K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 2 2018

                                                                                                                                                                                  Ths. Trần Bá Long

Phòng Khoa học – Thông tin – Tư liệu

Là một loại hình nghệ thuật đã được tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại, tuy nhiên, do Dân ca Nghệ Tĩnh có nguồn gốc rất xa xưa, lại được truyền lại chủ yếu qua dân gian nên loại hình nghệ thuật này chỉ được người dân Việt Nam, kể cả người dân hai tỉnh Nghệ An, Hà tĩnh biết đến nó vì sự đặc sắc của nó chứ không biết nhiều về bản thân loại hình nghệ thuật này. Ngay cái tên của nó là Giặm hay Dặm cũng đang còn được bàn cãi bởi các nhà nghiên cứu nghệ thuật. Nhân dịp Nghệ An, Hà Tĩnh đón nhận quyết định của UNESCO  về Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh là di sản văn hoá phi vật thể đại diện của nhân loại, chúng ta hãy tìm hiểu đôi nét về loại hình nghệ thuật đặc sắc này.

Nói đến Dân ca Nghệ Tĩnh phải nói đến ba thể hát đó là: hát Hò, hát Ví và hát Giặm. Đây là ba thể đặc sắc và điển hình nhất của người việt Nghệ Tĩnh. Bởi nó thể hiện được rõ bản sắc của một vùng quê Bắc Trung Bộ. Tính đặc sắc của nó có thể so sánh với một số thể hát Dân ca của các vùng khác như: hát Xoan, hát Ghẹo ở Phú Thọ, dân ca Quan họ ở Bắc Ninh, hát Lý, hát Hò ở Huế, hát Bài chòi ở Bình Định… Tuy nhiên Hò , Ví, Giặm Nghệ Tĩnh nếu xét về thổ sản của vùng miền thì vẫn còn nhiều ý kiến trái chiều, chưa thống nhất. Có ý kiến cho rằng: thổ sản của Dân ca Nghệ Tĩnh thì chỉ có hát Ví và hát Giặm, còn Hò là thể hát được Nghệ hóa từ đằng trong ra và đằng ngoài vào. Cũng có ý kiến cho rằng Hò , Ví, Giặm Nghệ Tĩnh đã bám sâu gốc rễ của nhân dân xứ Nghệ hàng bao đời nay và cụm từ Hò, Ví, Giặm là không thể tách rời. Nếu chỉ dựa vào tên gọi để xếp nó vào hàng thổ sản thì không thể thuyết phục. Nói về hát Ví: Ngoài hát Ví Nghệ Tĩnh ra còn có hát Ví của Đồng Bằng Bắc Bộ. Hát Giặm thì có hát giặm của Hà Nam Ninh. Hò thì có Hò Huế, Hò Quảng Bình, Hò Quảng Nam, Hò Quảng Trị, Hò Nam Bộ…

 Dân ca Ví, giặm Nghệ Tĩnh là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thuộc miền Trung Việt Nam.  Loại hình nghệ thuật này phổ biến trong đời sống của các cộng đồng xứ Nghệ, được hát trong hầu hết mọi hoạt động đời thường, từ ru con, dệt vải, trồng lúa... Lời ca của dân ca Ví, giặm ca ngợi những giá trị sâu sắc và truyền thống như sự tôn trọng với các bậc cha mẹ, lòng chung thủy, tận tụy vì người khác cũng như ngợi ca đức tính thật thà và cách cư xử tử tế giữa con người với con người. Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh được lưu truyền rộng rãi trong cộng đồng người Việt ở 259 làng, thôn, xóm, khu dân cư của hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh, chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân địa phương, làm nên bản sắc riêng của văn hóa xứ Nghệ.

Ví, Giặm

               Là hai thể hát dân ca có ca từ bằng thơ dân gian cô đọng, súc tích, dễ thuộc, dễ nhớ, dễ hát nên luôn được trao truyền, kế thừa và sáng tạo. Các chuyên gia ước tính có khoảng 15 điệu Ví, 8 điệu Giặm được gọi tên theo bối cảnh cuộc sống, lao động, nghề nghiệp như Ví phường vải, Ví đò đưa, Giặm ru, Giặm kể…

 Theo thống kê năm 2013, tại hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh hiện vẫn còn 259 làng có thực hành dân ca Ví, giặm, có 75 nhóm dân ca Ví, Giặm đang hoạt động với trên 1.500 thành viên. Qua tìm hiểu và nghiên cứu về tính chất và môi trường không gian diễn xướng dân ca Hò-Ví-Giặm các nhà nghiên cứu tìm thấy các đặc trưng diễn xướng của Ví giặm Nghệ Tĩnh:

  1. Hát gắn với không gian và môi trường lao động .
  2. Hát mang tính du hý vào những dịp Hội hè, Tết nhất, Đình đám, thi thố tài năng.
  3. Tính giao duyên giữa những lứa đôi trai gái.
  4. Tính tự tình, nghĩa là mượn câu hát để bộc lộ nội tâm.
  5. Tính tự sự, dùng hình thức kể vè để thuật lại những sự việc xẩy ra.
  6. Tính chất tâm linh.
  7. Tính giáo huấn.
  8. Tính hành nghề (mưu sinh) đối với các phường trò chuyên nghiệp hoá.
  9. Tính đa dùng. Nghĩa là nó giàu tính biểu cảm.
  10. Tính phổ cập. Hầu như khắp mọi miền quê, trai gái trẻ già ai ai cũng có thể hát được.

Hát Ví

Hát Ví hát giao duyên nam nữ được phổ biến vùng Nghệ Tĩnh, các thể kỷ trước dùng để trao đổi tình cảm giữa đôi trai gái. Vào các đêm trăng sáng thường đi ngắm trăng. Hát theo lối tường thuật ngẫu hứng một câu chuyện nào đó trong quá trình lao động và nông nhàn, trong lối sống thường nhật lâu dần được dân gian hóa.

Hát Ví thường là hát tự do, không có tiết tấu từng khuôn nhịp, người hát có thể co dãn một cách ngẫu hứng. Âm điệu cao thấp ngắn dài có khi còn tuỳ thuộc vào lời thơ (ca từ) bằng hay trắc, ít từ hay nhiều từ. Ví thuộc thể ngâm vĩnh, bằng phương pháp phổ thơ dân tộc (lục bát, song thất lục bát, lục bát biến thể...)

Tính biểu cảm của hát Ví tuỳ vào môi trường hoàn cảnh, không gian thời gian và tâm tính của người hát. Âm vực của Ví thường không quá một quãng 8. Tình điệu Ví nghe trang trải mênh mang sâu lắng, bâng khuâng xao xuyến, tha thiết ân tình. Tuy vậy, vẫn có loại Ví ghẹo và Ví mục đồng nghe dí dỏm hài hước, nghịch ngợm hồn nhiên tươi trẻ.

           Thể hát Ví: Ví có nhiều điệu như: Ví đò đưa, Ví phường vải, Ví phường cấy, Ví phường võng, Ví phường chè, Ví đồng ruộng, Ví trèo non, Ví mục đồng, Ví chuỗi, Ví ghẹo...

Hát Giặm

Đã có nhiều ý kiến giải thích về tên gọi của hát Giặm. Người thì cho rằng giặm là quãng (quãng đường), người thì nói giặm là giẵm (giẫm chân theo nhịp hát); Theo ngôn ngữ bản địa, giặm là động từ là chen vào hay chêm vào (Giặm mạ, giặm lúa…) như vậy  có thể tạm thống nhất là Giặm chứ không phải là Dặm vì hát "Giặm" có nghĩa là ghép vào, xen kẽ với nhau, thường 2 hay 3 người hát đối diện nhau.

Giặm là thể hát nói, bằng thơ ngụ ngôn (thơ / vè 5 chữ), nói cách khác thì Giặm là thơ ngụ ngôn / vè nhật trình được tuyền luật hoá. Khác với Ví, Giặm là thể hát có tiết tấu rõ ràng, có phách mạnh phách nhẹ, có nhịp nội nhịp ngoại.Thông thường một bài Giặm có nhiều khổ, mỗi khổ có 5 câu (câu 5 thường điệp lại câu 4), mỗi câu có 5 từ (không kể phụ âm đệm). Tuy vậy, cũng có những bài Giặm/ vè không phân khổ rõ ràng, mà cứ hát một lèo, có khi đến hàng chục hàng trăm câu, và mỗi câu cũng không nhất nhất 5 chữ mà có thể 4 hoặc 6,7 chữ (do lời thơ biến thể).

Giặm rất giàu tính tự sự, tự tình, kể lể khuyên răn, phân trần bày giải. Cũng có loại Giặm dí dỏm khôi hài, châm biếm trào lộng và có cả Giặm trữ tình giao duyên. Âm nhạc đi theo thường là phách. Các làn điệu của hát Giặm như: Giặm xẩm, Giặm nối, Giặm vè, Giặm điên, Giặm của quyền, Giặm kể.

           Hát Giặm có thể xếp vào thể loại hát Giao duyên. Bởi đây là thể hát có lề lối, tuy không được quy củ cho lắm nhưng hình thức ca hát cũng là đối đáp nam nữ, bên này đối với bên kia. Qua quá trình hát cũng đã có chuyện trao tình trao ngãi và cũng có chuyện nên duyên, nên nghĩa vợ chồng:

 Nghe đồn chợ Cầu hơn đỗ

 Đồn chợ Trỗ hơn Vưng

 Gạo chợ Chế cầm thưng

 Bạc chợ Vịnh cầm chừng

Tui với mự ta chung lưng

Tui năm quan tiền kẽm

Mự chục quan tiền Đồng

Bỏ vô gánh vô gồng

Ai chung nữa cũng không

Vô đàng trong ta chạm Gạo

Ra đàng ngoài ta chạm Gạo.

Và khi đã thương nhau thì cũng hẹn hò xe kết:

Khi mô lươn lên rừng mần tổ

Vượn chống Nôốc đi buôn

Ruồi độ gãy cành cơn

Nước đỗ thấm lá Môn

Chuột khoét thủng Hoành Sơn

Anh với em xa ngái

Bạn với mình xa ngái.

Song cũng có khi mối tình lỡ dở, những lời lẽ oán trách cũng tràn ngập trong những câu hát Giặm:

Trước thì mự nói mự thương

Cau tui dành để trên buồng

Trầu tui dành để ngoài nương

Tiền thì buộc chạc trong rương

Lợn thì ục ịch trong chuồng

Giừ thì mự nói mự nỏ thương

Trầu thì rụng cuống ngoài nương

Lợn thì bỏ cám trong truồng

Chọng thì để môốc trong buồng

Bạc tình chi rứa mự

Chi mà bạc tình rứa mự.

Trong lề lối hát Giặm cũng có lệ xưng danh, xưng quê quán:

Em vốn tuổi con rồng

Họ với đức Gia Long

Tên cùng với Chu Công

Làng em ở bên sông

Nhà em ở giữa đồng

Trong vườn có cơn Hồng

Có bể cạn nước trong

Có thiên đài thổ công

Mời anh sang ta nhởi

Xin mời chàng sang nhởi.

Giặm còn để bắt bẻ nhau, bài xích nhau hoặc đấu trí, đấu lời. Đây cũng là hiện tượng đối đáp thường xẩy ra trong hát Giặm. Ngoài loại hát Giặm có đối đáp còn có hát Giặm không có đối đáp như: Giặm ru, Giặm nối, Giặm kể… Giặm ru là Giặm được hát lúc ru con với nhịp điệu chậm rãi và có phần buông lơi, giai điệu buồn buồn, tha thiết; Giặm kể thì thường dùng những lời ca nhằm kể lại những câu chuyện trong làng ngoài xóm; Giặm xẩm là làn điệu Giặm mà những người hát Xẩm thường hay hát. Họ là những người mù, dùng lời ca tiếng hát để kiếm kế sinh nhai. Giặm Xẩm thường kể lể sự tình, than thân trách phận để kêu gọi tình thương đối với đồng loại khi gặp khó khăn trắc trở. Vào thời chiến loạn đất nước bị xâm lược, đô hộ thì Giặm xẩm còn được những người hát Xẩm dùng lời ca tiếng hát của mình kêu gọi nhân dân, kêu gọi đồng bào đứng lên chống giặc, chống ngoại xâm…

 Về ca từ

Qua tìm hiểu một số thể hát Dân ca của một số vùng miền cho thấy hầu hết lời văn của nó thường dùng thể thơ Lục bát hoặc Lục bát biến thể chứ ít thấy thể thơ năm từ. Ngược lại ở hát Giặm Nghệ Tĩnh chủ yếu sử dụng thể thơ Ngũ ngôn mỗi câu 5 chữ, mỗi Trổ 5 câu. Câu thứ 5 được láy lại câu thứ 4 và nếu có biến thể thì các khung của trổ hát Giặm cũng được ổn định với quá trình từ câu mở đầu đến câu kết thúc:

Mự nỏ biết tui mô

Tui nỏ biết mự mô

Sóng ngoài Bể dồn vô

Mây rừng xanh kéo lạiMây đại ngàn kéo lại.

Cá biệt trong hát Giặm có dùng thể thơ 7 từ như trong hát Giặm cử a quyền:

Trước lên Đền tui quen cụ Thượ ng

Về chợ Hạ tui quen cụ Đình

Vô Lạc Thiện tui quen cụ Ấm Ninh…

Hay có bài Giặm lại được mở đầu bằng thơ Lục bát: Cực lòng mẹ góa con côi

Đi thì thương tiếc phải ngồi nuôi con

Trăm năm tính chuyện vuông tròn

Đành lòng ở vậy nuôi con thờ chồng.

 Song thể thơ chủ đạo của hát Giặm vẫn là thể thơ 5 từ, tuy nhiên số lượng câu thơ trong mỗi khổ hay số từ trong mỗi câu có thể được mở rộng nhưng nguyên tắc vần chân và hiện tượng điệp câu vẫn được bảo lưu:

 Têm một quả trầu không

Bỏ vô hộp con Rồng

Đi băng nội băng đồng

Qua năm bảy khúc sông

Nghe tin em đã có chồng

Anh quăng lắc vô bụi

Anh gạt tùa vô bụi

               Số lượng câu thơ trong hát Giặm không hạn định, có thể hát hết khổ thơ này đến khổ thơ khác, kết thúc một khổ thơ luôn là câu láy lại. Đó là câu thứ 5 của khổ thơ. Câu thơ này còn có tác dụng là cầu nối sang khổ thơ khác. Bởi vậy một bài Giặm vè hay một bài Giặm nối có thể có độ dài khá lớn. Đây cũng là một trong những yếu tố khác biệt của hát Giặm Nghệ Tĩnh so với một số thể hát của vùng miền khác.

 Một số tác phẩm Ví, giặm

               Ví giận thương, Hát khuyên, đại thạch, tứ hoa, xẩm thương, xẩm chợ, một nắng hai sương, tình sâu nghĩa nặng, em giữ lời nguyền, khóc cha, cuộc đời nổi trôi, ai cứu chàng, Con cóc, xoay xở, lập lờ, lập loè, đi rao, đèo bòng, khen Thầy tài, to gan, uất ức, bướm say hoa, chồng chềnh, lòng vả lòng sung, Vào hội đông xuân, đứng thẳng người lên, gốc lúa quầng trăng, cha ơi ngồi dậy mà xem, hỡi công nông binh, hò vượt sông...

10 tháng 2 2018

Hát giặm
Dặm là thể hát nói, bằng thơ ngụ ngôn (thơ / vè 5 chữ), nói cách khác thì dặm là thơ ngụ ngôn / vè nhật trình được tuyền luật hoá. Khác với ví, giặm là thể hát có tiết tấu rõ ràng, có phách mạnh phách nhẹ, có nhịp nội nhịp ngoại.Thông thường một bài dặm có nhiều khổ, mỗi khổ có 5 câu (câu 5 thường điệp lại câu 4), mỗi câu có 5 từ (không kể phụ âm đệm). Tuy vậy, cũng có những bài dặm/ vè không phân khổ rõ ràng, mà cứ hát một lèo, có khi đến hàng chục hàng trăm câu, và mỗi câu cũng không nhất nhất 5 chữ mà có thể 4 hoặc 6,7 chữ (do lời thơ biến thể).

Dặm rất giàu tính tự sự, tự tình, kể lể khuyên răn, phân trần bày giải. Cũng có loại dặm dí dỏm khôi hài, châm biếm trào lộng và có cả dặm trữ tình giao duyên.

Hát giặm là một thể loại hát nói bằng thơ ngụ ngôn (thơ - vè). Âm nhạc đi theo thường là phách. "Dặm" có nghĩa là ghép vào, xen kẽ với nhau, thường 2 hay 3 người hát đối diện nhau hát.

Các làn điệu của hát dặm như: Dặm xẩm, dặm nối, dặm vè, dặm điên, dặm của quyền, dặm kể. Có các tiết tấu phách mạnh, phách nhẹ, những nhịp trong và ngoài. Các thể loại này rất giàu tính tự sự, kể lể, khuyên răn, phân trần, giãi bày,...thuộc dạng thể thơ năm chữ,cách gieo vần,ngắt nhịp,...

I. Đôi nét về tác giả Tô Hoài

- Tô Hoài (1920 - 2014), tên khai sinh là Nguyễn Sen.

- Tô Hoài sinh ra tại quê nội ở thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông cũ. Tuy nhiên, ông lớn lên ở quê ngoại là làng Nghĩa Đô, huyện Từ Liêm, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông (nay thuộc phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội).

- Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục, tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta.

- Sáng tác của ông thiên về diễn tả những sự thật đời thường.

- Các tác phẩm của ông thuộc nhiều thể loại khác nhau như truyện ngắn, truyện dài, hồi ký, kịch bản phim, tiểu luận…

- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Một số tác phẩm tiêu biểu:

  • Dế Mèn phiêu lưu ký (truyện dài, 1941)
  • O chuột (tập truyện ngắn, 1942)
  • Cỏ dại (hồi ký, 1944)
  • Truyện Tây Bắc (tập truyện, 1953)
  • Tự truyện (1978)
  • Quê nhà (tiểu thuyết, 1981)
  • Cát bụi chân ai (hồi ký, 1992)
  • Chiều chiều (tiểu thuyết, 1999)
  • Chuyện cũ Hà Nội (ký sự, 2010)...

II. Giới thiệu về Bài học đường đời đầu tiên

1. Xuất xứ

- Bài học đường đời đầu tiên trích trong chương I của truyện Dế Mèn phiêu lưu kí.

- Tên của đoạn trích do người biên soạn SGK đặt.

- Dế Mèn phiêu lưu kí được in lần đầu năm 1941, là tác phẩm đặc sắc nhất và nổi tiếng nhất của nhà văn Tô Hoài dành cho lứa tuổi thiếu nhi. Truyện gồm mười chương, kể về cuộc phiêu lưu của nhân vật chính là chú Dế Mèn.

2. Bố cục

Gồm 4 phần:

  • Phần 1. Từ đầu đến “cũng không thể làm lại được”: Dế Mèn giới thiệu về bản thân.
  • Phần 2. Tiếp theo đến “Tôi về, không chút bận tâm”. Câu chuyện về người bạn hàng xóm là Dế Choắt.
  • Phần 3. Tiếp theo đến “cảnh đau khổ vừa gây ra”. Dế Mèn trêu chị Cốc khiến Dế Choắt phải chịu oan.
  • Phần 4. Còn lại. Bài học đường đời đầu tiên của Dế Mèn.

3. Tóm tắt

Dế Mèn là một chú dế cường tráng bởi biết ăn uống điều độ. Tuy nhiên, cậu chàng lại có tính kiêu căng, luôn nghĩ mình “có thể sắp đứng đầu thiên hạ”. Dế Mèn luôn coi thường những người xung quanh, đặc biệt là Dế Choắt - người bạn hàng xóm gầy gò và yếu ớt. Một lần, Dế Mèn bày trò trêu chị Cốc khiến cho Dế Choắt phải chịu oan. Choắt bị chị Cốc mổ đến kiệt sức. Trước khi chết, Choắt khuyên Dế Mèn bỏ thói kiêu căng của mình. Dế Mèn vô cùng ân hận và nhận ra bài học đường đời đầu tiên của mình.

Xem thêm tại Tóm tắt Bài học đường đời đầu tiên

Tổng kết:

  • Nội dung: Qua đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên, tác muốn gửi gắm bài học ý nghĩa: “ Ở đời mà có thói hung hăng bậy bạ, có đầu óc mà không biết nghĩa sớm muộn rồi cũng mang vạ vào thân mình”.
  • Nghệ thuật: nghệ thuật miêu tả nhân vật, sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa…

1.Tô Hoài (1920-2014) tên khai sinh là Nguyễn Sen, quê nội ở huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây (nay thuộc Hà Nội), lớn lên ở quê ngoại - làng Nghĩa Đô, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, nay thuộc quận Cầu Giấy, Hà Nội

-

Sự nghiệp sáng tác

- Tô Hoài viết văn từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945

- Ông có khối lượng tác phẩm phong phú và đa dạng, gồm nhiều thể loại

- Năm 1996, ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học, nghệ thuật

2.Bài học đường đời đầu tiên trích trong chương I của truyện Dế Mèn phiêu lưu kí.Năm 1941

Thể loại:tiểu thuyết đồng thoại- loại truyện dành cho thiếu nhi.

Tốm tắt:Dế Mèn là chàng dế thanh niên cường tráng biết ăn uống điều độ và làm việc có chừng mực. Tuy nhiên Dế Mèn tính tình kiêu căng, tự phụ luôn nghĩ mình “là tay ghê gớm, có thể sắp đứng đầu thiên hạ”. Bởi thế mà Dế Mèn không chịu giúp đỡ Dế Choắt- người hàng xóm trạc tuổi Dế Mèn với vẻ ngoài ốm yếu, gầy gò như gã nghiện thuốc phiện. Dế Mèn vì thiếu suy nghĩ, lại thêm tính xốc nổi đã bày trò nghịch dại trêu chị Cốc khiến Dế Choắt chết oan. Trước khi chết, Dế Choắt tha lỗi và khuyên Dế Mèn bỏ thói hung hăng, bậy bạ. Dế Mèn sau khi chôn cất Dế Choắt vô cùng ân hận và suy nghĩ về bài học đường đời đầu tiên.

3.Có vì truyện đồng thoại là một thể loại văn học dành cho thiếu nhi, lấy loài vật làm nhân vật, lúc nào cũng thích hợp. Nhân vật trong truyện đồng thoại được nhân cách hóa trên cơ sở đảm bảo “không thoát li sinh hoạt thật có của loài vật”

19 tháng 12 2021

Bài thơ "Truyện cổ nước mìnhcủa Lâm Thị Mỹ Dạ viết bằng thể thơ lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, mang màu sắc ca dao, dân ca. Qua bài thơ tác giả ca ngợi truyện cổ của nước mình mang nhiều ý nghĩa sâu xa, chứa đựng bao bài học quý báu của ông cha truyền lại cho con cháu đời sau.

19 tháng 12 2021

Bài thơ "Truyện cổ nước mìnhcủa Lâm Thị Mỹ Dạ viết bằng thể thơ lục bát, âm điệu nhẹ nhàng, mang màu sắc ca dao, dân ca. Qua bài thơ tác giả ca ngợi truyện cổ của nước mình mang nhiều ý nghĩa sâu xa, chứa đựng bao bài học quý báu của ông cha truyền lại cho con cháu đời sau.

21 tháng 12 2023

n/m