K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 tháng 3 2019

Qua biết bao đổi thay của cuộc sống, bao thằng trầm của lịch sử dân tộc, con người Việt Nam vẫn giữ trong mình những nét đẹp riêng, những phẩm chất riêng. Suốt chặng đường tiến tới Chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đã tình nguyện làm những thư kí trung thành, ghi chép một cách đầy đủ và chân thực những vẻ đẹp rạng ngời của con người Việt Nam.Vẻ đẹp đầu tiên và cũng là lòng tự hào tự tôn dân tộc chính là vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, của ý thức sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do.Con người Việt Nam hiện lên trong các tác phẩm văn học hiện đại vừa mang vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, vừa mang vẻ đẹp của con người mới dưới chế độ Chủ nghĩa xã hội. Các tác phẩm phác họa vẻ đẹp của con người Việt Nam bằng sự thấu hiểu sâu sắc, bằng thái độ ngợi ca và trân trọng hết mình. Qua đó cho thấy văn học hiệc đại phát huy tinh hoa bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt, có sự kế thừa và phát huy những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, đồng thời góp phần bồi đắp tâm hồn, tính cách cho các thế hệ của con người Việt Nam.

=>Nhớ lấy Dẫn chứng

7 tháng 3 2019

Vâng! Tổ quốc và con người Việt Nam thật đẹp. Đó là những con người đã và đang lao động và cống hiến hết mình cho dân tộc. Hình ảnh của họ đã đi vào trong thơ ca, văn học, đặc biệt là các tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long, Ánh trăng của Nguyễn Duy. Con người Việt Nam đẹp cả trong chiến tranh và thời kì xây dựng đất nước.

Văn học phản ánh cuộc sống muôn màu muôn vẻ, quê hương đất nước và văn học cũng sáng tạo hình ảnh con người mới vừa mang vẻ đẹp truyền thống vừa có những phẩm chất mới mẻ của thời đại. Đất nước ta đã trải qua biết bao gian khổ, hứng chịu biết bao tai họa của chiến tranh từ thực dân Pháp đến đế quốc Mĩ. Hình ảnh con người Việt Nam gắn liền với từng thời kì phát triển của đất nước. Đặc biệt là từ những ngày Cách mạng tháng Tám thành công, cả dân tộc ta rũ bùn đứng dậy sáng loà, con người Việt Nam bước vào những trang thơ, trang văn đẹp như chính cuộc đời họ. Ba tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long và Ánh trăng của Nguyễn Duy là bức tranh toàn cảnh ghi lại một cách chân thực và toàn diện về hình ảnh con người Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám. Dù họat động trên lĩnh vực nào, ở bất cứ nơi đâu, họ vẫn toát lên những phẩm chất và tính cách đáng quý.

Con người Việt Nam có những phẩm chất và tính cách đáng quý, biết vượt lên trên khó khăn, gian khổ, nguy hiểm. Trước hết, đó là phẩm chất của các chiến sĩ lái xe Trường Sơn qua Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Họ là những chàng trai – tuổi đời còn rất trẻ nhưng đã tự nguyện lên đường bảo vệ Tổ quốc, bỏ lại sau lưng những gì thân thương nhất của mình: mái trường, gia đình. Họ đã ra đi với một quyết tâm lớn và cao đẹp là giữ vững nền độc lập cho đất nước. Các chàng trai trẻ ấy đã sẵn sàng chấp nhận một cuộc sống ác liệt, thiếu thốn của chiến trường. Họ đã làm một công việc nguy hiểm và quan trọng là vận chuyển lương thực ra tiền tuyến để nuôi quân. Vất vả, cực nhọc là thế, máy bay địch có thể ập đến bất cứ lúc nào, đường Trường Sơn thì không hề bằng phẳng, họ lại phải lái những chiếc xe không kính. Nhưng, các anh đã chấp nhận tất cả:

Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi

Các anh đã tự lí giải cho sự thiếu thốn của mình là do chiến tranh tàn phá, để rồi:

Ung dung buồng lái ta ngồi,
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

Vẫn ung dung ngồi vào buồng lái, các anh lính trẻ bất chấp mọi thử thách để tạo cho mình một tư thế đàng hoàng nhất, một tư thế chứng tỏ bản lĩnh của người chiến sĩ. Họ vẫn vững tay lái, thậm chí còn biến khó khăn thành sự hưởng thụ vì được nhìn, được tiếp xúc một cách trực tiếp với thiên nhiên bên ngoài, họ vẫn nhìn thẳng về phía trước, vẫn tiếp tục đối chọi với mọi hiểm nguy:

Không có kính, ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

Thử thách cứ nối tiếp nhau đến với người chiến sĩ, không toát lên qua hình ảnh các chiến sĩ lái xe:

Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim

Dù thiếu thốn rất nhiều: kính, đèn, mui xe, thùng xe có xước. Xe đã mất đi mọi trang bị tối thiểu nhất để bảo vệ chữ người chiến sĩ. Họ phải đối mặt với bao chông gai và hiểm nguy phía trước thế nhưng xe vẫn băng băng vượt qua bao nẻo đường, vì miền Nam ruột thịt. Đoàn xe ấy vẫn chạy dù cho còn nhiều và nhiều hơn nữa những khó khăn, chỉ cần có một trái tim. Người lính luôn mang trong mình trái tim đó, trái tim của lòng dũng cảm, của tình yêu đất nước. Trái tim ấy là biểu tượng cho ý chí cách mạng, cho những suy nghĩ ngời sáng của người chiến sĩ Trường Sơn, Các anh đã chiến đấu không mệt mỏi vì những suy nghĩ đúng đắn, vì ý thức được trách nhiệm của bản thân.

Ý thức, trách nhiệm cao độ đối với công việc cũng là một phẩm chất cao đẹp của con người xứ sở sương mù – Sa Pa. Nhà văn Nguyễn Thành Long đã thể hiện đức tính đó qua nhân vật anh thanh niên. Anh đã quan niệm thật đúng đắn về công việc; anh thấy được ý nghĩa cao quý trong công việc thầm lặng của mình. Anh không tô đậm cái gian khổ của công việc, nhưng anh nhấn mạnh niềm hạnh phúc khi biết nhờ mình phát hiện đám mây khô mà không quân ta hạ được bao nhiêu phản lực của Mĩ. Phải có lòng yêu nghề sâu sắc., đam mê hết mình cho cộng việc thì anh mới có được những niềm hạnh phúc như thế. Anh tự tâm sự về công việc: “Hồi chưa vào nghề, những đêm bầu trời đen kịt, nhìn kĩ mới thấy một ngôi sao xa, cháu cũng nghĩ ngay ngôi sao kia lẻ loi một mình. Bây giờ làm nghề này, cháu không nghĩ như vậy nữa”.

Anh thanh niên đã tự mình tạo cho mình sự cố gắng, phấn đấu. Anh coi những ngôi sao kia đang lẻ loi một mình như một con người có cùng cảnh ngộ và rồi biết tự ý thức được trách nhiệm của mình mà làm việc. Anh còn tâm sự: “Khi ta làm việc, ta với công việc là đôi, sao gọi là một mình được?” Công việc và anh gắn bó với nhau mật thiết, anh đã sống chung với công việc tưởng như là đôi. Chính ý thức trách nhiệm, chính tình yêu quê hương đất nước đã làm nên niềm say mê, hào hứng, cái nhiệt tình sôi nổi thật đáng quý, đáng trân trọng ấy.

Không chỉ có được những suy nghĩ đúng đắn, sâu sắc về cuộc sống và công việc, trong bất cứ hoàn cảnh nào, con người Việt Nam cũng có những tâm hồn cao đẹp. Vẻ đẹp ấy đã tạo nên âm vang mạnh mẽ cho Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long. Con người Sa Pa – họ luôn cởi mở, chân thành quý trọng tình bạn. Đó là mối chân tình của anh thanh niên và bác lái xe Họ gặp nhau chỉ trong một chuyến xe thôi nhưng lại rất quý mến nhau anh thanh niên đã đi tìm bằng được củ tam thất chỉ vì bác chẳng bảo bác gái vừa mới ốm dậy là gì?. Củ tam thất khó tìm, phải đào sâu dưới đất vậy mà chàng trai trẻ vẫn cố tìm mọi cách tìm cho bằng được. Anh quan tâm đến mọi người một cách thực lòng, tốt bụng. Bác lái xe thì trao tận tay anh thanh niên cuốn sách, bác đã giữ trọn lời hứa với anh và còn giới thiệu anh với ông họa sĩ và cô kĩ sư với một niềm hăm hở và một câu nói đầy ấn tượng: Con người cô độc nhất thế gian. Họ không quen mà trở thành những con người thân thiết của nhau, đó là một mối ân tình thật hiếm thấy trong cuộc sống, là một nét đẹp đặc biệt của con người sau Cách mạng tháng Tám. Đó không chỉ là mối quan hệ tốt đẹp của hai con người mà tâm hồn cao đẹp ấy đã thực sự tỏa sáng qua nhân vật anh thanh niên. Anh đã luống cuống, hấp tấp khi có hai vị khách lạ đến thăm mặc dù căn nhà nhỏ vẫn luôn ngăn nắp, anh còn pha trà, cắt hoa tặng cho cô kĩ sư. Anh đã tâm sự những điều không nên tâm sự: Cô là cô gái thứ nhất đến từ Hà Nội. Cô kĩ sư đã dành cho anh những tình cảm còn ông họa sĩ hứa sẽ quay trở về. Ông đã dành cho chàng trai trẻ tuổi ấy những tình cảm chân thành nhất, đó là sự cảm phục sâu sắc. Ông cảm thấy nhọc quá khi tiếp xúc với anh vì quá hạnh phúc, vì tìm thấy ở anh nhiều điều đáng quý. Tuổi đã cao, mái tóc đã điểm sương nhưng cuộc đời người nghệ sĩ già này vẫn dành hết cho nghệ thuật. Ông họa sĩ vẫn mong ước tìm thấy ở Sa Pa một ý tưởng sáng tạo, tâm hồn ông quả là rất nghệ thuật!

Tâm hồn của người chiến sĩ Trường Sơn năm xưa cũng đáng để những con người hôm nay khai phá và tìm tòi. Cuộc sống gắn liền với bom đạn ác liệt song không hề làm mất đi ở họ những nét đẹp đáng quý cũng như một tâm hồn cao đẹp. Họ mang trong mình sự lạc quan, tếu táo, họ dũng cảm mà vẫn lãng mạn biết bao:

Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây họp thành tiểu đội
Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi

Sự khốc liệt của chiến tranh đã tàn phá mọi thứ và những chiếc xe không kính đã trở thành một điều bình thường, là cơ hội để người chiến sĩ lái xe trao cho nhau một tình cảm thiêng liêng và cao đẹp – tình đồng đội. Họ không hề chùn bước trước hiểm nguy và càng không hề xa rời nhau trong chiến đấu và cả sau trận chiến. Họ bắt tay nhau qua cửa kính vỡ – cái bắt tay không sợ hiểm nguy, cái bắt tay rất tếu táo, đáng yêu. Tâm hồn của các anh thật trẻ trung làm sao, tươi sáng làm sao, trái ngược với cuộc sống chiến tranh đáng sợ. Họ đã thoát mình ra khỏi những gay gắt của những trận chiến để hướng tới những giá trị cao đẹp của cuộc sống. Hành động bắt tay qua cửa kính vỡ chứa đầy khí phách của những chàng trai đất Việt có một tâm hồn ngang tàng, tếu táo, đã thể hiện sâu đậm mối tình quân ngũ. Hai tác phẩm Bài thơ về tiều đội xe không kính của Phạm Tiến Duật và Lặng lẽ Sa Pa của Nguyễn Thành Long đã thể hiện được những vẻ đẹp tâm hồn cao đẹp của con người Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám.

Con người Việt Nam qua bài thơ Ánh trăng có những vẻ đẹp đặc trưng riêng. Họ là những con người rời chiến trường trở về với cuộc sống đời thường. Lương tâm chân chính có lúc bị mai một, lãng quên quá khứ, lãng quên những năm tháng gian lao khó nhọc của đời lính, quên đi những kỉ niệm đẹp đẽ, sâu sắc tình nghĩa, quên đi tình đồng bào, tình đồng đội, trở thành một con người vô tình, bội bạc. Thế nhưng khi thức tỉnh, không có gì át được sự day dứt lương tâm và điều đó đã đến giữa thành phố hòa bình, trong một đêm mất điện, người lính bất ngờ gặp lại vầng trăng xưa, vầng trăng của một thời ân tình ân nghĩa. Cái thời mà vầng trăng đã từng gắn bó với anh từ những năm tháng tuổi thơ đến lúc ở rừng và vầng trăng ấy đã một thời anh lãng quên. Trong giây phút bất ngờ, gặp lại vầng trăng, người lính và trăng ngửa mặt lên nhìn mặt. Giây phút ấy ngắn ngủi nhưng đã giúp anh nhận ra bao điều mà anh đã vô tình lãng Quên, đã làm anh thức tỉnh tâm can. Cũng từ giây phút ấy lương tâm cắn dứt, dày vò, anh tự phán xét mình. Trước ánh trăng im phăng phắc đã làm anh phải giật mình, nhìn lại mình, nhìn lại quá khứ đã qua. Đó chính là sự tự vấn lương tâm, một cuộc đấu tranh với chính lòng mình, đấu tranh với cái xấu, cái tồi tệ, cái bội bạc để hoàn thiện chính mình. Và đó cũng là vẻ đẹp trong ý thức của con người Việt Nam trong thời đại mới: biết nhìn lại chính mình, thức tỉnh lương tâm, sau những lỗi lầm, vất vả, biết hướng mình tới cái Chân – Thiện – Mĩ.

Hình ảnh con người trong ba tác phẩm là hình ảnh của những con người mới Việt Nam nhiệt tình, hăng say xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Họ là đội ngũ những con người lao động đã và đang ươm mầm xanh cho Tổ quốc, kế tục, phát huy sự nghiệp của cha ông. Họ là những con người đáng để mỗi chúng ta học tập, noi gương.

28 tháng 12 2023

Trong câu chuyện "Làng", nhân vật ông Hai được miêu tả là một người đàn ông lạc quan, sáng tạo và có tinh thần khám phá. Ông Hai luôn tìm cách để làm cho cuộc sống tươi đẹp hơn và mang lại niềm vui cho mọi người xung quanh. Từ ông Hai, ta rút ra bài học về sự lạc quan, sáng tạo và khám phá trong cuộc sống, cũng như khả năng tạo niềm vui cho người khác. Trong câu chuyện "Lặng lẽ Sa Pa", nhân vật anh thanh niên là một người trầm lặng, nhạy cảm và có tình yêu với thiên nhiên. Anh ta tận hưởng sự yên bình và tĩnh lặng của Sa Pa, và từ đó ta rút ra bài học về sự trầm lặng, nhạy cảm và tình yêu với thiên nhiên, cũng như giá trị của việc tìm thấy sự bình yên trong cuộc sống. Trong câu chuyện "Chiếc lược ngà", nhân vật ông Sáu là một người già khôn ngoan, thông minh và có kinh nghiệm. Ông đã giúp đỡ bé Thu trong việc tìm lại chiếc lược ngà và từ ông Sáu, ta rút ra bài học về sự khôn ngoan, thông minh và giá trị của kinh nghiệm trong cuộc sống. Bài học khác mà ta có thể rút ra từ nhân vật bé Thu là sự kiên nhẫn, sự quyết tâm và lòng tin vào khả năng của bản thân. Tổng cộng, qua từng nhân vật trong các câu chuyện, ta có thể rút ra bài học về sự lạc quan, sáng tạo, khám phá, trầm lặng, nhạy cảm, tình yêu với thiên nhiên, khôn ngoan, thông minh, kinh nghiệm, kiên nhẫn, quyết tâm và lòng tin vào khả năng của bản thân.

20 tháng 4 2018

Về đất nước Việt Nam:
- “Vất vả và gian lao” qua những thăng trầm của lịch sử, qua bão táp chiến tranh nhưng luôn mang sức sống trường tồn, bất diệt (Mùa xuân nho nhỏ, Những ngôi sao xa xôi).
- Mang vẻ đẹp đa dạng, phong phú: vừa hùng vĩ, bao la, thơ mộng vừa bình dị, gần gũi (Mùa xuân nho nhỏ, Lặng lẽ Sa Pa, Sang thu).
* Về con người Việt Nam:
- Trong lao động, con người Việt Nam cần cù, chăm chỉ, có khát vọng cống hiến cho đất nước (Lặng lẽ Sa Pa, Mùa xuân nho nhỏ).
- Trong chiến đấu, con người Việt Nam anh dũng, kiên cường, sẵn sàng xả thân vì độc lập, tự do của Tổ quốc (Những ngôi sao xa xôi).
- Yêu thiên nhiên, lạc quan, yêu đời (Mùa xuân nho nhỏ, Sang thu, Lặng lẽ Sa Pa).
- Bình dị, khiêm nhường, thầm lặng (Lặng lẽ Sa Pa, Mùa xuân nho nhỏ, Những ngôi sao xa xôi).

21 tháng 4 2018

có thể viết bài văn luôn k

23 tháng 3 2021

Tham khảo nha em:

Đề 1:

Kim Lân là một nhà văn được biết đến với sở trường về cuộc sống và con người ở các vùng quê nông thôn Việt Nam. Ông đã để lại cho kho tàng văn học rất nhiều tác phẩm đặc sắc, trong đó phải kể đến “Làng” ở giai đoạn sau Cách mạng tháng 8. Một tác phẩm gợi nhiều suy nghĩ cho người đọc về những chuyển biến trong tình cảm của con người nông dân Việt Nam trong thời kỳ chống thực dân Pháp. Đặc biệt là nhân vật chính của tác phẩm – Ông Hai, người đàn ông với một tình yêu làng, yêu quê sâu sắc.

Truyện ngắn “Làng” ra đời vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống quân Pháp xâm lược. Câu chuyện xoay quanh nhân vật ông Hai và tình yêu đối với làng chợ Dầu của mình. Kết thúc câu chuyện đơn giản và nhân văn, ông Hai trở thành một hình tượng tiêu biểu cho người nông dân Việt Nam trong giai đoạn đất nước đang phải kháng chiến chống quân xâm lược.

 

Tình yêu làng của ông Hai đã ngấm vào máu thịt trong con người ông, chúng được thể hiện ở mọi lúc mọi nơi. Tình yêu đặc biệt ấy có thể chia thành 3 giai đoạn chính: khi ở làng tản cư, khi nghe tin làng mình theo Việt gian và khi nghe tin làng đã cải chính theo cách mạng.

Ở nơi tản cư, ông Hai nhớ làng da tiết, tâm trí ông luôn hướng về những ngày hoạt động kháng chiến, cùng đồng đội, anh em đào ụ, xẻ hào để bảo vệ làng. Rồi có nhiều thay đổi, ông phải tản cư đến nơi khác. Mặc dù có nhiều khó khăn nhưng ông vẫn hướng về làng Dầu yêu dấu của mình, đó cũng chính là động lực làm dịu đi trong ông những tủi cực của người tha hương. Nỗi nhớ ấy ngập tràn, ông luôn khao khát được trở về để lại được tham gia kháng chiến. Hàng ngày, ông Hai vẫn đến phòng thông tin để theo dõi về cuộc kháng chiến và mong mỏi sẽ nghe được tin tức về làng chợ Dầu của mình. Khi nghe tin quân ta thắng lòng âm vui mừng phấn khích, cùng với đó là niềm tin một ngày không xa cách mạng sẽ thắng lợi, ông lại được trở về với làng quê yên bình của mình.

Trong lúc đang sống trong cảm xúc vui mừng hân hoan thì tim ông như vỡ vụn khi nghe tin cả làng chợ Dầu theo Việt gian. Chính lúc này tình yêu làng của ông được bộc lộ một cách sâu sắc. Từ bất ngờ đến bàng hoàng, niềm xúc động tột cùng dâng trào. Mặc dù cố gắng tỏ ra bình tĩnh nhưng ông vẫn không thể nén được nỗi đau đang dâng trào: “cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân, lặng đi, tưởng chừng không thở được…”. Tin làng Dầu theo Tây đối với ông là một tin trời giáng, ông không thể tin và cũng không muốn tin điều đó là thật. Ông lấy lại bình tĩnh để hỏi lại người phụ nữ tản cư nhưng bà quả quyết quá khiến ông đành phải chấp nhận cái sự thật khủng khiếp ấy. Những lời nói của người tản cư như một con dao cứa vào tim ông, ông chỉ biết cúi gằm mặt mà đi, tủi nhục và đau đớn đến tột cùng. Nó khiến lòng tự trọng, niềm tự hào về làng của ông bị sụp đổ.

Sau khi về nhà, ông nằm vật ra giường rồi nhìn những đứa con lòng ông lại càng thương chúng: “chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư, uất hận ông rút lên trong con đau đớn chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm, mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này. Có thể thấy sự khinh bỉ, căm rét đến tột cùng của ông Hai. Khi nói chuyện với người vợ trong nhà, ông cũng không giấu nổi sự bực bội và đau đớn trong lòng, thành ra gắt gỏng với cả vợ. Trong giây phút tuyệt vọng ông đã có suy nghĩ hay là về làng, nhưng ngay lập tức một cuộc đấu tranh diễn ra, ông cho rằng về làm chính là rời bỏ kháng chiến, đầu hàng quân Tây. Lúc này tình yêu nước yêu cách mạng đã hòa quyện vào trong ông, tình yêu làng và tình yêu nước đã gắn liền với nhau, nó thể hiện rõ trong cuộc đối thoại với đứa con trai út của ông. Ông nói với đứa con như nói với chính mình: Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm. Một lời khẳng định rất kiên định và dứt khoát, đó là tiếng lòng trung thành với Bác Hồ, với Đảng và đất nước. Hơn ai hết, ông vẫn tin tưởng vào cách mạng, sự trung tin thành của ông với lãnh tự, với kháng chiến là lòng trung thành của hàng triệu người dân Việt Nam với Đảng và Cách mạng.

Tình yêu làng quê, đất nước lại một lần nữa được thể hiện rõ nét trong đoạn cuối của tác phẩm, khi ông Hai nghe tin làng Dầu cải chính không theo Tây nữa. Miệng ông bô bô từ đầu ngõ, chạy hết nơi này đến nơi khác để khoe, ông vui mừng khôn xiết vừa đi vừa múa hát. Niềm vui to lớn tới mức nghe tin nhà mình ở quê bị đốt ông cũng chẳng màng. Đây chính là chi tiết khiến người đọc bùi ngùi, trân tròn hơn tình yêu của ông Hai dành cho làng, cho cho kháng chiến và cho tổ quốc Việt Nam yêu dấu.

Bằng lối văn chân thực và giàu cảm xúc, tác giả Kim Lân đã thành công trong việc xây dựng nhân vật ông Hai. Một người nông dân chất phát với tình yêu làng, yêu nước nồng nàn, luôn tin tưởng vào Cách mạng vào vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Ông Hai trở thành một tấm gương, một biểu tượng cho người nông dân Việt Nam trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống giặc ngoại xâm của đất nước VN

Đề 2:

Lặng Lẽ Sa Pa là một truyện ngắn vô cùng nhẹ nhàng, giàu chất thơ và tác giả đã xây dựng được hình tượng nhân vật đẹp. Truyện ngắn Lặng lẽ Sa Pa được viết vào năm 1970, sau chuyến đi thực tế ở Lào Cai của tác giả Nguyễn Thành Long, có thể coi đây là một trong những truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách của ông. Truyện ngắn với những nhân vật không tên đặc biệt tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên trẻ cán bộ khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Tác giả muốn giới thiệu với bạn đọc một nhân vật điển hình trong công cuộc lao động và xây dựng đất nước ở miền Bắc trên vùng cao khuất nẻo này.

Vẻ đẹp thiên nhiên Sa Pa đã làm nền cho vẻ đẹp con người Sa Pa. Những con người làm công việc nghiên cứu khoa học trong lặng lẽ mà rất khẩn trương vì lợi ích đất nước, vì cuộc sống con người đó là anh thanh niên cán bộ khí tượng kiêm vật lí địa cầu.

Vẻ đẹp của anh được thể hiện trong hoàn cảnh sống và công việc, anh thanh niên một mình làm việc trên đỉnh Yên Sơn cao 2600m. Quanh năm suốt tháng bốn bề cây phủ mây phong cảnh lạnh rét, anh cô độc đến thèm người và luôn nhớ người lần làm quen này anh quen với ông họa sĩ già và cô kĩ sư trẻ niềm vui ấy càng tiếp thêm cho anh tình yêu cuộc sống. Công việc của anh "Đo nắng, đo mưa, đo gió, tính mây" nhằm dự vào việc báo trước thời tiết hàng ngày nhằm phục vụ sản xuất, chiến đấu công việc đòi hỏi tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. Hằng ngày anh phải "ốp về nhà" vào bốn thời điểm khác nhau.

Công việc gian khổ vất vả nhưng anh yêu và làm việc hết mình, chính lòng say mê công việc mà anh đã vượt qua được nỗi cô đơn. Anh có suy nghĩ chân thành và sâu sắc: "Khi ta làm việc ta với công việc là đôi sao gọi là một mình được… Công việc của cháu gian khổ thế đấy chứ cất nó đi cháu buồn đến chết mất "qua lời tâm sự này ta thấy suy nghĩ và lối sống cao đẹp của anh biết làm chủ bản thân, ý thức sâu sắc về mục đích làm việc.

Anh thanh niên tự biết làm cho cuộc sống vui vẻ, đầm ấm, thơ mộng và ý nghĩa. Anh trồng hoa… Anh đọc sách trò chuyện giao tiếp với sách, lấy sách làm tri ân, tri kỉ, anh nuôi gà và thế giới riêng của anh "một gian nhà ba gian sạch sẽ, một cuộc đời riêng thu gọn lại một góc trái gian với chiếc giường con, một chiếc bàn học, một giá sách có lẽ chính lối sống đẹp đẽ đó khiến anh quên đi hoàn cảnh cô độc, công việc khắc nghiệt để yêu nghề hơn, yêu cuộc sống hơn.

 

Anh thanh niên còn là người khiêm tốn thành thật đáng quí. Khi ông họa sĩ muốn vẽ chân dung anh… Anh nhiệt tình giới thiệu để ông vẽ chân dung họ, những con người làm việc hết mình thầm lặng, những cống hiến đáng trân trọng. Một nét đẹp đáng quí mến nữa ở anh là tấm lòng rộng mở chân thành, gần gũi thân thiết. Với mọi người với bác lái xe anh chu đáo nhớ tới việc gửi củ tam thất về làm quà cho bác gái. Với người bạn mới anh vui mừng đến luống cuống hấp tấp khi thấy họ đến thăm nơi ở và làm việc của mình, anh tặng bó hoa đẹp rực rỡ cho cô gái, anh đếm từng phút vì thời gian gặp gỡ quí hiếm vô cùng anh thèm và khao khát nghe truyện dưới xuôi. Khi chia tay anh xúc động quay mặt đi và đưa vào tay ông họa sĩ làn trứng gà làm quà cho mọi người ăn, trên đường anh không dám tiễn họ, sợ quyến luyến mà không cầm nổi lòng mình.

Quá khứ – chiến tranh và những đói khát, nghèo nàn của đất nước đã lùi xa. Chúng ta – một thế hệ trẻ của thế kỉ 21 đang từng bước tiến công vào khoa học và hội nhập quốc tế, tiếp tục đối mặt với rất nhiều khó khăn mới, chúng ta có quyền lãng quên đi những quá khứ của đất nước, của dân tộc nhất là các thế hệ cha anh ta đã cống hiến và hi sinh để có ngày hôm nay. Những bài học về phẩm chất và lí tưởng sống như anh thanh niên trong tác phẩm Lặng lẽ Sa Pa và những con người lao động vô danh vẫn mãi là tấm gương sáng cho thế hệ mai sau phải noi theo. Hãy cố gắng học tập, tích lũy, rèn luyện để sống có ích cho bản thân, cho xã hội và được mọi người yêu mến, quý trọng.

27 tháng 5 2021

Tham khảo dàn ý nha em:

I. Giới thiệu chung:

- Giới thiệu về truyền thống yêu nước, yêu làng quê của dân tộc VN.

- Giới thiệu hai tác phẩm: “ Làng “ ( Kim Lân ) và “ Chiếc lược ngà “ ( Nguyễn Quang Sáng )  viết về hình ảnh con người Việt Nam và tình cảm của họ trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt.

 

- Nhận xét chung về phẩm chất, tình cảm, vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh được thể hiện qua hai tác phẩm trên.

II. Phân tích cụ thể: (Có thể phân tích lần lượt từng tác phẩm hoặc gộp chung).

1- Con người Việt Nam hiện lên trong truyện ngắn “Làng ” của nhà văn Kim Lân ( với nhân vật chính: Ông Hai):

a- Yêu làng, tự hào về làng mình giàu đẹp. Say mê kể về làng - khoe làng một cách say mê, náo nức lạ thường.

b- Yêu làng, ông Hai tự hào về những thành tích trong khánh chiến của làng, tự hào về tinh thần chiến đấu dũng cảm của làng ông trong chiến tranh.

c- Khi xa làng đi tản cư, ông băn khoăn, ray rứt, tiếc nuối về những ngày tham gia chiến đấu cùng anh em đồng chí ở lại làng. Luôn quan tâm theo dõi tin tức của làng mình và mong ước được trở lại làng chiến đấu cùng anh em đồng chí.

d- Khi nghe tin “Làng ông theo Tây“→ Ông đau xót, tuỉ hổ, dằn vặt , rồi dẫn đến tuyệt vọng khi mụ chủ nhà có ý đuổi gia đình ông đi, không cho ở nữa, vì gia đình ông là người làng theo Tây, việt gian bán nước(được miêu tả qua những diễn biến tâm lí phức tạp).

đ- Khi cái tin “làng ông theo giặc” được cải chính, ông mừng rỡ đi khoe với nhiều người, đến nhiều gia đình khoe làng ông chiến đấu kiên cường, rằng làng ông không phải theo Tây, rằng nhà ông bị giặc Tây đốt nhẵn…

⇒ Tóm lại, ở Ông Hai ,tình yêu làng quê hoà quyện, gắn chặt với tình yêu đất nước, thống nhất với tình cảm kháng chiến. Ông Hai là một điển hình cho những người nông dân sống mộc mạc, chân chất nhưng tâm hồn chứa đựng biết bao tình cảm đáng trân trọng: yêu làng quê, yêu đất nước, ủng hộ công cuộc kháng chiến của cả dân tộc. Tình cảm gắn bó với làng quê bộc lộ và trỗi dậy trong hoàn cảnh chiến tranh thật đặc biệt . Và họ luôn đặt quyền lợi của gia đình, tình yêu làng dưới tình yêu đất nước và quan trọng hơn bao giờ hết đối với họ là góp phần cho cuộc kháng chiến của dân tộc mau chóng đi đến thắng lợi.

 

2- Hình ảnh con người Việt Nam trong chiến tranh qua tác phẩm “Chiếc lược ngà”:

a- Nghe theo tiếng gọi thiêng liêng của đất nước, họ rời xa làng quê, rời xa người thân để ra đi, mang theo cả những tâm tư nỗi niềm, những nguyện ước đang canh cánh bên lòng. Anh Sáu ra đi khi con còn rất nhỏ. Tình cha con bị chia cắt bởi chiến tranh ác liệt.

b- Chính hoàn cảnh chiến tranh nghiệt ngã đã gây nên những bi kịch trong tình cha con của Anh Sáu, mà anh là người phải chấp nhận những đớn đau. Anh Sáu về phép mấy ngỳa nhưng đứa con gái yêu quý của Ông ( Bé Thu ) không nhận cha. Bom đạn, khói lửa của chiến tranh đã làm thay đổi một  phần trên nét mặt của người cha, làm cho Bé Thu không nhận ra được, vì không giống với người trong tấm ảnh . Thật cảm động , khi mà Bé Thu nhận ra cha thì đó cũng là lúc Anh Sáu phải ra đi… Chiến tranh không những gây nên những vết thương trên thân thể người lính mà còn gây nên cả những vết thương trong trái tim của họ.Dù đau đớn, nhưng họ vẫn hướng về phía trước, về cuộc chiến đấu, vầ Tổ quốc thân yêu…

c- Khi con đã trưởng thành, đã hiểu ra được ý nghĩa của cuộc chiến đấu của thế hệ cha anh và sẵn sàng chờ đợi ngày chiến thắng để được đoàn tụ gia đình, thì đó chính là lúc người cha mãi mãi nằm lại nơi chiến trường xa xôi. Chiến tranh đã gây chia cắt và mất mát trong cuộc sống gia đình, trong tình cha con. Thế nhưng họ vẫn vượt qua để phụng sự Tổ quốc . Họ đã sống vì Tổ quốc, vì nhân dân mà quên mình…

⇒ Tóm lại, hình ảnh con người Việt Nam trong hoàn cảnh chiến tranh thật đẹp đẽ. Dù trong hoàn cảnh đen tối như thế nào, họ vẫn vươn lên , vẫn hướng về Tổ quốc thân yêu với một tình yêu thiêng liêng ,cao cả…

29 tháng 5 2019

Nha tho Huy Can đã từng viết:

“Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa”

Qua biết bao đổi thay của cuộc sống, bao thằng trầm của lịch sử dân tộc, con người Việt Nam vẫn giữ trong mình những nét đẹp riêng, những phẩm chất riêng. Suốt chặng đường tiến tới Chủ nghĩa xã hội, các nhà văn nhà thơ đã tình nguyện làm những thư kí trung thành, ghi chép một cách đầy đủ và chân thực những vẻ đẹp rạng ngời của con người Việt Nam.

Vẻ đẹp đầu tiên và cũng là lòng tự hào tự tôn dân tộc chính là vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng Cách mạng, của ý thức sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, sẵn sàng xả thân vì độc lập tự do, giống như ai đó đã từng viết:
“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc nếu ta cần chết
Cho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”

Ý chí độc lập dân tộc đã vượt qua tình yêu quê hương, để hwongs trọn tình yêu ấy cho đất nước. Người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã sẵn sàng dứt áo ra đi, để một lòng hướng trái tim ra tiền tuyến:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”

Suốt chặng đường kháng chiến chống Pháp, những người lính cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lí tưởng “Súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Lí tưởng cao đẹp nhất của họ là giữ vững độc lập tự do của Tổ quốc, giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Hay như hình ảnh cuối của “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”

“Trái tim” – hình ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh chiến đấu, ý chí kiên cường của người chiến sĩ lái xe vì sự nghiệp thống nhất đất nước. “Trái tim” ấy là trái tim yêu thương, trái tim sục sôi căm giận, trái tim sẵn sàng hy sinh cho “trái tim” của biết bao con người khác cũng là anh em, cũng chung dòng máu Việt. Để rồi không chỉ là “trái tim” nơi tiền tuyến cam go khốc liệt, mà ngay cả “trái tim” nơi hậu phương cũng một lòng trọn niềm tin kháng chiến:
“Ngủ ngoan a-kay ơi, ngủ ngoan a-kay hỡi
Mẹ thương a-kay, mẹ thương bộ đội…”

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã thổi tình yêu nước vào bài thơ, để bà mẹ Tà-ôi có khát vọng đất nước được giải phóng, được thấy Bác Hồ, để truyền tình yêu ấy vào tiềm thức của đứa con. Trong lời ru của mẹ có ước mơ của riêng bà và cũng là ước mơ của cả dân tộc về giấc mơ tình thương, giấc mơ về ấm no, hạnh phúc, giấc mơ chiến thắng. Vẻ đẹp của tinh thần yêu nước còn là sự hy sinh, xả thân quên mình vì bầu trời hòa bình như nhân vật anh Sáu trong tác phẩm “Chiếc lược ngà”của Nguyễn Quang Sáng. Dù yêu thương con vô hạn, dù chưa được hưởng trọn cái tình yêu, cái tiếng gọi ba của bé Thu nhưng vì đất nước, vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, anh Sáu đã quyết định ra đi để làm tròn bổn phận, làm tròn nhiệm vụ của một người lính, một thành viên trong gia đình và tiếp nối tình yêu đó trên con đường Cách mạng bằng nỗi nhớ, để rồi “trong trận càn của địch, anh bị hy sinh”. Thật xót xa và đớn đau! Thế mới biết chiến tranh đã cướp đi bao mái ấm gia đình, bao niềm hy vọng về đất nước đang bỏ dở…
Vẻ đẹp của con người Việt Nam còn được xây dựng trên mặt trận lao động. Đó alf vẻ đẹp của tình thần lao động hăng say, của tinh thần làm chủ cuộc sống, của ý thức xây dựng Tổ quốc làm giàu đẹp cho quê hương, đất nước. Bằng cách sống có lí tưởng, dám ước mơ, biết vươn lên có ý nghĩa để cống hiến, để thành người có ích với cộng đồng, truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” của Nguyễn Thành Long đã khắc họa thành công vẻ đẹp của những người lao động bình thường, lặng lẽ vô danh ở núi rừng bạt ngàn Tây Bắc. Đó là anh thanh niên làm công tác khí tượng một mình trên đỉnh núi cao khi đang ở độ tuổi hai mươi bảy. Đang là thanh niên – cái thời gian thỏa sức vui chơi, chạy nhảy mà anh lại chấp nhận rời xa cuộc sống đô thị ồn ào náo nhiệt, rời xa gia đình để gắn bó với công việc “đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất,… phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu”. Một công việc đầy khó khăn khắc nghiệt nhưng không vì vậy mà anh bỏ bê, lơ đãng mà ngược lại, anh làm việc đầy say mê và đầy trách nhiệm. Vẫn biết công việc ấy là gian khổ nhưng “thiếu nó anh buồn đến chết mất” vì đó là niềm vui và nguồn sống của anh. Đối với anh, hạnh phúc là khi được lao động, cống hiến hết mình vì đất nước. Xây dựng đất nwocs ngày giàu mạnh hơn, với anh đó là một niềm vui. Không chỉ anh mà cả ông họa sĩ già day mê nghệ thuật, cô kĩ sư trẻ mới ra trường, bác lái xe vui tính vởi mở, ông kĩ sư ở vườn rau Sa Pa, đồng chí cán bộ nghiên cứu khoa học…đã lao động âm thầm, lặng lẽ mà đầy ý nghĩa bởi công việc của họ đã cống hiến vì đất nước, vì mọi người. Trên mặt trận lao động, con người Việt Nam luôn dốc lòng dốc sức, nhiệt tình xây dựng đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” của Huy Cận là bài thơ tiêu biểu sau Cách mạng tháng Tám như thế. Mang âm điệu ngọt ngào, niềm vui say mê và phấn chấn của nhân dân lao động đang làm chủ cuộc đời, Huy Cận đã cất lên bài ca về những người dân chài với đức tính cần cù và tinh thần lạc quan trong lao động:
“Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi”

Không còn là từng chiếc thuyền lẻ tẻ đi biển mà là cả một “đoàn thuyền”, một sức mạnh mới của cuộc đời đổi thay. Ra khơi đánh cá, họ cầu mong biển lặng sóng êm để “kéo xoăn tay chùm cá nặng”, góp phần làm giàu cho đất nước. Chi tiết “căng buồm” của tác giả đã lột tả hết thảy tinh thần phấn khơi, hăng say và khí thế ra khơi của ngư dân vùng biển:
Câu hát căng buồn với gió khơi
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi

Vẻ đẹp của họ chính là góp tay xây dựng đời thêm hạnh phúc ấm no. Góp sức nhỏ bé để làm một điều ý nghĩa và lớn lao, đó là niềm vinh hạnh, niềm vui.
Bên cạnh những vẻ đẹp truyền thống ấy, người Việt Nam còn được biết đến với vẻ đẹp trong tâm hồn sâu kín, đời sống nội tâm phong phú, tình cảm dào dạt bao la. Đến với “Đồng chí” của Chính Hữu, người đọc sẽ biết rõ hơn tình đồng chí đồng đội trong chiến đấu gian lao. Cùng là người bạn tâm giao trên chiến hào, họ chia sẻ ngọt bùi “đêm rét chung chăn” để trở thành “đôi tri kỉ”. Xúc động khi nghĩ về một tình bạn đẹp, tự hào về mối tình đồng chí cao cả thiêng liêng, cùng chung lí tưởng chiến đấu và giàu lòng yêu nước ra trận đánh giặc. Dù khó khăn cực khổ đến đâu, họ cũng đâu quản ngại bởi bên cạnh họ đã có bàn tay của người đồng đội thân thương:
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Nắm lấy bàn tay để trao truyền sức mạnh, nắm lấy bàn tay để sưới ấm cả không gian núi rừng:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo

Một khung cảnh thơ mộng, nói lên cuộc sống chiến đấu gian khổ nhưng anh bộ đội vẫn yêu đời, tình đồng chí thêm keo sơn gắn bó. Nhưng kháng chiến đâu phải chỉ dành tình cảm cho người bạn tri âm tri kỉ là đủ; họ - những người chiến sĩ vẫn dành riêng cho một góc nhỏ trái tim mình, ngoài tình yêu đất nước còn là tình yêu gia đình, tình phụ tử, mẫu tử thiêng liêng. “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng là một câu chuyện như thế. Những tưởng chiến tranh sẽ để lại đâu đó trên cuộc đời một mái ấm hạnh phúc, nhưng không, chiến tranh là toàn bộ bi kịch. Cái khao khát của một người lính sau những năm dài vào sinh ra tử được trở lại quê hương, được gặp lại vợ con, được nghe tiếng gọi “ba” một cách không trọng vẹn. Bom đạn làm thay đổi hình hai anh Sáu, ngỡ rằn bom đạn đã cắt đứt hẳn tình yêu cha trong lòng đứa con gái ngây thơ, nhưng bất ngờ làm sao cái giây phút chia xa lại rạo rực trong lòng bé Thu một tình cha con vỡ òa, sâu nặng. Chiếc lược ngà như một vật kí thác thiêng liêng về tình phụ - tử mà bom đạn kẻ thù không thể nào tàn phá nổi. Chính vì thế mà cái lúc hấp hối, anh Sáu “đưa tay vào túi, móc cây lược”, đưa cho người bạn với ánh mắt năn nỉ cầu xin, làm giúp anh cái tâm nguyện cuối cùng là trao lại kỉ vật ấy cho đứa con gái nơi quê nhà đang mong ngóng. Chiếc lược ngà mãi sẽ là nhân chứng về nỗi đau, về bi kịch đầu máu và nước mắt đã để lại nhiều ám ảnh bi thương trong lòng bạn đọc của ngày ấy, và của cả hôm nay.
Vẻ đẹp của con người Việt Nam nơi hậu phương còn là tình bà cháu thiêng liêng ấm áp. Nhà thơ Bằng Việt đã để lại cho thi đàn văn học Việt một lời thơ đẹp với cảm xúc dào dạt nhắc lại kí ức một thời gian khổ - đói nghèo chiến tranh:
Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Cháu thương bà biết mấy nắng mưa

Bếp lửa hiện lên trong sương sơm, “nồng đượm”, mang tình thương chở che, ôm ấp, “ấp iu” của lòng bà. Nghĩ về bếp lửa, nhớ về gia đình, đứa cháu thương bà khốn kể xiết. Chiến tranh – nhiều cảnh ngộ khác nhau, người bà đã thay thế vị trí người mẹ để chăm chút, để nuôi dạy đứa cháu nhỏ:
Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe
Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học
Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc…

Mỗi câu thơ như đã tô đậm thêm những phẩm chất cao quý của người bà kính yêu. Cùng với bà, hình tượng “bếp lửa” cũng đã bùng lên thành ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình thương “luôn ủ sẵn”, ngọn lửa ”dai dẳng” với niềm tin bất diệt… Mỗi vần thơ chứa đựng bao nghĩa nặng tình sâu, bà đã nhen nhóm, nuôi dưỡng trong lòng con cháu, biết bao niềm yêu thương, bao ước mơ, hoài bão… Không gian và thời gian xa cách, và dù cuộc đời có đổi thay, dù “có ngọn khói trăm tàu”, “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả” nhưng tình thương nhớ bà trong lòng người cháu vẫn mãnh liệt và thiết tha. Qua bài thơ, ta càng thấy rõ tình cảm gia đình là một tình cảm tha thiết của con người Việt Nam. Đó cũng chính là vẻ đẹp tâm ồn vô cùng ấp áp và thiêng liêng của dân tộc suốt chiều dài kháng chiến cứu nước và giữ nước.

Con người Việt Nam hiện lên trong các tác phẩm văn học hiện đại vừa mang vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, vừa mang vẻ đẹp của con người mới dưới chế độ Chủ nghĩa xã hội. Các tác phẩm phác họa vẻ đẹp của con người Việt Nam bằng sự thấu hiểu sâu sắc, bằng thái độ ngợi ca và trân trọng hết mình. Qua đó cho thấy văn học hiệc đại phát huy tinh hoa bản sắc và tâm hồn dân tộc Việt, có sự kế thừa và phát huy những vẻ đẹp truyền thống của dân tộc, đồng thời góp phần bồi đắp tâm hồn, tính cách cho các thế hệ của con người Việt Nam.

29 tháng 5 2019

- Mở bài: Mở bài đúng hướng, nêu được vấn đề cần nghị luận.

- Thân bài:

+ Vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ: yêu nước, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì Tổ quốc, vì cách mạng…

+ Lựa chọn, phân tích, dẫn chứng qua các tác phẩm: Làng ( Kim Lân ), Đồng chí ( Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật), Những ngôi sao xa xôi ( Lê Minh Khuê)…

+ Vẻ đẹp của tinh thần lao động hăng say, với tinh thần làm chủ…góp phần xây dựng đất nước. ( Phân tích, dẫn chứng qua các tác phẩm: Đoàn thuyền đánh cá ( Huy Cận ), Lặng lẽ Sa Pa ( Nguyễn Thành Long )…

+ Vẻ đẹp tâm hồn của con người Việt Nam trong đời sống tình cảm: lòng kính yêu đối với lãnh tụ; tình đồng chí, đồng đội; tình cảm cha-con, tình mẹcon, tình bà-cháu… ( Lựa chọn, phân tích, dẫn chứng qua các tác phẩm: Viếng lăng Bác ( Viễn Phương ), Đồng chí ( Chính Hữu), Bài thơ về tiểu đội xe không kính ( Phạm Tiến Duật) Chiếc lược ngà ( Nguyễn Quang Sáng), Con cò (Chế Lan Viên ), Khúc hát ru những em bé lớn trên lưng mẹ ( Nguyễn Khoa Điềm ), Bếp lửa ( Bằng Việt ), Mùa xuân nho nhỏ ( Thanh Hải ), Ánh trăng ( Nguyễn Duy)

- Kết bài : Khẳng định nền văn học Việt Nam hiện đại đã lưu giữ, phát huy những tinh hoa và bản sắc của tâm hồn dân tộc. Góp phần bồi đắp tâm hồn, tính cách… cho các thế hệ Việt Nam ở hiện tại và tương lai.