Trong) và An Khê trường (đình Ngoài), xung quanh được bao bọc bằng thành cao, lũy dày ->> Đây là nơi thích hợp để mai phục và xây căn cứ.
2. * Điều kiện thuận lợi :
- Trước hết 3 anh em Tây Sơn đều xuất thân từ gia đình nông dân nghèo hiểu được nỗi khổ và oan ức của dân
->> Được nhân dân ủng hộ
-Khi lực lượng mạnh, nghĩa quân mở rộng địa bàn xuống Tây Sơn hạ đạo lập căn cứ ở Kiên Mỹ ( Bình Định)
-Nghĩa quân lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo, xoá nợ và bỏ nhiều thứ thuế cho dân.
1. Vì Tây Sơn thượng đạo gồm 3 vòng, tập trung chủ yếu tại thị xã An Khê ngày nay. Thôn An Lũy là vòng phòng thủ trung tâm, nơi đóng chỉ huy sở của nghĩa quân, nơi tập trung binh lính, sinh hoạt ăn ở và rèn binh, tập trận. Chỉ huy sở được xây dựng rất kiên cố gồm An Khê đình (đình Trong) và An Khê trường (đình Ngoài), xung quanh được bao bọc bằng thành cao, lũy dày ->> Đây là nơi thích hợp để mai phục và xây căn cứ.
2. * Điều kiện thuận lợi :
- Trước hết 3 anh em Tây Sơn đều xuất thân từ gia đình nông dân nghèo hiểu được nỗi khổ và oan ức của dân
->> Được nhân dân ủng hộ
-Khi lực lượng mạnh, nghĩa quân mở rộng địa bàn xuống Tây Sơn hạ đạo lập căn cứ ở Kiên Mỹ ( Bình Định)
-Nghĩa quân lấy của nhà giàu chia cho dân nghèo, xoá nợ và bỏ nhiều thứ thuế cho dân.
câu 1 tham khảo
1. Giải phóng Nghệ An (năm 1424)
Theo kế hoạch của Nguyễn Chích, được Lê Lợi chấp thuậnNgày 12/ 10/ 1424, nghĩa quân bất ngờ tấn công Đa Căng Thọ Xuân – Thanh Hóa), sau đó hạ thành Trà LânTrên đà thắng đó, nghĩa quân tiến đánh Khả Lưu, phần lớn Nghệ An được giải phóng.2. Giải phóng Tân Bình, Thuận Hóa (năm 1425)
Tháng 8 / 1425, Trần Nguyên Hãn, Lê Ngân huy quân tiến vào Tân Bình, Thuận Hóa=> Vùng giải phóng của nghĩa quân kéo dài từ Thanh Hóa đến đèo Hải Vân. Quân Minh chỉ còn mấy thành lũy bị cô lập và bị nghĩa quân vây hãm
3. Tiến quân ra Bắc, mở rộng phạm vi hoạt động (cuối năm 1426)
Tháng 9/ 1426, nghĩa quân chia làm 3 đạo tiến quân ra Bắc :Đạo thứ nhất, tiến ra giải phóng miền Tây Bắc, ngăn chặn viện binh từ Vân Nam sangĐạo thứ hai, giải phóng vùng hạ lưu sông Nhị (sông Hồng) và chặn đường rút lui của giặc từ Nghệ An về Đông QuanĐạo thứ ba, tiến thẳng về Đông QuanNghĩa quân đi đến đâu cũng được nhân dân ủng hộ về mọi mặtNghĩa quân chiến thắng nhiều trận lớn, quân Minh phải rút vào thành Đông Quan cố thủ=> Cuộc khởi nghĩa chuyển sang giai đoạn phản công
- Lực lượng vũ trang của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ trong khởi nghĩa Tây Sơn (1771 - 1789) và sau đó là của nhà nước phong kiến Việt Nam Triều đại Tây Sơn.
Lực lượng ban đầu khoảng 3.000 người thuộc nhiều dân tộc (Việt, Chăm Khơme, Hoa...) và nhiều tầng lớp xã hội (nông dân, thợ thủ công, quan lại cấp thấp...), được nhân dân ủng hộ và phát triển nhanh trong chiến đấu. Đến năm 1773 đã có tới 26.000 người, hàng trăm chiến thuyên, voi chiến, làm chủ một vùng rộng lớn từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.
Từ năm 1775, đại bộ phận Quân đội Tây Sơn đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ, được xây dựng theo hướng thủy bộ hóa, có tổ chức chặt chẽ, phù hợp với yêu cầu tác chiến tiến công, gồm quân thủy và quân bộ. Quân thủy là quân tác chiến thực sự và có sự phân chia theo chức năng, thành 4 loại lực lượng: tác chiến trên biển (gồm các thuyền đại hiệu mang nhiều đại bác, chở nhiều quân), tác chiến sông - biển (gồm các thuyền vừa, gắn đại bác), tuần tiễu (trang bị các du thuyền) chuyên tuần phòng, đánh cắt giao thông đường thủy, tiên phong (thuyên buồm nhẹ) chuyên đi đầu trong thủy chiến.
Quân bộ gồm: bộ binh, tượng binh, kỵ binh và pháo binh; được tổ chức theo nguyên tắc “ngũ ngũ chế” thành đội (60 - 100 người), cơ (gồm 5 đội, 300 - 500 người), đạo (gồm 5 cơ và một số đội, 1.500 - 2.000 người). Doanh và đạo là đơn vị hỗn hợp (có các thành phần gồm bộ binh, pháo binh, tựa binh và kỵ binh), có khả năng cơ động cao, hỏa lực mạnh và sức đột kích lớn. Ngoài vũ khí lạnh, quân đội Tây Sơn được trang bị nhiều hỏa khí như: đại bác, súng hỏa mai, hỏa cần, hỏa hổ... Quân đội Tây Sơn dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ luôn luôn chiến thắng, đã đánh tan tập đoàn phong kiến Trịnh, Nguyễn và quân xâm lược nước ngoài.
* Các chiến công :
+ Lật đỡ chính quyền họ Nguyễn
+ Chống quân xâm lược Xiêm
+ Tiêu diệt họ Trịnh
+ Tây Sơn đánh tan quân Thanh
* Quân Tây Sơn thu được nhiều chiến công như vậy vì có tướng tài là Quang Trung, nhân dân đồng lòng giúp nghĩa quân và nghĩa quân luôn có ý chí đánh tan quân xâm lược
*Ý nghĩa: Xóa bở ranh giới của cả nước, giữ vững chủ quyền dân tộc
Vì Tây Sơn thượng đạo gồm 3 vòng, tập trung chủ yếu tại thị xã An Khê ngày nay. Thôn An Lũy là vòng phòng thủ trung tâm, nơi đóng chỉ huy sở của nghĩa quân, nơi tập trung binh lính, sinh hoạt ăn ở và rèn binh, tập trận. Chỉ huy sở được xây dựng rất kiên cố gồm An Khê đình (đình Trong) và An Khê trường (đình Ngoài), xung quanh được bao bọc bằng thành cao, lũy dày
->> Đây là nơi thích hợp để mai phục và xây căn cứ.