K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

30 tháng 5 2017

Dàn ý:

1. Mở bài: - Tôi là một cây lau đã có tuổi trong làng, đám lau non rất thích nghe tôi kể chuyện về cuộc đời của mình, và hôm nay tôi kể cho chúng nó nghe về lần được chứng kiến một người con gái – Vũ Nương, tự tự bên bờ sống Hoàng Giang này.

2. Thân bài:

- Cô gái chạy đến bờ sông và cất tiếng khóc (tiếng khóc to, nhỏ dần rồi biến mất)

- Sau một hồi lâu nàng bắt đầu nói những lời cầu nguyền sau khi chết (“tôi” đã suy nghĩ thế nào khi nghe những lời cầu của cô gái?)

- Sau khi nói xong, nàng nhảy xuống sông:

   + Dòng sông Hoàng Giang bắt đầu có những thay đổi chưa từng thấy: sắc nước biến đổi, những đợt sóng lớn xô bờ..

   + Một vị sứ giả của sông hiện lên, thể hiện lòng cảm thông đối với cô gái rồi đưa cô xuống sông theo

- Ngày ngày, hồn của Vũ Nương – bây giờ đã là công chúa thủy tề, hay dạo bên sông, cô kể với đám lau chúng tôi về câu chuyện của mình (đám lau cảm thông nhưng bất lực)

- Vài ngày sau, khi mọi người ra sông giặt quần áo, chúng tôi được biết về cuộc sống của đứa bé Đản và Trương Sinh sau khi Vũ Nương mất: Trương Sinh đã hiểu nỗi oan của vợ. Chúng tôi kể lại mọi chuyện cho nàng nghe vào đêm hôm đó khi nàng đi dạo trên sông.

3. Kết bài: - Trương Sinh ra bờ sông, lập đàn cầu được gặp Vũ Nương, hai người nói chuyện với nhau

- Kể từ ngày hôm đó, Vũ Nương không bao giờ hiện lên nữa.

17 tháng 10 2016

Những tiếng vang vọng âm ĩ trong không gian tối mịt ập vào tai tôi, đôi mắt tôi cố gắng tìm một chút ánh sáng le lói ở giữa không gian âm u này, tôi bước đi thật nhẹ nhưng tôi cảm giác được thứ gì đó đang cố nắm lấy chân tôi. Bỗng nhiên một loạt đốm sáng chói ngời bừng sáng làm cho tôi lóa mắt, một hàng lửa tỏa sáng bập bùng ở hai bên , và ập vào mắt tôi là một con đường thẳng tít xa xôi mà tôi cũng không thể nhìn thấy điểm dừng.
Bất chợt có một giọng nói vang lên phía sau tôi làm cho tôi hoảng hốt.

- Đi nhanh lên oan hồn kia.

Một con người lạ lùng bước đến bên cạnh và xô tôi về phía trước. Đi được một lúc, thì có một giọng nói vang vọng khắp nơi.

- Oan hồn kia đến từ đâu , mai khai rõ họ tên , vì sao lại xuống Âm ti?

Tôi vẫn chưa hết bàng hoàng thì có một cái gì đó đánh mạnh vào chân tôi.

- Mau quỳ xuống và khai đi.

Tôi phải quỳ xuống và kể lại câu chuyện của mình cho một người mà tôi không thấy mặt.
 

Tôi chỉ kịp nhấp môi thì khung cảnh bất ngờ thay đổi. Tất cả lại trở về Ngự Hoa Viên của Hoàng Cung, cũng khung cảnh này những cây cỏ thi nhau tỏa sắc giữa khung trời nắng hồng hồng, tiếng con chim hoàng yên của tôi cất tiếng hót khoe ra bộ lông mềm mượt của nó. Lệ của tôi lại rơi nhưng nước mắt lại không chảy ra mà nó bốc hơi lên trời.

- Con à.... tiếng phụ vương tôi vọng lại làm cho tôi mừng rỡ , tôi định chạy đến bên người thì. Mỵ Châu đã xuất hiện , có phải là tôi không hay chỉ là ảo giác , tôi chạy lại thì một nữ hầu đi xuyên qua tôi, chuyện đó làm tôi bất ngờ và nó làm cho tôi phải suy nghẫm.

-Mỵ Châu à, cha muốn tìm cho con một nơi có thể gởi gắm, cha đã già rồi , đất nước này cần có người dẫn dắt, con... con nghĩ sao. Tôi vội trả lời : con sẽ theo ý cha.... Cha tôi mừng rỡ như trút bỏ được một gánh nặng trong lòng.

- Người đâu.... kêu Trọng Thủy vào đây...... Từ xa một người khôi ngô tuấn tú bước vào. Trọng Thủy một con người đã làm cho tôi xao xuyến. Tôi e thẹn đứng nấp đằng sau cha tôi.

- Thần tham kiến Hoàng Thượng cùng Công Chúa. Tôi cũng đứng khép nép ra ngoài để nhìn rõ mặt chàng.

- Hà hà con ta đã đồng ý, ngươi hãy về tâu với cha ngươi chọn ngày lành mà sang đây làm rể nhà ta.. Trọng Thủy cúi lễ tạ ơn bước ra ngoài ,làm cho tôi phải cố dõi theo để có thể nhìn chàng rõ hơn.

- Con cũng hãy chuẩn bị lấy phu quân đi là vừa, tôi chỉ biết im lặng,nhìn theo dáng chàng biến mất.

Tôi thật buồn bã, nhưng sự việc thành hồn giữa hai nước nó đến một cách thật chóng vánh và nguy nga làm cho tôi phải choáng ngợp. Tôi và chàng đã kết hồn và nên hòa bình của hai nước đã được xác lập, tôi hy vọng rặng sự việc này sẽ kết thúc hết tất cả ai oán của hai nước, khi những trận chiến dưới chân Loa Thành thực sự ác liệt và làm tôi khiếp đảm ,nhưng đất nước chúng tôi vẫn thắng vì đã có Loa Thành và Nỏ thần được thần Kim Quy ban tặng, nhưng cái hậu quả của chiến tranh để lại thì chả có thể nói bên nào là đã dành chiến thắng cả. Tôi và chàng lấy nhau được một thời gian, chàng yêu thương tôi hết mức, quan tâm và chăm sóc cho tôi một cách tận tụy nhất điều đó làm cho tôi thật sự hạnh phúc, nhưng cái hạnh phúc ấy quá mỏng manh và dễ vỡ. Vào một đêm nọ, chàng từ ngoài bước vào với một vẻ mặt tâm trạng và buồn bã, tôi vội đến bên hỏi là vì chuyện gì mà chàng buồn thế, chàng mới nói ra là chàng có ước mong được thấy cây Nỏ Thần. Tôi hơi bất ngờ và không đồng ý, nhưng dưới những lời mật ngọt rót vào tai của hắn đã làm cho tôi phải chiều lòng hắn, thế là tôi dẫn hắn vào mật thất của Hoàng Cung nơi được canh gác cẫn mật nhất , nhưng vì tôi là Công Chúa nên mọi chuyện cũng dễ dàng hơn. Tôi đưa hắn vào căn phòng nhỏ và lấy Nỏ Thần từ trong cái rương gỗ ra và để trước mặt hắn, ánh sáng chóa lóa của nỏ thần làm cho hắn choáng ngợp, hắn cầm lấy nỏ thần xem xét đến từng chi tiết nhỏ nhặt nhất và cái đầu của hắn đôi khi gật gật tỏ vẻ hài lòng lắm. Xem được một lúc hắn đưa lại cho tôi và đi ra ,,không có một chút nghi ngờ gì tôi để cây nỏ thần lại chỗ cũ và đi ra. Vài hôm sau hắn nói với tôi rằng Cha ở nhà bệnh nặng phải lập tức quay trở về nước, sau này nếu lỡ có gặp sự cố gì sao hai ta tìm được nhau, lúc đó tôi cũng không nghi ngờ gì liền nói với hắn.

- Sau này nếu chàng muốn tìm thiếp thì hãy đi theo sợi lông ngỗng này, nó sẽ dẫn đến nơi ở của thiếp. Ngày hôm sau hắn từ biệt Cha con tôi và về nước. Tôi chờ đợi hắn rõng rã hai tháng trời, vào một ngày đẹp trời tôi đang dạo chơi ở ngự hoa viên, thì Cha tôi hớt hãi chạy vào la lớn

- Con ơi...... mau rời khỏi đây, tôi vội hỏi lại là vì sao thì như sét đánh ngang tai quân của hắn đang tiếng vào hoàng cung , Loa Thành đã bị hạ.

Tôi vội cùng Cha lên ngựa chạy về hướng Đông, giữ đúng lời hứa tôi vứt long ngỗng trên đường đi , và càng đi xa tiếng la hét ầm ĩ ngày càng gần chúng tôi chạy được một hồi lâu chúng tôi đã đến biển và hết đường đào thoát. Cha tôi dừng lại và la lớn "Thần Kim Quy ơi mau cứu ta". Từ biển Đông Thần Kim Quy xuất hiện và chỉ thẳng vào tôi:

- Kẻ ngồi sau ngài chính là giặc, cha tôi quay lại nhìn tôi và cái áo lông ngỗng đã tả tơi , cha tôi giận dữ tuốt gươm bên mình chém mạnh vào người tôi, nhát chém chỉ mạng làm cho tôi chưa kịp la lớn thì đã té xuống ngựa, tôi nằm đó và nhìn cha tôi theo Thần Kim Quy đi xuống biển , đôi mắt tôi mờ hẳn và tai tôi còn văng vẳng những tiếng thét ai oán của thần dân đất nước Âu Lạc, nó làm cho tôi không thể nghĩ được gì nữa thế là tôi chết và tôi đang ở dưới địa ngục.

Đến cảnh đó thì tất cả đều hiện lại về như trạng thái lúc trước, đôi mắt tôi dần hé mở và tôi thấy uất ức, nước mắt tôi tuông trào. Tôi quá hối hận về việc làm của mình, đó là một bài học cực kì đắt giá mà tôi phải trả lại bằng cả một đất nước, tôi chỉ mong hậu nhân sau này lấy đây là bài học để có thể bảo vệ được đất nước của mình.

Đoạn đến đây màn đêm lại ập đến bủa vây lấy tôi , tôi không còn thấy gì nữa chỉ còn tiếng la hét của những oan hồn đang gáo thán và hình như muốn nuốt chửng tôi. Đó có phải là điều mà tôi phải chấp nhận, chấp nhận trả lại những gì mà tôi đã mất và cướp của người khác. Có phải thế không , tôi dường như không muốn suy nghĩ về chuyện đó nữa, tôi bước đi trong màn đêm lạnh giá và tìm kiếm một cái gì đó ở cuối con đường.
3 tháng 10 2018

Lúc bấy giờ Triệu Đà chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì cha tôi có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thời cơ.

Tôi là Mị Châu, con gái yêu của vua An Dương Vương. Người con gái được vua cha yêu thương hết mực nhưng cũng gieo vạ lớn cho cha và đất nước vì nhẹ dạ và ngây thơ tin người. Câu chuyện của tôi là một bài học đắt giá để người đời soi vào, lấy đó làm lời răn về sự cảnh giác. Cho đến tận bây giờ cái cảm giác đau đớn vì bị phản bội vẫn còn âm ỉ trong tôi. Các bạn chia sẻ cùng tôi nhé.

Sau khi giúp cha tôi xây thành cổ Loa, thần Kim Quy cho cha tôi một cái móng của mình để làm lẫy nỏ mà giữ thành. Theo lời thần dặn, nỏ có được cái lẫy làm bằng móng chân thần sẽ là chiếc nỏ bắn trăm phát trúng cả trăm, và chỉ một phát có thể giết hàng ngàn quân địch. Cha tôi chọn trong đám gia thần được một người làm nỏ rất khéo tên là Cao Lỗ và giao cho Lỗ làm chiếc nỏ thần. Lỗ gắng sức trong nhiều ngày mới xong. Chiếc nỏ rất lớn và rất cứng, khác hẳn với những nỏ thường, phải tay lực sĩ mới giương nổi. Cha quý chiếc nỏ thần vô cùng, lúc nào cũng treo gần chỗ nằm.

Lúc bấy giờ Triệu Đà chúa đất Nam Hải, mấy lần đem quân sang cướp đất Âu Lạc, nhưng vì cha tôi có nỏ thần, quân Nam Hải bị giết hại rất nhiều nên Đà đành cố thủ đợi chờ thời cơ. Triệu Đà thấy dùng binh không được, bèn xin giảng hòa với cha tôi, sai con trai là Trọng Thủy sang cầu thân, nhưng chủ ý là tìm cách phá chiếc nỏ thần. Điều này thì về sau, khi quân Đà kéo sang và nỏ thần không còn hiệu nghiệm, cùng cha bỏ trốn tôi mới vỡ lẽ. Trong những ngày đi lại để giả kết tình hòa hiếu, Trọng Thủy gặp tôi, con gái yêu của An Dương Vương. Lúc bấy giờ tôi là một cô gái mới lớn, một thiếu nữ mày ngài, mắt phượng nhan sắc. Trọng Thủy đem lòng yêu tôi, tôi dần dần cũng xiêu lòng. Và dần trở nên thân thiết, không còn chỗ nào trong Loa thành mà tôi không dẫn người yêu đến xem. Cha tôi không nghi kỵ gì cả. Thấy đôi trẻ thương yêu nhau, vua liền gả tôi cho Trọng Thủy. Chàng sang ở hẳn trong cung điện của cha tôi, cùng chung sống. Một đêm trăng sao vằng vặc, tôi và Trọng Thủy ngồi trên phiến đá trắng giữa vườn, cùng nhau nhìn dãy tường thành cao nhất. Trong câu chuyện tỉ tê, Trọng Thủy hỏi: Nàng ơi, bên Âu Lạc có bí quyết gì mà không ai đánh được? Tôi vô tư đáp:

– Có bí quyết gì đâu chàng, Âu Lạc đã có thành cao, hào sâu, lại có nỏ thần bắn một phát chết hàng nghìn quân địch, như thế còn có kẻ nào đánh nổi được?

Chàng ngỏ ý muốn xem chiếc nỏ. Tôi không ngần ngại, ngây thơ chạy ngay vào chỗ nằm của cha, lấy nỏ thần đem ra cho chồng xem, lại chỉ cho chàng biết cái lẫy vốn là chiếc móng chân thần Kim Quy và giảng cho Trọng Thủy cách bẩn. Trọng Thủy chăm chú nghe, chăm chú nhìn cái lẫy, nhìn khuôn khổ cái nỏ hồi lâu, rồi đưa cho tôi cất đi.

Sau đó, Trọng Thủy xin phép cha tôi về Nam Hải, Trọng Thủy thuật lại cho Triệu Đà biết về chiếc nỏ thần. Đà sai một gia nhân chuyên làm nỏ, chế một chiếc lẫy nỏ giống hệt của An Dương Vương. Lay giả làm xong, Trọng Thủy giấu vào trong áo, lại trở sang Âu Lạc. Cha vốn chiều tôi, thấy con mỗi khi gặp chồng thì vui vẻ sung sướng, liền sai gia nhân bày tiệc rượu để ba cha con cùng vui. Trọng Thủy uống cầm chừng, còn cha và tôi say túy lúy. Thừa lúc bố vợ say, Trọng Thủy lẻn ngay vào phòng tháo lấy cái lẫy bằng móng chân thần Kim Quy và thay cái lẫy giả bằng móng rùa thường vào. Hôm sau, thấy chồng có vẻ bồn chồn, hết đứng lại ngồi không yên, tôi hỏi:

– Chàng như có gì lo lắng phải không? Trọng Thủy đáp: Ta sắp phải đi, Phụ vương dặn phải về ngay để còn lên miền Bắc, miền Bắc xa lắm nàng ạ. Tôi buồn rầu lặng thinh, Trọng Thủy nói tiếp: Bây giờ đôi ta sắp phải xa nhau, không biết đến bao giờ gặp lại! Nếu chẳng may xảy ra binh đao, biết đâu mà tìm?

Tôi tin lời chàng ngay, lòng đau đớn nói:

– Thiếp có cái áo lông ngỗng, hễ thiếp chạy về hướng nào thì thiếp sẽ rắc lông ngỗng dọc đường, chàng cứ chạy theo dấu lông ngỗng mà tìm.

Nói xong tôi nức nở khóc.

Về đất Nam Hải, Trọng Thủy đưa cái móng rùa vàng cho cha. Chỉ ít ngày sau, Triệu Đà đã ra lệnh cất quân sang đánh Âu Lạc. Nghe tin báo, cha cậy có nỏ thần, không phòng bị gì cả. Đến khi quân giặc đã đến sát chân thành, cha sai đem nỏ thần ra bắn thì không thấy linh nghiệm nữa. Quân Triệu Đà phá cửa thành, ùa vào. Cha vội lên ngựa, để tôi ngồi sau lưng, phi thoát ra cửa sau. Ngồi sau lưng cha, tôi bứt lông ngỗng ở áo rắc khắp dọc đường.

Đường núi gập ghềnh hiểm trở, ngựa chạy luôn mấy ngày đêm đến Dạ Sơn gần bờ biển. Hai cha con định xuống ngựa ngồi nghỉ thì quân giặc đã gần đến. Thấy đường núi quanh co dốc ngược, bóng chiều đã xuống, không còn lối nào chạy, cha liền hướng ra biến, khấn thần Kim Quy phù hộ cho mình. Cha vừa khấn xong thì một cơn gió lốc cát bụi bốc lên mù mịt, làm rung chuyển cả núi rừng. Thần Kim Quy xuất hiện, bảo cha rằng:

– Giặc ở sau lưng nhà vua đấy!

Cha tình ngộ, tôi cũng chợt đau đớn hiểu ra sự tình, nguyện xin nhận cái chết để chuộc lỗi lầm khủng khiếp mà mình đã gây ra. Tuy vậy lòng tôi không khỏi ân hận. Tôi tự trách mình đã gây ra cảnh mất nước, trách Trọng Thủy nỡ lợi dụng tình yêu và tấm lòng trong trắng của tôi. Sống dưới Thủy cung tôi không phút nào thanh thản và thề sẽ không để ai lợi dụng mình nữa. Tôi cốgắng làm những việc tốt đểmong bù lại tội lỗi đã gây ra. Nhưng trong tôi, hình bóng Trọng Thủy vẫn còn đâu đó và chợt nhói đau mỗi khi nhớ về chàng với nỗi xót xa và oán hận.

Thế rồi thật bất ngờ, trong ngày hội lớn ở Thủy cung, tôi gặp chàng. Không nghĩ là chàng có mặt ở chốn này, tôi lúng túng vài giây khi đối mặt nhưng sau đó bỏ đi. Tôi không muốn nhìn thấy con người phản bội đã gây cho cả đất nước tôi cảnh đau thương, gây cho cha tôi nỗi đau của một ông vua mất nước, gây cho tôi vết thương lòng và cướp mất của tôi niềm tin vào tình yêu và lòng tốt của con người. Tôi hận chàng suốt bao năm qua, và giờ đây nỗi hận ấy bùng lên mạnh mẽ. Chàng đuổi theo tôi, vừa chạy vừa gọi:

– Mị Châu nàng ơi! Ta đã đi tìm nàng theo dấu lông ngỗng từ ngày ấy. Ta biết nàng hận ta nhưng hãy cho ta cơ hội giãi bầy!

Trời ơi vẫn giọng nói trầm ấm thân thương ấy. Nhưng không thể tin lời nữa. Tôi xua đuổi:

– Tôi không còn lòng tin vào người nữa. Bây giờ tôi cũng không còn gì cho người cả. Hãy đi đi, đừng bao giờ xuất hiện và làm vết thương trong lòng ta thêm đớn đau!

Trọng Thủy vẫn một mực tha thiết.Chàng đuổi kịp tôi và quì xuống van xin:

– Ta biết nàng hận ta nhiều lắm, ta cũng biết không thể nào chuộc được lỗi lầm đã gây ra. Nhưng xin nàng hãy cho ta tỏ bày lòng mình. Rồi chàng kể:

– Quân của Triệu Đà kéo vào chiếm đóng Loa thành, còn ta một mình một ngựa theo dấu lông ngỗng đi tìm vợ. Đến gần bờ biển, thấy xác nàng nằm trên đám cỏ, tuy chết mà nhan sắc không mờ phai. Ta đớn đau, khóc ngất đi, trong lòng như cắt, rồi thu nhặt thi hài nàng đem về chôn trong thành. Không còn nàng, ta cũng chả thiết sống nữa. Bổn phận với cha ta đã xong, rồi ta đâm đầu xuống giếng trong thành mà xưa kia nàng thường tắm để chết cùng nàng.

Đến đây tôi chợt hiểu vì sao chàng có mặt ở Thủy cung. Chàng từ bỏ danh vọng, từ bỏ chiến thắng, từ bỏ cả vua cha, ngai vàng để tìm tôi. Nhưng nỗi uất hận trong tôi không dễ gì nguội vơi. Xót xa, tôi hỏi chàng:

– Chàng yêu thiếp như thế sao nỡ lợi dụng lòng tin và tình yêu trong sáng của thiếp?

– Đấy là sai lầm lớn nhất của đời ta. Tuổi trẻ và sự nông nổi khiến cho ta chỉ biết nghe theo lời cha một cách mù quáng. Giá như được trở lại những ngày tháng ấy, thay vì trộm nỏ thần để báo hiếu ta sẽ giúp hai người cha trút bỏ hận thù và mộng xâm lược. Ta sẽ không phạm tội với nàng, không mất nàng, không phải sống trong đau đớn, dày vò. Đời này ta nguyện chỉ yêu mình nàng. Trong lòng ta không có hình ảnh nguời đàn bà nào khác nàng, nàng có biết không?!

Chàng nói trong nước mắt. Tôi cũng khóc và chợt hiểu rằng cả hai chúng tôi đều là nạn nhân, là người bị lợi dụng mà thôi. Tôi gục vào vai chàng, những uất nghẹn trong lòng tôi bao năm qua theo nước mắt đẫm ướt áo chàng. Dù là kẻ tội lỗi với cha, với đất nước nhưng tôi vẫn tha thiết mong nhận được sự cảm thông. Tôi biết trái tim mình không “nhầm chỗ để trên đầu” như người ta nói. Tôi cũng muốn nói với các bạn trẻ rằng: Đừng bao giờ mắc sai lầm như tôi và Trọng Thủy cả. Hãy sống bằng tình yêu thay cho toan tính và hận thù!