K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

11 tháng 11 2018
huyết chép lại nhiều việc được khám phá tại Hy Lạp từ thời cổ đại trước Thiên Chúa, trong đó có cả sự ra đời của ý tưởng về cặp mắt kính! Lúc đó, nhà toán học và vật lý gia ARCHIMEDES đã chế tạo ra một tấm gương đốt cháy đoàn tàu của La mã trên biển khơi. Từ sự khám phá tuyệt vời này, một trí thức gia tên GAJUS PLINIUS đã làm thử một hộp nhỏ bằng kính, trong đó có nước. Qua làn nước có thể nhìn thấy rõ hơn các chữ viết thật, nhưng vẫn chưa hoàn hảo. Mãi cho đến thời kỳ sau Thiên Chúa, nhà toán học CLAUDIUS PLOTOMAUS nghiên cứu thêm về quang học cho vấn đề này. Một người Ả Rập IBN-AL-HAITAM đã viết một cuốn sách nói rõ thêm về sự phản chiếu và phương cách có thể tăng thêm thị lực. Cuối cùng là SNELLIUS đã cho in ra một bộ sách 5 tập viết về Quy luật Khúc Xạ Ánh Sáng. Nhưng chỉ đến khi cuốn sách của IBN-AL-HAITAM được VITELLO dịch ra tiếng La Tinh năm 1240, một viên tròn nhỏ bằng thạch anh (quartz) ra đời. Nó có một mặt dẹp để người ta để lên giấy và chữ hiện to hơn. Dần dần trong thế kỷ 13, người ta nghiên cứu thêm và chế tạo ra nhiều cặp kính tiện lợi hơn để gắn thẳng vào mắt. Hiện thời, tại Tu Viện San Nicolo (gần Vênedig) còn giữ những cặp kính đầu tiên của nhân loại. Cặp mắt kính có gọng đầu tiên thì được chế tạo hồi cuối thế kỷ 16. Mà lúc đó "gọng" kính còn mới là sợi dây buộc vào đầu mà thôi. Các nhà truyền giáo từ Tây Ban Nha là những người đã mang cặp kính này sang Á châu. Như thế, lịch sử của cặp kính đeo mắt đã kéo dài đến 500 năm mới hoàn hảo!
11 tháng 11 2018

Thanks bạn nha!

23 tháng 1 2022

Tham khảo:

Bạn có biết được từ lâu chiếc kính đã được coi chính là vật dụng cần thiết để bảo vệ mắt, làm đẹp, … có nhiều loại kính đeo mắt phù hợp với đối tượng sử dụng. Trên thị trường hiện nay gồm có các loại như kính thuốc, kinh áp tròng, kính thời trang phù hợp với những người sành điệu hay đi du lịch,…

Nói về nguồn gốc của kính đeo mắt ra đời đầu tiên ở Ý vào năm 1260. Thế nhưng lúc đầu chỉ có giới thầy tu và quý tộc sử dụng nó mà thôi, còn tầng lớp thường dân thì không có điều kiện sử dụng. Và với người Pháp và người Anh cho rằng kính đeo mắt chỉ nên đeo ở nhà nhưng người Tây Ba Nha luôn luôn tin rằng kính đeo mắt khiến họ trở nên quan trọng hơn, chính nhờ vậy kính đeo mắt được nhiều người biết đến và dần dần được phổ biến rộng rãi hơn rất nhiều.

Thế rồi chính kể từ khi ra đời tới giờ kính đeo mắt luôn luôn được cải tiến để phù hợp với người dùng. Với thiết kế của mắt kính chỉ nối với nhau bởi cầu mũi nên rất bất tiện với người dùng. Mặc dù trước đó người Tây Ba Nha đã thử sử dụng dây ruy – băng để có thể buộc mắt kính với hai tai để nó khỏi bị rơi nhưng cái dáng đấy dường như cũng chẳng bao giờ được chấp nhận cả vì trông nó tạm bợ và mất thẩm mỹ. Cho mãi đến năm 1730 thì có một chuyên gia quang học người Lôn – đôn mới chế ra hai càng để kính có thể gá lên mặt một cách chắc chắn hơn và cũng thẩm mỹ hơn. Có thể nói ngoài loại kính có gọng đeo người ta còn phát minh ra một loại kính không sử dụng gọng gọi là kính áp tròng cũng được sử dụng phổ biến.

Kính áp tròng được danh họa Leonardo da Vanci đã phác thảo ra. Vào thời điểm năm 1887 thợ thổi thủy tinh người Đức là Muller đã làm ra chiến kính áp tròng đầu tiên vừa khít với mắt và vô cùng tiện lợi và đôi khi còn giúp đôi mắt to hơn, đẹp hơn. Ngày nay người ta sử dụng kính áp tròng cho đôi mắt sáng đẹp, to hơn làm cho khuôn mặt rạng rỡ và đẹp hơn

Xét về mặt cấu tạo của một chiếc kính thông thường thì ta có thể chia làm 3 bộ phận chính đó là: tròng kính, khung kính, gọng kính. Xét về phần gọng kính làm khung cho kính và là bộ phận nâng đỡ tròng kính. Và phần gọng kính lại cũng gồm hai phần được nối với nhau bởi một khớp sắt nhỏ nhưng lại chắc chắn. Còn ở phần sau giúp gá kính vào vành tai để giữ lại cân bằng. Thêm với phần trước đỡ lấy tròng kính và đồng thời cũng lại giúp tròng kính nằm vững trước mắt giúp người nhìn rõ hơn. Phần gọng kính có thể được làm bằng kim loại nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ hơn nữa khi đeo vào tai sẽ có cảm giác nhẹ và không đau. Có thể nói bộ phận quan trọng nhất của kính luôn phải đạt tiêu chuẩn riêng, xét về phần tròng kính có thể làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng đều cần tuân theo quy tắc chống tia UV và tia cực tím. Bởi hai loại tia được phát ra bởi mặt trời, rất có hại cho mắt của con người nên cần phải tránh. Hiện nay thì có một chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ như ốc, vít… tuy chúng có kích thước rất nhỏ nhưng lại khá quan trọng và có nhiệm vụ là dùng để giữ các bộ phận của chiếc kính.

Bên cạnh loại kính gọng còn có loại kính áp tròng. Đó là một loại kính đặc biệt, nhỏ, mỏng, được đặt sát vào tròng mắt. Riêng với loại kính này phải có sự hướng dẫn sử dụng tỉ mỉ của bác sĩ chuyên ngành.

Hiện nay thì việc sử dụng kính tác động rất lớn đến sức khoẻ của mắt bởi vậy cần sử dụng kính đúng cách hay bảo quản đúng cách. Để có thể lựa chọn 1 chiếc kính phù hợp với đôi mắt, cần phải theo tư vấn của bác sĩ. Chúng ta không nên đeo loại kính có độ tự tiện vì mắt của mỗi người là khác nhau chính vì thế cần phải đi khám cẩn thận rồi bác sĩ sẽ tư vấn chọn cho mình một chiếc kính phù hợp nhất. Cứ 6 tháng chúng ta nên đi kiểm tra mắt một lần xem có bị tăng phẩy hay không để có những biện pháp cụ thể để chọn mắt kính cho phù hợp.

Bạn cũng nên biết rằng mỗi loại kính cũng cần có cách bảo quản riêng để tăng tuổi thọ cho kính. Khi chúng ta lấy và đeo kính cần dùng cả hai tay, sau khi dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp đậy kín lại cẩn thận. Khi chúng ta dùng lâu thì phải có những cách lau chùi cẩn thận bằng nước rửa kính cũng như khăn mềm. Đối với loại kính áp tròng – kính trực tiếp tiếp xúc với mắt thì cần phải nhỏ mắt từ sáu lần đến tám lần trong vòng từ mười đến mười hai tiếng để giúp cho đôi mắt của bạn được bảo vệ. Khi không sử dụng cần phải ngâm vào dung dịch nếu không bụi bẩn sẽ bắt vào kính và gây ra tình trạng viêm nhiễm.

 

Kính là một vật dụng vô cùng cần thiết để bảo vệ đôi mắt của con người. Chính vì thế mà chúng ta cũng cần phải hiểu biết về nguồn gốc, công dụng, đặc tính của mỗi loại kính để có cách sử dụng hợp lý nhất, an toàn nhất.

23 tháng 1 2022

Refer:

  Những vật dụng hàng ngày thì chiếc kính đeo mắt rất quen thuộc và được sử dụng trong học tập, công việc. Chiếc mắt kính giúp bảo vệ đôi mắt chính là “cửa sổ tâm hồn” của mỗi người không chỉ vậy, mắt kính còn dùng để trang trí.

            Mắt kính có rất nhiều loại và tác dụng khác nhau, phù hợp với nhu cầu Với những người bị bệnh về mắt như cận thị, viễn thị, loạn thị kính giúp họ nhìn rõ hơn. Người cận thị có thể nhìn được những vật ở xa, người viễn thị thì nhờ kính mà nhìn được những vật ở gần. Đối với người làm những công việc ngoài trời thì kính lại giúp mắt họ tránh khỏi gió, bụi,… Những người không bị bệnh khi ra đường nên mang theo một cặp kính để tránh nắng chói và gió bụi. Hay kính còn dùng để trang trí làm đẹp rất thời trang và sang trọng. Mặc dù có nhiều loại nhưng về cơ bản, cấu tạo cặp kính như nhau. Một chiếc kính đeo mắt có hai bộ phận: Tròng kính và gọng kính. Gọng kính làm khung cho kính và là bộ phận nâng đỡ tròng kính. Phần trước đỡ lấy tròng kính và giúp tròng kính nằm vững trên mũi Gọng kính thường được làm bằng kim loại nhưng nhiều nhất vẫn là gọng nhựa. Bộ phận chủ yếu của kính đó là tròng kính, hình dáng tròng kính thường có hình tròn, vuông, chữ nhật… Tròng kính làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng dễ vỡ. Chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ ví dụ như ốc, vít… Kính sử dụng cũng đơn giản khi lấy và đeo kính dùng cả hai tay, dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi trong quá trình học tập, làm việc, đeo kính phù hợp sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi cổ…nếu bị bệnh về mắt cần đeo kính để giảm thiểu bệnh mặt, hoặc ngăn tình trạng bệnh nặng thêm. Chiếc mắt kính đeo mắt vật dụng quen thuộc, phát minh nổi bật, mắt kính rất cần thiết cho đời sống con người, hãy sử dụng và phát huy tối đa công dụng giúp bảo vệ đôi mắt cửa sổ của tâm hồn bạn.

         Con người có năm giác quan thì thị giác là giác quan hoàn hảo nhất và quan trọng nhất. Vì vậy, việc giữ gìn để có đôi mắt trong sáng và tinh tường đồng nghĩa với bảo vệ cuộc sống của chính mình.

CHÚC HỌC TỐT NGỮ VĂN NHÉ!

24 tháng 12 2016

ha

5 tháng 1 2021

chịu nha bạn thuyết minh dài lắm 

26 tháng 11 2019

I. Mở bài: Giới thiệu mắt kính

Ông bà ta thường có câu “đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn”, chính vì thế mà đôi mắt rất quan trọng của mỗi con người. Để tránh tác hại của môi trường xung quanh ta phải cần một vật dụng bảo vệ, đó là mắt kính. Mắt kính không chỉ để bảo vệ mắt mà còn có nhiều công dụng khác, ta cùng đi tìm hiểu.

II. Thân bài

1. Nguồn gốc

- Mắt kính ra đời đầu tiên ở Ý và vào năm 1620.

- Qua nhiều năm thì mắt kính được cải tiến và sử dụng rộng rãi

- Năm 1877 chiếc kính áp tròng đầu tiên được ra đời

2. Cấu tạo

2 bộ phận:

- Mắt kính: Tùy vào công dụng mà sử dụng các mắt kính khác nhau. Mắt kính được làm từ thủy tinh hoặc nhựa

+ Mắt kính thủy tinh: Mắt kính này trong suốt nhưng có nhược điểm là dễ vỡ

+ Mắt kính nhựa: Mắt kính này có ưu điểm là nhẹ nhưng nhược điểm là dễ xước

- Gọng kính: Gọng kính cũng có 2 loại là gọng nhựa và gọng kim loại

+ Gọng kim loại: Gọng này dược làm bằng sắt, đeo cảm thấy cứng cáp và khó chịu

+ Gọng nhựa: Gọng nhựa rất dẻo bền và chịu được áp lực khi bị tác động.

3. Công dụng của mắt kính

- Kính thuốc: Kính dùng cho người có bệnh về mắt như kính cận, kính loạn, kính lão,….

- Kính lão bảo vệ mắt khi đọc sách hay làm việc lâu bên máy tính;

- Kính dâm là kính bảo vệ mắt khi đi ngoài trời

- Kính thời trang là vật trang điểm, tạo dáng cho mắt và khuôn mặt

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ về mắt kính

Kính luôn là một vật dụng cần thiết cho con người, là một người bạn thân thiết không thể thiếu của mỗi con người trong cuộc sống hiện đại đầy khói bụi hiện nay.

26 tháng 11 2019

1. Mở bài: Giới thiệu chung về kính đeo mắt (Là vật dụng cần thiết để bảo vệ mắt, làm đẹp, ... có nhiều loại kính đeo mắt như: Kính thuốc, kính áp tròng, kính thời trang).

2. Thân bài: (Có thể giới thiệu theo thứ tự: Nguồn gốc, cấu tạo, công dụng, cách bảo quản, ...)

a. Nguồn gốc:

- Kính đeo mắt ra đời đầu tiên ở Ý vào năm 1260 nhưng lúc đầu chỉ có giới thầy tu và quý tộc sử dụng nó. Người Pháp và người Anh cho rằng kính đeo mắt chỉ nên đeo ở nhà nhưng người Tây Ba Nha tin rằng kính đeo mắt khiến họ trở nên quan trọng hơn, nhờ vậy kính đeo mắt được nhiều người biết đến và dần dần được phổ biến như ngày nay.

- Kể từ khi ra đời tới giờ kính đeo mắt luôn luôn được cải tiến để phù hợp với người dùng. Thiết kế của mắt kính chỉ nối với nhau bởi cầu mũi nên rất bất tiện. Trước đó người Tây Ba Nha đã thử sử dụng dây ruy - băng để buộc mắt kính với hai tai để nó khỏi bị rơi nhưng cái dáng đấy chẳng bao giờ được chấp nhận cả vì trông nó tạm bợ quá. Mãi đến năm 1730 một chuyên gia quang học người Lôn - đôn mới chế ra hai càng để kính có thể gá lên mặt một cách chắc chắn. Ngoài loại kính có gọng đeo người ta còn phát minh ra một loại kính không sử dụng gọng gọi là kính áp tròng.

- Danh họa Leonardo da Vanci đã phác thảo ra chiếc kính áp tròng. Năm 1887 thợ thổi thủy tinh người Đức là Muller đã làm ra chiến kính áp tròng đầu tiên vừa khít với mắt.

b. Cấu tạo (có thể chia làm 3 bộ phận: Tròng kính, khung kính, gọng kính; có thể trình bày theo thứ tự: Hình dáng, màu sắc, chất liệu (ưu điểm, hạn chế của từng loại chất liệu), công dụng của từng bộ phận):

- Kính đeo mắt gồm 2 bộ phận:

+ Mắt kính

+ Gọng kính

- Mỗi loại gọng lại có một ưu điểm riêng:

+ Gọng kim loại được làm bằng một loại sắt, người đeo cảm thấy cứng cáp và chắc.

+ Gọng nhựa dẻo và bền có thể chịu được áp lức lớn mà không bị cong và biến dạng như gọng kim loại.

+ Có một loại gọng được làm bằng ti tan rất nhẹ có thể bẻ cong mà không gãy.

- Dù là nhựa hay kim loại thì tất cả các loại gọng đều có rất nhiều màu sắc và kiểu dáng để tạo vẻ đẹp riêng cho kính.

- Mắt kính chia làm hai loại: Thủy tinh và nhựa

+ Mắt thủy tinh trong suốt nhưng dễ vỡ

+ Mắt nhựa tuy nhẹ nhưng dễ bị xước

- Chọn lựa kính thì phải phụ thuộc vào yêu cầu sử dụng và phụ thuộc vào khả năng tài chính của mình.

c. Công dụng (theo từng loại kính):

- Kính thuốc là kính dùng cho người có bệnh về mắt;

- Kính lão bảo vệ mắt khi đọc sách hay làm việc lâu bên máy tính;

- Kính dâm là kính bảo vệ mắt khi đi ngoài trời;

- Kính thời trang là vật trang điểm, tạo dáng cho mắt và khuôn mặt;

3. Kết bài: Nêu vài trò của kính trong cuộc sống hiện nay và trong tương lai.

30 tháng 8 2018

Mở bài: Giới thiệu về kính đeo mắt- đối tượng được thuyết minh

  Thân bài

  - Nêu nguồn gốc, xuất xứ

   + Kính đeo mắt ra đời năm 1620 ở nước Ý

   + Qua nhiều năm được cải tiến và phổ biến sử dụng

   + Năm 1877 chiếc kính áp tròng đầu tiên trong lịch sử ra đời

  - Nêu cấu tạo:

   + Mắt kính: tùy vào thực trạng của mắt để sử dụng các loại mắt kính khác nhau. Mắt kính được làm từ thủy tinh, nhựa.

   + Mắt kính thủy tinh có đặc điểm trong suốt có nhược điểm là dễ vỡ

   + Măt kính nhựa: ưu điểm nhẹ nhưng dễ xước

   + Gọng kính gồm 2 loại: gọng nhựa và gọng kim loại.Gọng kim loại được làm bằng sắt, đeo cứng cáp và khó chịu. Gọng nhựa dẻo, bền, chịu được áp lực khi bị tác động

  - Công dụng của mắt kính.

   + Kính thuốc giúp người có bệnh về mắt như cận, loạn, lão…

   + Kính lão bảo vệ mắt khi đọc sách, hay làm việc lâu trên máy tính.

   + Kính râm bảo vệ mắt khi có ánh sáng mạnh hắt vào mắt.

   + Kính thời trang giúp làm đẹp cho khuôn mặt.

  Kết bài: Nêu cảm nghĩ và sự cần thiết của kính mắt đối với đời sống của con người trong cuộc sống.

9 tháng 12 2018

#Tham khảo

Lịch sử, nguồn gốc chiếc xe đạp:
- Năm 1790, Châu Âu là nơi chiếc xe dạp đầu tiên xuất hiện. ban đầu thì xe làm bằng gỗ nhưng bánh trước không đổi hướng được.
- Năm 1813, một Nam Tước người Đức làm cho xe có thể đổi hướng được.
- Năm 1869, có một sự thay đổi từ khung xe bằng gỗ được thay bằng thép.
- Cuối thế kỉ XIX, bánh xe đạp còn làm bằng gỗ.
- Năm 1880, người sáng chế ra chiếc lốp xe đạp bằng cao su là Đân-lớp, một học sinh nước Anh.
- Năm 1890, một người Anh và một người Pháp nghĩ ra cách có thể làm cho bánh xe tháo ra và lắp vào được như ban đầu.
- Năm 1920,có một đột biến vượt bật, người ta dùng hợp kim để làm khung xe.
- Năm 1973, chiếc xe đạp địa hình được chế tạo ở Mĩ.

23 tháng 11 2021

Tham khảo!

Nếu nói rằng đôi mắt là cửa sổ tâm hồn của mỗi chúng ta thì ắt rằng những cặp kính chính là những người giúp việc tận tâm, những người bảo vệ vững chắc, những vật trang trí duyên dáng cho khung cửa mộng mơ ấy.

Quả không quá khi nói như vậy về cặp kính đeo mắt bởi kính có rất nhiều loại và rất nhiều tác dụng, phù hợp với hầu hết nhu cầu của mọi người. Với những người bị bệnh về mắt như cận thị, viễn thị, loạn thị kính giúp họ khắc phục được điểm hạn chế của bản thân. Người cận thị có thể nhìn được những vật ở xa, người viễn thị thì nhờ kính mà nhìn được những vật ở gần...

Đối với người làm những công việc đặc thù như bơi, trượt tuyết, đi xe máy tốc độ cao,... kính lại giúp mắt họ tránh khỏi nước, tuyết, gió, bụi,... Những người không bị bệnh về mắt, không có những hoạt động trên, khi ra đường cũng nên mang theo một cặp kính: để tránh nắng chói và gió bụi. Thậm chí, có những người sử dụng kính như một vật trang trí đơn thuần. Giá trị thẩm mỹ của kính có được bởi sự đa dạng của kiểu dáng và màu sắc.

Dù chủng loại phong phú như vậy nhưng về cơ bản, cấu tạo của các cặp kính rất giống nhau. Một chiếc kính đeo mắt gồm có hai bộ phận: Tròng kính và gọng kính. Gọng kính làm khung cho kính và là bộ phận nâng đỡ tròng kính. Gọng kính cũng gồm hai phần được nối với nhau bởi một khớp sắt nhỏ. Phần sau giúp gá kính vào vành tai. Phần trước đỡ lấy tròng kính và giúp tròng kính nằm vững trước mắt.

Gọng kính có thể được làm bằng kim loại nhưng phổ biến nhất vẫn là gọng nhựa bền, nhẹ. Bộ phận quan trọng nhất của kính – tròng kính – thì không thể thay đổi cấu tạo gốc và có một tiêu chuẩn quốc tế riêng. Hình dáng tròng kính rất phong phú, nó phụ thuộc vào hình dáng gọng kính: tròn, vuông, chữ nhật...

Tròng kính có thể làm bằng nhựa chống trầy hay thủy tinh nhưng đều cần tuân theo quy tắc chống tia uv và tia cực tím (hai loại tia được phát ra bởi mặt trời, rất có hại cho mắt). Ngoài ra, một chiếc kính đeo mắt còn có một số bộ phận phụ như ốc, vít... Chúng có kích thước rất nhỏ nhưng lại khá quan trọng, dùng để giữ các bộ phận của chiếc kính.

Bên cạnh loại kính gọng còn có loại kính áp tròng. Đó là một loại kính đặc biệt, nhỏ, mỏng, được đặt sát vào tròng mắt. Riêng với loại kính này phải có sự hướng dẫn sử dụng tỉ mỉ của bác sĩ chuyên ngành. Việc sử dụng kính tác động rất lớn đến sức khỏe của mắt bởi vậy cần sử dụng kính đúng cách. Để lựa chọn 1 chiếc kính phù hợp với đôi mắt, cần phải theo tư vấn của bác sĩ.

Không nên đeo loại kính có độ làm sần vì loại kính này được lắp hàng loạt theo những số đo nhất định nên chưa chắc đã phù hợp với từng người. Mỗi loại kính cũng cần có cách bảo quản riêng để tăng tuổi thọ cho kính. Khi lấy và đeo kính cần dùng cả hai tay, sau khi dùng xong cần lau chùi cẩn thận và bỏ vào hộp đậy kín. Kính dùng lâu cần lau chùi bằng dung dịch chuyên dụng.

Đối với loại kính tiếp xúc trực tiếp với mắt như kính áp tròng, cần phải nhỏ mắt từ sáu lần đến tám lần trong vòng từ mười đến mười hai tiếng để bảo vệ mắt. Kính áp tròng đưa thẳng vào mắt nên phải luôn luôn ngâm trong dung dịch, nếu không sẽ rất dễ bám bụi gây đau mắt, nhiễm trùng các vết xước... Trong quá trình học tập, làm việc, đeo kính phù hợp sẽ giúp chúng ta tránh khỏi nhức mỏi mắt, đau đầu, mỏi gáy, mỏi cổ...

Đeo một chiếc kính trên mắt hẳn ai cũng tò mò muốn biết sự ra đời của kính? Đó là cả một câu chuyện dài. Vào năm 1266 ông Rodger Becon người Italia đã bắt đầu biết dùng chiếc kính lúp để có thể nhìn rõ hơn các chữ cái trên trang sách. Năm 1352, trên một bức chân dung người ta nhìn thấy một vị hồng y giáo chủ đeo một đôi kính có hai mắt kính được buộc vào một cái gọng.

 

Như vậy chúng ta chỉ có thể biết được rằng đôi kính được làm ra trong khoảng thời gian giữa năm 1266 và 1352. Sự ra đời của những cuốn sách in trở thành động lực của việc nghiên cứu, sản xuất kính. Vào thế kỷ XV những căp kính chủ yếu được sản xuất tại miền bắc nước Ý và miền nam nước Đức – là những nơi tập trung nhiều người thợ giỏi. Năm 1629 vua Charles I của nước Anh đã ký sắc lệnh thành lập hiệp hội của các thợ làm kính mắt. Đến năm 1784, ông Bedzamin Franklin người Đức đã sáng tạo ra những đôi kính có hai tiêu điểm.

Chiếc mắt kính đeo mắt là một vật dụng quen thuộc với đời sống hằng ngày. Nếu biết cách sử dụng và bảo quản tốt, kính sẽ phát huy tối đa công dụng của mình. Hãy cùng tìm hiểu về kính để có thể biến "lăng kính" của "cửa sổ tâm hồn" trở nên phong phú và hoàn thiện hơn.

13 tháng 5 2019

Câu hỏi của thùy dương - Lịch sử lớp 9 | Học trực tuyến

Bạn tham khảo :

Chùa đựng xây dựng trên núi Ân thuộc tỉnh Quảng Ngãi, hướng vào sông Trà Khúc. Không biết chùa có từ bao giờ? Bao nhiêu tuổi? Nhìn dáng cổ xưa, tôi nghĩ rằng chùa đã có từ lâu lắm. Vườn chùa rộng, có tường thành bao quanh. Đầu ngõ, hai trụ cổng đúc bằng xi măng sừng sững, cao khuất đầu người lớn. Hai cánh cổng ngõ bằng sắt thật đồ sộ, cửa luôn rộng mở như sẵn lòng chào đón khách thập phương, chào đón những con người có lòng hướng thiện. Bên ngoài cổng có những khóm trúc vàng râm mát, lâu nay vẫn đứng đấy, yên bình và thanh thản. Đây là nơi để mọi người nghỉ chân, uống nước chuẩn bị cho cuộc hành trình bên trong. Những gian hàng nước nối liền nhau, đủ loại nước ngọt, kẹo, bánh,... phục vụ khách tham quan. Bước vào bên trong, sân chùa thật sạch đẹp. Tượng Phật Bà đầy lòng nhân hậu hướng về phía trước, xung quanh là những khóm hoa rập rờn trong vòm lá xanh non. Đâu đó, tiếng rù rì của những chú ong nâu cẫn mẫn đi tìm mật, tiếng côn trùng rỉ rả trong lòng đất, tiêng chuông chùa thỉnh thoảng ngân vang,... Tất cả đã làm cho con người có một cảm giác yên bình, dễ chịu. Về phía tây nam của vườn chùa sẽ gặp mộ cụ Huỳnh Thúc Kháng, khói nhang nghi ngút quyện với hoa, lá, cỏ cây. Ai đến thăm chùa cũng đều nhớ ghé thăm mộ cụ, tưởng nhớ đến công lao của cụ Huỳnh trong sự nghiệp cách mạng - tưởng nhớ đến một vị tiền bối đã công hiến đời mình cho dân tộc Việt Nam. Đi về phía bắc là hồ sen bát ngát hoa. Những búp sen tinh khiết rung rinh trong vòm lá. Nước hồ trong xanh, những chú cá lượn lờ tùng toẵng. Hòn non bộ giữa hồ sừng sững như tưởng nhớ về những chặng đường lịch sử, nhớ về một thời oanh liệt của những người con của núi Ân, sông Trà. Đi thẳng về phía đông, ta sẽ gặp giếng Phật. Giếng sâu thăm thẳm nhưng nước trong vắt, mát rượi. Nhìn giếng nước, tôi nhớ câu chuyện kể của bà: “Ngày xa xưa ấy, một vị sư đào giếng để lấynước. Đào mãi, đào mãi nhưng không có mạch nước ngầm. Vị sư quyết đào giếng thật sâu để mong có nước phục vụ nhà chùa. Đến một ngày kia, mạch nước xuất hiện nhưng vị sư đã mất tích. Vị sư ấy đã ra đi khi hoàn thành ý nguyện. Và từ đó, giếng có tên là giếng Phật”. Vườn chùa, giếng nước đều có ý nghĩa thật lớn lao. Bước vào đền chùa cũng vậy. Nơi đây đã giáo huấn con người hướng về cái thiện, làm những việc có ý nghĩa trong cuộc đời. Tượng Phật trang nghiêm, nhang trầm, đèn nến nghi ngút. Tất cả như gợi nhắc con người hãy làm điều nhân nghĩa, hãy mở rộng vòng tay nhân ái, sống vì mọi người, tình cảm, thuỷ chung,... Nhìn đền chùa ta phát hiện một nền văn hiến lâu đời, những cây cột tròn, đen bóng, vững chãi. Những con rồng đá được điêu khắc công phu. Chuông đồng thỉnh thoảng ngân vang, tiếng đọc kinh của sư cụ đi vào lòng ngưòi. Bàn thờ Phật với khói hương nghi ngút đã làm cho con người có cảm giác ấm áp lạ lùng, nhớ ơn tổ tiên, nhó' ơn cội nguồn dân tộc. Chính những vẻ đẹp của nền văn hiến, chùa Thiên Ân là nơi thu hút khách du lịch đến tham quan, thu hút mọi người hướng về chính nghĩa.

20 tháng 3 2018

Sau hai trận thăm dò và thử sức lực lượng phòng thủ của nhà Nguyễn ở Đà Nẵng (Quảng Nam) vào ngày 15 tháng 4 năm 1847 và ngày 26 tháng 9năm 1857, một ủy ban có tên là Commission de la Cochinchine do Nam tước Brenien đứng đầu [2] đã đệ trình và đã được Hoàng đế Napoléon III chấp thuận, chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm Việt Nam. Bởi Đà Nẵng là một hải cảng sâu và rộng, thuận tiện cho tàu chiến vào ra, lại nằm trên trục đường Bắc – Nam, có thể sang Lào, Căm Bốt và chỉ cách kinh đô Huế khoảng 100km, rất thuận lợi cho việc "đánh nhanh thắng nhanh" của liên quân Pháp - Tây Ban Nha (gọi tắt là liên quân). Ngoài ra, Đà Nẵng còn có cánh đồng Nam – Ngãi để nuôi quân, còn có nhiều giáo sĩ và giáo dân thân Pháp.

Cho nên đánh chiếm được Đà Nẵng, vượt đèo Hải Vân, rồi tấn công Huế; chính là con đường ngắn nhất, nhanh chóng nhất, ít hao tốn tiền của và nhân lực nhất để thực hiện được ý đồ của Pháp và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, phải chờ đến sau Hiệp ước Thiên Tân (28 tháng 6 năm 1858) được ký kết, quân đội Pháp ở Viễn Đông mới có thể rảnh tay chuyển sang mặt trận khác…