K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

10 tháng 12 2021

Em tham khảo:

 

Đến hai câu kết, là nỗi khát mong của người nghệ sĩ muôn đời mong được tri âm, đồng cảm:

“Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”.

Ba trăm năm là khoảng thời gian xác định nhưng rất dài. Nó là khoảng thời gian đủ để mọi việc lui vào quá khứ cái còn cái mất. Cả câu thơ là hơn ba trăm năm sau liệu trên thế gian này có người nào khóc Tố Như. Ông khắc khoải mong chờ một sự cảm thông của hậu thế. Vậy là từ số phận của nàng Tiểu Thanh, Nguyễn Du liên tưởng tới số phận mình. Chiếc gạch nối xuyên thời gian, không gian ấy có ý nghĩa như một yêu cầu phổ quát đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại về thái độ nhân hậu, trước hết là sự cảm thông đối với cái đẹp, sự hoàn thiện hoàn mĩ thể chất và tâm hồn con người. Nguyễn Du là con người bị bế tắc, mong được giải thoát mà vẫn không tìm thấy đường ra. “ Khấp” là đến tận cùng của sự đau thương. Khấp là khóc cho Nguyễn Du cũng như bao người tài hoa như ông.

10 tháng 12 2021

Cảm ơn bạn 

25 tháng 10 2017

Chọn đáp án: D

Hướng dẫn học bài

Câu 1 (trang 133 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Nguyễn Du đồng cảm với số phận nàng Tiểu Thanh vì: nàng là người xinh đẹp, tài giỏi, có tài văn chương nhưng những tác phẩm nàng để lại đều bị đốt dở, lại phải sống trong oan ức và chết trong bất hạnh. Điều này khiến Nguyễn Du suy nghĩ về cuộc đời của những người có văn chương, nghệ thuật – những người Tiểu Thanh, như Thúy Kiều đều bị thói đời ganh ghét.

Câu 2 (trang 133 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

- “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi” có nghĩa là những mối hận cổ kim khó mà hỏi trời được (bản dịch nghĩa hờn không mạnh bằng).

- Nỗi hờn (hận) ở đây là mối hận của người xưa (nàng Tiểu Thanh), của những người phụ nữa “hồng nhan bạc mệnh” ngày nay, cũng có thể là mối hận của những người tài hoa trong xã hội. Nỗi hận ấy bao đời nay chẳng thay đổi bởi vậy nên có hỏi ông trời cũng không giải đáp được.

Câu 3 (trang 133 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):

Nguyễn Du thương xót và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh. Điều đó nói lên ông là người có tấm lòng nhân đạo. Ông thương cảm với số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh - một người “tài sắc vẹn toàn”. Ông đau đớn bởi "Văn chương không có số mệnh mà bị đốt bỏ". Ông trân trọng những giá trị tinh thần của người nghệ sĩ (ở đây là một nữ nghệ sĩ), đó là một giá trị nhân bản tiến bộ của Nguyễn Du.

Câu 4 (trang 133 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1):Vai trò của mỗi đoạn thơ đối với chủ đề toàn bài:

- Hai câu đề là hai câu tả cảnh để mà kể việc. Từ quang cảnh hoa phế ở Tây Hồ, người đọc liên tưởng đến cuộc đời thay đổi. Hai câu này cũng nêu ra hoàn cảnh nảy sinh cảm xúc của nhà thơ

- Hai câu thực nêu lên những suy nghĩ về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh thông qua hai hình ảnh ẩn dụ son phấn (vẻ đẹp) và văn chương (tài năng).

- Hai câu luận bắt đầu khái quát, nâng vấn đề, liên hệ thân phận của nàng Tiểu Thanh với những bậc văn nhân tài tử trong đó có nhà thơ.

- Hai câu kết là tiếng lòng của nhà thơ mong tìm thấy một tiếng lòng đồng cảm của người đời sau.

1 tháng 1 2022

tk:

Độc Tiểu Thanh kí là một trong những bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du in trong Thanh Hiên thi tập. Có thể Nguyễn Du sáng tác bài này trước hoặc sau khi được triều đình cử đi sứ sang Trung Quốc.

Thắng cảnh Tây Hồ gắn liền với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.

Nguyễn Du đọc những bài thơ ấy, lòng dạt dào thương cảm cô gái tài hoa bạc mệnh, đồng thời ông cũng bày tỏ nỗi băn khoăn, day dứt trước số phận bất hạnh của bao con người tài hoa khác trong xã hội cũ, trong đó có cả bản thân ông.

Phiên âm chữ Hán:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn;
Phong vận kì oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

Dịch thơ Tiếng Việt:

Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?

Đến với Tiểu Thanh ba trăm năm sau ngày nàng mất, trong lòng nhà thơ Nguyễn Du dậy lên cảm xúc xót xa trước cảnh đời tang thương dâu bể:

Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư,
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,)

Câu thơ có sức gợi liên tưởng rất lớn. Cảnh đẹp năm xưa đã thành phế tích, đã bị hủy hoại chẳng còn lại gì. Trên gò hoang ấy chôn vùi nắm xương tàn của nàng Tiểu Thanh xấu số. Nói đến cảnh đẹp Tây Hồ, chắc hẳn tác giả còn ngụ ý nói về con người đã từng sống ở đây, tức Tiểu Thanh. Cuộc đời của người con gái tài sắc này cũng chẳng còn lại gì ngoài những giai thoại về nàng. Cảnh ấy khiến tình này nhân lên gấp bội. Trái tim của nhà thơ thổn thức trước những gì gợi lại một kiếp người bất hạnh:

Độc điếu song tiền nhất chi thư.
(Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)

Tiểu Thanh đã bày tỏ tâm trạng của mình qua những bài thơ đó như thế nào?

Chắc chắn là nỗi buồn tủi cho thân phận, nỗi xót xa cho duyên kiếp dở dang và thống thiết hơn cả là nỗi đau nhân tình không người chia sẻ. Tiếng lòng Tiểu Thanh đồng điệu với tiếng lòng Nguyễn Du nên mới gây được xúc động mãnh liệt đến thế. Nhà thơ khóc thương Tiểu Thanh tài hoa bạc mệnh, đồng thời cũng là khóc thương chính mình – kẻ cùng hội cùng thuyền trong giới phong vận.

Nguyễn Du có cảm giác là dường như linh hồn Tiểu Thanh vẫn còn vương vấn đâu đây. Nàng chết lúc mới mười tám tuổi trong cô đơn, héo hắt, đau khổ. Oan hồn của nàng làm sao tiêu tan được?

Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư:
(Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.)

Ba trăm năm đã qua nhưng tất cả những gì gắn bó với nàng vẫn như còn đó. Chi phấn (son phấn) nghĩa bóng chi phụ nữ; tức Tiểu Thanh. Son phấn là vật để trang điểm, song nó cung tượng trưng cho sắc đẹp phụ nữ. Mà sắc đẹp thì có thần (thần chữ Hán cũng có nghĩa như hồn) nó vẫn sống mãi với thời gian như Tây Thi, Dương Quý Phi tên tuổi đời đời còn lưu lại. Nỗi hận của son phấn Cũng là nỗi hận của Tiểu Thanh, của sắc đẹp, của cái Đẹp bị hãm hại, dập vùi. Nó có thể bị đày đọa, bị chôn vùi, nhưng nó vẫn để thương để tiếc cho muôn đời.

Văn chương là cái tài của Tiểu Thanh nói riêng và cũng là vẻ đẹp tinh thần của cuộc đời nói chung. Văn chương vô mệnh bởi nó đâu có sống chết như người? Ấy vậy mà ở đây, nó như có linh hồn, cũng biết giận, biết thương, biết cố gắng chống chọi lại bạo lực hủy diệt để tồn tại, để nói với người đời sau những điều tâm huyết. Dụ nó có bị đốt, bị hủy, nhưng những gì còn sót lại vẫn khiến người đời thương cảm, xót xa. Nhà thơ đã thay đổi số phận cho son phấn, văn chương, để chúng được sống và gắn bó với Tiểu Thanh, thay nàng nói lên nỗi uất hận ngàn đời. Hai câu thơ đầy ý vị ngậm ngùi, cay đắng, như một tiếng khóc thổn thức, nghẹn ngào.

 

Đến hai câu luận:

Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kì oan ngã tự cư.
(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.)

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ niềm thương cảm của lòng mình. Câu thơ: cổ kim hận sự thiên nan vấn chứa đựng sự tuyệt vọng. Từ nỗi hận nhỏ là hận riêng cho số phận Tiểu Thanh, Nguyễn Du nâng cao, mở rộng thành nỗi hận truyền kiếp từ xưa tới nay của giới giai nhân tài tử. Tài hoa bạc mệnh, đó có phải là quy luật bất di bất dịch của Tạo hóa ? Là định mệnh rõ ràng khắt khe của số phận? Nếu đúng như thế thì nguyên nhân là do đâu? Trải mấy ngàn năm, điều đó đã tích tụ thành nỗi oán hờn to lớn mà không biết hỏi ai. Nỗi oan lạ lùng của những kẻ tài sắc như Tiểu Thanh cũng là nỗi oan của những người tài hoa bạc mệnh rõ ràng là vô lí, bất công, nhưng khó mà hỏi trời vì trời cũng không sao giải thích được (thiên nan vấn). Do đó mà càng thêm hờn, thêm hận.

Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? Nguyễn Du đã từng viết: Chữ tài liền với chữ tai một vần. Bởi thế nên phong lưu đã thành cái án chung thân mà khách (kẻ tài hoa) phải mang nặng suốt đời. Oái oăm thay, biết là vậy mà bao thế hệ văn nhân tài tử vẫn tự mang nó vào mình. Nguyễn Du đã nhập thân vào Tiểu Thanh để nói lên những điều bao đời nay vẫn cứ mãi băn khoăn, dằn vặt.

Càng ngẫm nghĩ, nhà thơ càng thương tiếc Tiểu Thanh và càng thương thân phận mình. Từ thương người, ông chuyển sang thương thân:

Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Câu hỏi đậm sắc thái tu từ cho thấy Nguyễn Du vừa băn khoăn vừa mong đợi người đời sau đồng cảm và thương cảm cho số phận của mình. Có thể hiểu ba trăm năm là con số tượng trưng cho một khoảng thời gian rất dài. Ý Nguyễn Du muốn bày tỏ là giờ đây, một mình ta khóc nàng, coi nỗi oan của nàng như của ta. Vậy sau này liệu có còn ai mang nỗi oan như ta nhỏ lệ khóc ta chăng? Câu thơ thể hiện tâm trạng cô đơn của nhà thơ vì chưa tìm thấy người đồng cảm trong hiện tại nên đành gửi hi vọng da diết ấy vào hậu thế. Hậu thế không chỉ khóc cho riêng Tố Như, mà là khóc cho bao kiếp tài hoa tài tử khác.

Nhà thơ thấy giữa mình và Tiểu Thanh có những nét đồng bệnh tương liên. Tiểu Thanh mất đi, ba trăm năm sau có Nguyễn Du thương xót cho số phận nàng. Liệu sau khi Tố Như chết ba trăm năm, có ai nhớ tới ông mà khóc thương chặng?

Câu thơ như tiếng khóc xót xa cho thân phận, thương mình bơ vơ, cô độc, không kẻ tri âm, tri kỉ; một mình ôm mối hận của kẻ tài hoa bạc mệnh giữa cõi đời. Dường như nhà thơ, đang mang tâm trạng của nàng Kiều sau bao sóng gió cuộc đời: Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh,/ Giật mình, mình lại thương mình xót xa.

Mở đầu bài thơ là thương người, kết thúc bài thơ là thương thân. Tứ thơ không có gì lạc điệu bởi đến đây, Tiểu Thanh và Nguyễn Du đã hòa làm một – một số kiếp tài hoa mà đau thương trong muôn vàn số kiếp tài hoa đau thương trong xã hội phong kiến cũ.

Bài thơ cho thấy niềm thương cảm của Nguyễn Du đối với con người mênh mông biết chừng nào! Nó không bị giới hạn bởi thời gian và không gian. Nguyễn Du không chỉ thương người đang sống mà thương cả người đã khuất mấy trăm năm. Thương người, thương mình, đó là biểu hiện cao nhất của đạo làm người. Đời người hữu hạn mà nỗi đau con người thì vô hạn. Trái tim đa cảm của nhà thơ rất nhạy bén trước nỗi đau to lớn ấy. Giống như Truyện Kiều, Độc Tiểu Thanh kí là đỉnh cao tư tưởng nhân văn của đại thi hào Nguyễn Du.

2.2. Phân tích độc tiểu thanh kí số 2

Nguyễn Du là một cái tên mà nhắc đến thì ai cũng biết. Tên tuổi của ông thường gắn liền với Truyện Kiều thế nhưng ông còn nhiều sáng tác khác nữa. Có thể nói Nguyễn Du là một người có sự đồng cảm với những người phụ nữ đương thời. Chính vì thế những bài thơ của ông thường khóc cho số phận của những con người hồng nhan bạc mệnh. Ngoài Kiều ra thì chúng ta còn thấy Nguyễn Du khóc thương cho nàng tiểu Thanh đời nhà Minh qua tác phẩm độc tiểu thanh ký. Qua bài thơ Nguyễn Du thể hiện sự thương cảm cho những con người tài sắc nhưng bạc mệnh. Đồng thời qua đó ông thể hiện sự day dứt trăn trở cho số phận những người có tài trong đó có chính bản thân ông.

Cảnh Hồ Tây gắn liền với những với giai thoại về nàng Tiểu Thanh tài sắc vẹn toàn, sống vào đầu đời nhà Minh. Vì hoàn cảnh éo le, nàng phải làm vợ lẽ một thương gia giàu có ở Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang. Vợ cả ghen, bắt nàng ở trong ngôi nhà xây biệt lập trên núi Cô Sơn. Nàng có làm một tập thơ ghi lại tâm trạng đau khổ của mình. ít lâu sau, Tiểu Thanh buồn mà chết, giữa lúc tuổi vừa mười tám. Nàng chết rồi, vợ cả vẫn ghen, đem đốt tập thơ của nàng, may còn sót một số bài được người đời chép lại đặt tên là Phần dư (đốt còn sót lại) và thuật luôn câu chuyện bạc phận của nàng.

Mở đầu bài thơ tác giả dựng lên một hình ảnh Hồ Tây đầy những u ám, nó không đẹp phảng phất ngây ngất nữa mà nó mang một nỗi niềm oan ức của người con gái đa tài có nhan sắc kia:

“Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư

Độc điếu song tiền nhất chỉ thư. ”

(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,

Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.)

Nhắc đến Tây Hồ người ta thường nghĩ đến những cảnh đẹp thế nhưng ở đây Nguyễn Du lại nói là gò hoang. Có thể nói ở đây ngày xưa đúng là một cảnh đẹp thật đấy nhưng giờ đây thì không. Nó chỉ còn lại một gò hoang vu mà thôi. ở nơi ấy nàng Tiểu Thanh đã mất đi và chính sự mất đi ấy đã làm cho cảnh vật nơi đây âm u tràn trong những uất ức mà cô phải chịu. Nó không còn đẹp nữa giống như người con gái ấy không còn nữa. Tây Hồ thành gò hoang cũng như cô ấy đã ra đi và giờ đây chỉ còn là một nắm xương khô mà thôi. Hai chữ “thổn thức” như gợi lên bao đau đớn buồn thương của người con gái ấy. Tiếng lòng Tiểu Thanh hay chính là tiếng lòng của Nguyễn Du. Ở đây có một sự đồng điệu về nhân vật và tác giả. Họ cùng chung một sự nghiệp văn chương cho nên trước sư ra đi của người tài giỏi Nguyễn Du đồng điệu tâm hồn mình.

 

Đến hai câu thơ sau chúng ta lại thấy được những linh hồn của cô nàng tài sắc ấy vẫn còn vấn vương trên cõi trần, vẫn ở đâu đó khiến cho nhà thơ cảm nhận được:

“Chi phấn hữu thần liên tử hậu,

Văn chương vô mệnh lụy phần dư:”

(Son phấn có thần chôn vẫn hận,

Văn chương không mệnh đốt còn vương.)

Son phấn ở đây chỉ nhằm nói đến Tiểu Thanh, son phấn để chỉ người phụ nữ bởi nó là một vật trang điểm khiến cho nhan sắc của những người phụ nữ thêm phần lộng lẫy và xinh đẹp hơn. Tác giả như cảm nhận thấy được cái thần thái của người con gái ấy vẫn còn đâu đây mặc dù bị chôn đi nhưng mà nỗi hận vẫn còn. Chính nhà thơ dùng tâm hồn đồng điệu của mình để cảm nhận được điều đó. Và chính cái chết ấy đã mang đi sự nghiệp văn chương của cô. Vốn dĩ nó còn được phát triển nữa nhưng thật sự không thể được vì cái người làm ra nó vì xinh đẹp mà bị giết hại. Có thể nói nhan sắc kia đã làm cho văn chương bị liên lụy. Thế nhưng những tác phẩm văn chương của nàng tiểu Thanh ấy dù bị đốt đi nhưng hãy còn vương. Văn chương đâu có mệnh có linh hồn vậy mà ở đây lại có. Tất cả để nói lên rằng linh hồn của tiểu Thanh.

Nhà thơ tiếp tục bày tỏ nỗi lòng mình với nàng Tiểu Thanh tài sắc trong hai câu thơ tiếp. có thể nói rằng những câu thơ như càng ngày càng thấm đẫm sự thương xót người xưa của nhà thơ. Từ đó ta thấy được nhà thơ đang như “thương người như thể thương thân” vậy:

“Cổ kim hận sự thiên nan vấn,

Phong vận kì oan ngã tự cư.

(Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,

Cái án phong lưu khách tự mang.)”

Nỗi hận của nàng Tiểu Thanh là một nỗi hận kim cổ, câu thơ chứa đựng biết bao nhiêu tuyệt vọng. Không những thế Nguyên Du đã nâng nỗi hận của Tiểu Thanh thành nỗi hận của đời này truyền sang đời khác. Cái chết oan ức của Tiểu Thanh không thể hết oan ức được. Phong vận ở câu thơ thứ sáu không có nghĩa là sự phong lưu về vật chất mà là sự phong lưu về tinh thần, Nói cách khác là chỉ cái tâm, cái tài của những kẻ tài hoa. Con người tài hoa là tinh túy của trời đất, vậy mà sao số phận họ lại nhiều vất vả, truân chuyên đến vậy? đúng là:

“Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Càng thương tiếc Tiểu Thanh bao nhiêu thì Nguyễn Du lại nghĩ đến bản thân mình bấy nhiêu:

“Bất tri tam bách dư niên hậu, .

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?”

(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,

Người đời ai khóc Tố Như chăng?)

Nhà thơ lo lắng cho bản thân mình trước sự trôi chảy của cuộc đời. Rồi mai này Nguyễn Du cũng mất đi nhưng không biết rằng có ai khóc Tố Như không. Câu hỏi cất lên mang đầy sự trăn trở về số phận mình. Ba trăm năm con số ấy là rất dài nhưng đến ngày nay thì người ta đã nhớ đến Nguyễn Du rất nhiều rồi.

Qua đây ta thấy được sự thương cảm xót xa đồng điệu của những con người tài hoa bạc mệnh với nhau. Nguyễn Du quả thật là một nhà văn của người phụ nữ, ông không những có một tác phẩm về cuộc đời nàng Kiều mà ông còn thương cảm với nàng Tiểu Thanh bên Trung Quốc. Tóm lại nhà thơ viết lên bài thơ này một mặc để bày tỏ sự thương tiếc với người tài hoa nhưng bạc mệnh lại vừa thể hiện sự trăn trở về số phận của bản thân mình.

22 tháng 12 2019

I. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Du: Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghãi lớn của dân tộc. Sự nghiệp sáng tác của ông gồm những tác phẩm có giá trị cả chữ Hán và chữ Nôm.

- Giới thiệu về “Đọc Tiểu Thanh kí” (Độc Tiểu Thanh kí): Đọc Tiểu Thanh kí là một trong số những sáng tác bằng chữ Hán tiêu biểu của Nguyễn Du, thể hiện cảm xúc, suy tư của ông về số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, qua đó giuwps chún ta có cảm nhận sâu sắc về tấm lòng nhân đọa của ông.

II. Thân bài

1. Hai câu đề

- Hình ảnh thơ đối lập giữ quá khứ và hiện tại: Tây Hồ hoa uyển(vườn hoa bên Tây Hồ) – thành khư (gò hoang)

- Động từ “tẫn”: đến cùng, triệt để, hết

→ Câu thơ gợi ra một nghịch cảnh giữa quá khư và hiện tại: Vườn hoa bên Tây Hồ nay đã thành bãi đất hoang rồi. Từ đó, gợi sự xót xa trước sự đổi thay, sự tàn phá của thời gian đối với cái đẹp.

- Cách sử dụng từ ngữ: độc điếu (một mình viếng) – nhất chỉ thư (một tập sách).

→ Nguyễn Du như muốn nhấn mạnh sự cô đơn nhưng cũng nhấn mạnh cả sự tương xứng trong cuộc gặp gỡ này. Một trạng thái cô đơn gặp một kiếp cô đơn bất hạnh

⇒ Hai câu thơ diễn tả tâm trạng của Nguyễn Du trước cảnh hoaong tàn, đó cũng chính là nỗi niềm xót xa, tiếc nuối cho số phận của nàng Tiểu Thanh.

2. Hai câu thực

- Nghệ thuật hoán dụ:

+ Son phấn: tượng trưng cho vẻ đẹp, sắc đẹp của người phụ nữ

+ Văn chương: tượng trưng cho tài năng.

- Từ ngữ diễn tả cảm xúc: hận, vương

- “Chôn”, “đốt” là những động từ cụ thể hóa sự ghen ghét, sự vùi dập phũ phàng của người vợ cả đối với nàng Tiểu Thanh ⇒ thái độ của xã hội phong kiến không chấp nhận những con người tài sắc.

→ Triết lí về số phận con người trong xã hội phong kiến: tài hoa bạc mệnh, tài mệnh tương đố, hồng nhan đa truân…cái tài, cái đẹp thường bị vùi dập.

→ Hai câu thơ cực tả nỗi đau về số phận bất hạnh của nàng Tiểu Thanh đồng thời cũng là tấm lòng trân trọng, ngợi ca nhan sắc và đề cao tài năng trí tuệ của Tiểu Thanh; đồng thời có sức tố cáo mạnh mẽ.

3. Hai câu luận

- “Cổ kim hận sự”: mối hận xưa và nay, mối hận muôn đời, mối hận truyền kiếp. Đó chính là mối hận của những người tài hoa mà bạc mệnh.

- Thiên nan vấn: khó mà hỏi trời được.

→ Câu thơ mang tính khái quát cao. Nỗi hận kia không phải là nỗi hận của riêng nàng Tiểu Thanh, của Nguyễn Du mà của tất cả những người tài hoa trong xã hội phong kiến. Câu thơ thể hiện sự đau đớn phẫn uất cao độ trước một thực tế vô lí: người có sắc thì bất hạnh, nghệ sĩ có tài thường cô độc.

- Kì oan: nỗi oan lạ lùng

- Ngã: ta (từ chỉ bản thể cá nhân táo bạo so với thời đại Nguyễn Du sống). Nguyễn Du không đứng bên ngoài mà nhìn vào nữa mà giờ đây ông chủ động tìm sự tri âm với nàng, với những người tài hoa bạc mênh.

⇒ Nguyễn Du không chỉ thương xót cho nàng Tiểu Thanh mà còn bàn ra tới nỗi hận của muôn người, muôn đời trong đó có bản thân nhà thơ. Qua đó, thể hiện sự cảm thông sâu sâu sắc đến độ “tri âm tri kỉ”

4. Hai câu kết

- Nghệ thuật: Câu hỏi tu từ. Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh và băn khoăn, khóc cho chính mình.

- “Khấp”: khóc. Tiếng khóc là dấu hiệu mãnh liệt nhất của tình cảm, cảm xúc thương thân mình, thân người trào lên mãnh liệt không kìm nén được. Ông không viết đơn thuần mà khóc cho Tiểu Thanh. Ông băn khoăn không biết hậu thế ai sẽ khóc ông.

→ Thể hiện nỗi cô đơn của nghệ sĩ lớn “Tiếng chim cô lẻ giữa trời thu khuya” (Xuân Diệu). Ông thấy mình lạc lõng ở hiện tại và đã tìm thấy được một người tri kỉ ở quá khư nhưng vẫn mong ngóng một tấm lòng trong tương lai.

⇒ Tấm lòng nhân đạo mênh mông vượt qua mọi không gian và thời gian.

III. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản: Thể hiện cảm xúc, suy tư của Nguyễn Du về số phận bất hạnh của người phụ nữ có tài có sắc trong xã hội phong kiến. Chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc trong sáng tác của Nguyễn Du

22 tháng 12 2019

Đề tài người phụ nữ ít được các nhà thơ trung đại đề cập đến, ấy vậy mà đại thi hào Nguyễn Du lại viết về người phụ nữ với tất cả tấm lòng trân trọng, thương yêu. Bên cạnh kiệt tác thơ Nôm "Truyện Kiều" viết về người phụ nữ trong xã hội phong kiến, thì bài thơ "Độc Tiểu Thanh kí" là một sáng tác xuất sắc bằng chữ Hán viết về đề tài này.

Nguyễn Du sáng tác bài thơ trong một lần đi sứ sang Trung Quốc cho triều Nguyễn. Bài thơ tên chữ Hán là "Độc Tiểu Thanh kí" đã gợi ra nhiều cách hiểu. Có ý kiến cho rằng đó là Nguyễn Du đọc tập truyện viết về cuộc đời nàng Tiểu Thanh, cảm thương cho số phận người phụ nữ tài hoa bạc mệnh mà viết bài thơ này. Lại có ý kiến khác cho là Nguyễn Du đã được đọc tập thơ của nàng Tiểu Thanh để lại và ngưỡng mộ, xót thương cho cuộc đời nàng. Dù hiểu theo cách nào thì ta đều thấy trên hết đó là tấm lòng thấm đẫm tình đời, tình người của nhà thơ.

Tiểu Thanh là một cô gái thông minh, xinh đẹp, có tài thơ phú, sống vào đầu thời Minh ở Trung Quốc, cách Nguyễn Du 300 năm. Nàng bị gia đình ép gả làm vợ lẽ cho một nhà quyền quý. Do vợ cả ghen ghét, đố kị nàng bị đẩy ra sống riêng ở Cô Sơn, cạnh vườn hoa Tây Hồ. Hằng ngày nàng chỉ còn biết làm bạn với thơ, rồi lâm bệnh và chết trong cô đơn khi mới 18 tuổi. Số thơ văn mà nàng để lại bị vợ cả đốt gần hết, chỉ còn sót lại một số bài sau này người ta sưu tầm lại và gọi nó là "phần dư".

Cảm hứng xuyên suốt bài thơ là tấm lòng đồng cảm sâu sắc của Nguyễn Du với số phận nàng Tiểu Thanh. Cũng từ sự đồng cảm sâu sắc đó, ông nhận ra những bất công ngang trái của cuộc đời và thương người, thương mình nhiều hơn. Đến với bài thơ, đầu tiên ta được nhà thơ dẫn dắt đến không gian đầy ấn tượng, nơi khi xưa nàng Tiểu Thanh từng sống:

"Tây Hồ hoa uyển tẫn thành khư
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư"
( Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn)

Chỉ một chữ "tẫn" mà có sức gợi, sức ám ảnh rất lớn với người đọc. Phần dịch thơ dịch chưa thoát hết ý nghĩa của chữ "tẫn" này. Nghĩa của nó là bị hủy diệt, bị tàn phá, chứ đâu đơn giản là "hóa gò hoang". Chỉ một chữ "tẫn" gợi ra sự đối lập ghê gớm giữa quá khứ và hiện tại. Quá khứ Tây Hồ là cảnh đẹp, non nước hữu tình thì nay chỉ còn là một bãi hoang xơ xác, tiêu điều. Câu thơ nghe xót xa làm sao! Người đọc có thể tưởng tượng khi xưa nàng Tiểu Thanh còn sống thì nơi đây là thắng cảnh mê đắm lòng người, nay người đẹp không còn, cảnh đẹp cũng tiêu tan. Đứng trước quang cảnh ấy, nhà thơ Nguyễn Du bỗng trào dâng niềm ngậm ngùi, lại càng xót xa hơn khi đứng bên song cửa sổ với tập sách của nàng. "Độc điếu" chỉ sự cô độc, lẻ bóng của nhà thơ khi đã vượt qua thời gian, không gian trở về quá khứ để thổn thức khóc thương nàng Tiểu Thanh. Vạn vật đều đổi thay theo thời gian, giữa cuộc đời dâu bể tên tuổi một người con gái tài sắc nhưng bất hạnh vào đầu thời Minh có lẽ cũng dần bị lãng quên theo năm tháng. Câu thơ như tiếng thở dài đầy chua xót của Nguyễn Du trước kiếp hồng nhan bạc mệnh.

Đến hai câu thực là những hình ảnh đầy tính biểu trưng:

"Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư"
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)

Nói đến "son phấn" và "văn chương", ta liên tưởng ngay đến nhan sắc và tài năng của nàng Tiểu Thanh. Nhan sắc không có tội tình gì nhưng vẫn bị ghen ghét, tài năng không có tội cũng bị vùi dập không thương tiếc. Hai câu thơ toát lên sự thương xót của nhà thơ cho tài năng và nhan sắc của nàng Tiểu Thanh. Nàng phải chết khi tuổi còn quá trẻ, sáng tác của nàng bị vợ cả tiêu hủy gần hết chỉ còn "phần dư". Dù sống cách nàng 300 năm, nhưng Nguyễn Du bằng tấm lòng thương cảm có thể thấu hiểu những bất công mà nàng phải chịu. Câu thơ cũng thể hiện quan niệm "tài mệnh tương đố" của Nguyễn Du. Trong sáng tác của ông, ta thường bắt gặp những phụ nữ tài sắc vẹn toàn nhưng lại gặp nhiều ngang trái, éo le như nàng Đạm Tiên, nàng Kiều. Bởi vậy Nguyễn Du cũng đúc kết thành những câu thơ mang tính khái quát cao:

"Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung"
( Truyện Kiều - Nguyễn Du)

Hay:

"Đau đớn thay phận đàn bà
Kiếp sinh ra thế biết là tại đâu?"
( Văn chiêu hồn - Nguyễn Du)

Điểm mới mẻ của bài thơ "Đọc Tiểu Thanh kí" là nhà thơ đã mang đến tiếng nói nhân đạo độc đáo. Điều đó thể hiện ở hai câu 5 và 6 của bài thơ:

"Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kì oan ngã tự cư"
(Mối hờn kim cổ trời khôn hỏi
Cái án phong lưu khách tự mang)

Nguyễn Du tự coi mình cùng hội cùng thuyền với những người tài hoa bạc mệnh và thốt lên đầy chua xót. Câu hỏi: Tại sao những con người tài hoa hay gặp nhiều trắc trở, truân chuyên? dường như không lời đáp, phải chăng những người tài hoa luôn tự mang trong mình cái "án" bạc mệnh? Trong kiệt tác "Truyện Kiều", nhà thơ từng thốt lên "Tài tình chi lắm cho trời đất ghen", rồi lên "Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen". Nếu được sống trong một xã hội khác, thì những người tài sắc vẹn toàn như nàng Tiểu Thanh có lẽ đã không phải chịu nhiều bất công, không bị vùi dập như vậy. Câu thơ thể hiện khát khao của nguyễn Du về những người có tài có tình sẽ được trân trọng.

Khép lại bài thơ là tâm trạng đầy ngậm ngùi, chua xót của Nguyễn Du :

"Bất tri tam bách dư niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?"
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như?)

Tiểu Thanh đã xa cách cuộc đời được 300 năm, nhưng vẫn còn có người thấu hiểu và đồng cảm với nàng. Nhà thơ đã tự hỏi lòng mình, liệu sau 300 năm nữa có còn ai hiểu được ông hay không? Một câu hỏi đầy sức ám ảnh như xoáy vào tâm can người đọc khi nghĩ đến số phận của những người tài hoa sau một thời gian dài sẽ ra sao? Khép lại bài thơ là niềm mong mỏi có được tri kỉ giữa cuộc đời này của đại thi hào. Thực tế thì cho đến ngày nay, đã qua ba thế kỉ nhưng chúng ta vẫn luôn nhớ đến tên tuổi Nguyễn Du cùng những kiệt tác của ông. Đó là minh chứng cho thấy dù có qua bao thời gian thì tài năng và giá trị của những người tài hoa vẫn luôn được trân trọng, yêu mến. Chính điều này làm nên giá trị nhân văn cao cả cho bài thơ.

Với tám câu thơ chữ Hán thất ngôn bát cú, ngôn từ trang trọng, tinh tế, Nguyễn Du đã lên án, tố cáo mạnh mẽ sự bất công của xã hội phong kiến với những phụ nữ tài sắc vẹn toàn. Bài thơ mang đến cho người đọc sự đồng cảm xót xa trước số phận hồng nhan bạc mệnh của người phụ nữ. Từ đó, mỗi người chúng ta biết trân trọng, yêu mến, có ý thức giữ gìn trước những giá trị tài năng, sáng tạo của người xưa và nay.