K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

27 tháng 12 2017

Nói về vẻ đẹp của người phụ nữ, từ cổ chí kim, đời này qua đời khác, bao giờ người ta cũng đề cập tới hai phương diện: hình thức và tâm hồn. Điều này, thể hiện ước vọng về một vẻ đẹp hoàn hảo trong cuộc sống ở một đối tượng được cho là hiện thân của cái đẹp- người phụ nữ. Người xưa đã từng bày tỏ:

Một thương tóc bỏ đuôi gà

Hai thương ăn nói mặn mà có duyên

Để lưu giữ tình cảm, ấn tượng trong lòng người khác, người con gái phải vẹn toàn như vậy. Sinh thời, nhà thơ Xuân Quỳnh đã khẳng định rạch ròi hơn: “Nhan sắc để người ta quen nhau. Đức hạnh để người ta sống với nhau”. Như vậy, cặp phạm trù hình thức và tâm hồn luôn song hành khi nói về người phụ nữ.

Tạo hóa đã ban cho người phụ nữ vẻ đẹp nhưng thể hiện nó như thế nào lại tùy thuộc vào quan điểm và nhận thức của mỗi người, mỗi thời đại. Với phụ nữ hiện đại, cái nết và cái đẹp cùng làm cho họ ngày một đẹp hơn, toàn diện hơn. Nội hàm của cái đẹp không chỉ là đức mà còn là tài năng trí tuệ, học vấn, phong cách, ứng xử… Người phụ nữ ngày nay không chỉ biết làm đẹp cho bản thân mà còn biết làm đẹp cho gia đình, cho xã hội, biết xây dựng đời sống văn hóa mới của cộng đồng bằng vẻ đẹp của chính mình.

2. Tuy nhiên, nói đến vẻ đẹp của người phụ nữ, trước hết phải đề cập tới vẻ đẹp bên ngoài, hay còn gọi là vẻ đẹp hình thức. Người xưa gọi vẻ đẹp của họ là dung. Theo đó, người phụ nữ đẹp là phải mang dáng vẻ dịu dàng, hiền thục, gương mặt phúc hậu, đoan trang, trang phục phải thật giản dị, nền nã và kín đáo. Đến bây giờ những chuẩn mực dung nhan ấy vẫn là những giá trị và là nguồn cảm hứng đa chiều của thi ca, hội họa.

Anh yêu áo trắng, áo hồng

Lại càng yêu đến vô cùng áo nâu!

(Áo nâu-Phạm Đình Ân)

Thướt tha áo trắng nói cười

Để ta thương nhớ một thời áo nâu

(Nguyễn Duy)

Trong thời đại mới, khi vai trò cá nhân được tôn trọng, bình đẳng giới được đề cao, người phụ nữ càng có cơ hội được thể hiện mình. Việc yêu thích thời trang và làm đẹp được chị em rất chú trọng. Vẫn biết phụ nữ vốn đẹp nhưng vẻ đẹp ấy sẽ càng được tỏa sáng hơn nếu bạn biết lựa chọn khéo léo, tinh tế trong trang phục. Trang phục đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Nó cũng được xem như một hình thức giao tiếp, một phong cách ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội bằng ngôn ngữ riêng, thông qua lăng kính chủ quan của chủ thể. Lăng kính đó chính là nhận thức, là thái độ sống, phong cách sống, là điều kiện và hoàn cảnh sống của mỗi người. Ở góc độ giá trị, trang phục không chỉ đơn giản là giá trị vật chất với áo quần, phụ kiện mà nó còn mang giá trị tinh thần lớn lao, đó là là khả năng truyền cảm hứng như một tác phẩm nghệ thuật mang tính thẩm mỹ cao. Giá trị tinh thần chỉ được tôn vinh khi giá trị vật chất được tạo dựng trên nguyên tắc phù hợp với môi trường, hoàn cảnh, công việc và cả đặc tính riêng của từng cá nhân. Như vậy, chúng ta hiểu, không phải cứ áo quần, phụ kiện đắt tiền, cầu kỳ thậm chí sang trọng nào cũng làm nên vẻ đẹp của người phụ nữ. Đa phần cái đẹp đều được công nhận từ sự giản dị, nền nã và hài hòa.

Với người phụ nữ, bất luận thời đại nào, vẻ đẹp hình thức bao giờ cũng gắn liền với đức hạnh. Đức hạnh của người phụ nữ được thể hiện qua quan niệm sống, lối sống và đặc biệt qua đối nhân xử thế mà cụ thể là cách ứng xử, giao tiếp với môi trường tự nhiên và xã hội, gia đình, cộng đồng cũng như chính bản thân mình.

Người xưa đã từng nói một cách mạnh mẽ, cái nết đánh chết cái đẹp. Chúng ta bây giờ nói một cách công bằng hơn, cái nết tỏa sáng cái đẹp. Người phụ nữ vốn đẹp nhưng sẽ đẹp hơn nếu họ có một tâm hồn lành mạnh, một trái tim nhân hậu, một phong thái nền nã, dung dị và một phong cách giao tiếp, ứng xử lịch lãm, văn minh, hài hòa. Ứng xử thể hiện nghệ thuật sống của cá nhân. Cùng một tình huống, một hoàn cảnh nhưng mỗi người có cách ứng xử riêng. Giao tiếp là quá trình chia sẻ ý nghĩ, tình cảm thông tin với một hoặc nhiều người. Ứng xử và giao tiếp đều được thông qua hành động, phong thái, ngôn từ, cử chỉ và thậm chí cả trang phục của từng cá nhân. Quan niệm sống chi phối cách ứng xử. Thông qua cách ứng xử, người ta dễ dàng nhận ra nhân sinh quan của mỗi người. Nếu người sống lấy lợi ích cộng đồng làm chủ đạo thì mọi hành xử của họ đều hướng tới mưu cầu lợi ích cho cộng đồng. Theo đó, quyền lợi cá nhân có thể đặt sau. Bởi khi đã giải quyết được lợi ích chung tức đã có lợi ích của bản thân trong đó. Những người như vậy thường vị tha, nhân hậu, khiêm nhường. Họ biết lắng nghe, cảm thông và chia sẻ với nhau những vui buồn, thành bại. Ngược lại, đôi khi sự hơn thua cũng chi phối cách hành xử. Theo đó, đố kỵ, níu kéo nhau, tranh chấp, nói sau lưng thậm chí thị phi đã làm méo mó diện mạo con người. Đối với người phụ nữ, cách ứng xử như vậy đã lấy đi một phần vẻ đẹp vốn có của họ.

Trong quan niệm về nét đẹp của người phụ nữ, phải đề cập tới chữ Ngôn. Nội hàm của ngôn bây giờ không chỉ gói trong lời ăn tiếng nói mà nhìn rộng ra nó còn đề cập tới sự quảng giao của người phụ nữ hiện đại. Hiểu như vậy để có cách nhìn nhận người phụ nữ ngày nay chuẩn xác hơn. Tuy không nhất thiết lúc nào cũng phải nhỏ nhẹ, thẽ thọt nhưng lời hay, ý đẹp, âm và từ chuẩn xác, phù hợp với hoàn cảnh và đối tượng cùng với nụ cười thân thiện sẽ là bí quyết làm nên vẻ đẹp đặc trưng của người phụ nữ qua thời gian và đặc biệt giá trị trong thời đại hiện nay. Một phụ nữ có nụ cười rạng rỡ và một thái độ giao tiếp cởi mở sẽ là một trong những điều đẹp nhất của cuộc sống. Không ai biết nói những lời sâu sắc và êm ái cho bằng người phụ nữ. Êm ái và sâu sắc, đó chính là con người họ” (V.Hugo)

3. Hình ảnh người phụ nữ gắn liền với hình ảnh dân tộc. Phấn đấu gìn giữ và phát huy vẻ đẹp của người phụ nữ nói chung, phụ nữ Việt Nam nói riêng là một trong những mục tiêu hướng đến của Đảng và Nhà nước ta. Công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước qua các thời kỳ đã khẳng định và tôn vinh nét đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Cuộc sống mới, yêu cầu mới đã nâng tầm người phụ nữ. Theo đó, vẻ đẹp của họ càng cần chuẩn mực và hoàn thiện hơn.

Trong quá trình xây dựng và phát triển, Thành phố Đà Nẵng luôn chú trọng đến lĩnh vực văn hóa, xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Đà Nẵng lần thứ XX đã nêu rõ : “Phấn đấu đến năm 2020 xây dựng Đà Nẵng trở thành một thành phố có môi trường đô thị văn minh và giàu tính nhân văn, có thiên nhiên trong lành và đời sống văn hóa cao; trở thành một trong những thành phố hài hòa, thân thiện, an bình; một thành phố hấp dẫn và đáng sống”. Theo đó, Thành ủy Đà Nẵng đặc biệt chỉ đạo thực hiện “Năm văn hóa, văn minh đô thị 2015”.

Hưởng ứng chủ trương mang đầy tính nhân văn này, ở góc độ cơ quan tham mưu những vấn đề về phụ nữ, Hội LHPN thành phố cũng đã xây dựng và triển khai Đề án tuyên truyền, giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước với 4 phẩm chất “Tự tin – tự trọng – trung hậu – đảm đang, đồng thời phát động phong trào Phụ nữ Đà Nẵng “Cử chỉ đẹp - sống văn minh”. Tinh thần chủ đạo các hoạt động này không ngoài mục đích xây dựng, củng cố hình ảnh người phụ nữ Đà Nẵng trong giai đoạn mới, có tinh thần yêu nước, có tri thức, có lối sống văn hóa, có tấm lòng nhân hậu, chung tay xây dựng thành phố giàu đẹp, văn minh.

Mảnh đất giàu truyền thống cần cù, yêu nước với một địa hình sông núi lung linh, hoành tráng nhưng đầy khắc nghiệt của thiên nhiên cùng với xu thế phát triển không ngừng đã tạo nên một vẻ đẹp riêng cho người phụ nữ Đà Nẵng. Đó là vẻ đẹp thuần khiết, mặn mà, chân thành nhưng không kém phần mạnh mẽ, năng động. Vẻ đẹp đó càng quý giá hơn khi cuộc sống có những lúc xô bồ, pha tạp, khi quan niệm về cái đẹp có nơi, có lúc bị nhạt nhòa, biến dạng. Tuy nhiên, cái đẹp không phải tự nhiên mà có và cũng không phải trường tồn vĩnh cửu. Cái đẹp rất cần nuôi dưỡng và chăm sóc. Hơn ai hết, chính người phụ nữ phải biết tạo cho mình vẻ đẹp và giữ gìn nó. Trước hết, họ phải tự khẳng định giá trị bằng chính sự nghiệp, tinh thần, khát vọng và ý thức trách nhiệm với gia đình, cộng đồng. Sau đó, phải biết nâng niu bản thân, chăm sóc sức khỏe, giữ gìn vẻ đẹp và trau dồi tri thức cùng phép đối nhân xử thế chuẩn mực.

Cái đẹp là sự hài hòa. Tâm hồn, trí tuệ, sự duyên dáng trong phong cách và kỹ năng sống cùng với trang phục phù hợp sẽ làm người phụ nữ đẹp hơn trong mắt mọi người. Hình thức chỉ để người ta biết và quen nhau. Tâm hồn trí tuệ và sự quảng giao mới để người ta sống với nhau hoặc thương nhớ nhau đến trọn đời. Đấy là điều mà bất cứ người phụ nữ nào cũng mong muốn và được mong muốn.

Cuộc sống hiện đại mở ra cho người phụ nữ nhiều cơ hội: học vấn, tiến thân, xây dựng mối quan hệ, nhan sắc và kiếm tìm hạnh phúc. Nhưng cũng chính môi trường đầy áp lực này cũng tạo ra cho họ những khó khăn, thách thức. Đó là, làm thế nào để vừa phấn đấu tiến bộ bản thân vừa bảo tồn và phát huy được vẻ đẹp của người phụ nữ.

Hy vọng, chị em phụ nữ nói chung, phụ nữ Đà Nẵng nói riêng sẽ nắm bắt cơ hội, tự tin hướng tới cái đẹp. Người phụ nữ với vẻ đẹp hoàn thiện sẽ làm xã hội đẹp hơn. Bởi vẻ đẹp của người phụ nữ góp phần điểm tô cho cuộc sống, cho đất nước, đúng như Bác Hồ đã ca ngợi : “ Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.

27 tháng 12 2017

(1) Trang phục là người bạn đồng hành thủy chung với con người, đặc biệt nó quan trọng và có ý nghĩa nhiều hơn với người phụ nữ.
- Con người có nhiều nhu cầu trong cuộc sống, trong đó cơm ăn, áo mặc là nhu cầu thiết yếu nhất.
- Trang phục làm đẹp con người cả hình thức lẫn nội dung (thể hiện qua quan niệm và cách thức ăn mặc).
- Mỗi người đẹp làm tăng thêm vẻ đẹp của cộng đồng.
(2) Trang phục đẹp không thay thế được vẻ đẹp của tính cách, của tâm hồn:
- Dân gian từng nói “cái nết đánh chết cái đẹp”.
- Trang phục chủ yếu làm nên cái đẹp bên ngoài (dễ nhạt phai). Cái đẹp về tính cách, về tâm hồn tuy khó thấy nhưng nó có giá trị và vô cùng bền vững.
- Tuy nhiên cần phải thấy người ta đã “đẹp nết” lại cần phải học để “đẹp người” (cách ăn mặc).
(3) Cái đẹp trong trang phục cá nhân phải hài hòa với cái đẹp của cộng đồng.
- Đẹp không có nghĩa là chơi trội, lập dị, tách biệt (nh­ư một bộ phận trong giới trẻ hiện nay).
- Đẹp phải hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Cái đẹp phải tìm được sự ủng hộ và cảm mến ở mọi người.

19 tháng 1 2022

Tham Khảo:

Trước 1945
Trước 1945, trang phục của người Việt mang đậm dấu ấn phong kiến, được phân biệt theo tầng lớp xã hội.
Trong hình là Hoàng hậu Nam Phương trong trang phục áo Nhật Bình.
Quần áo của thường dân rất đa dạng như áo nâu sòng, quần lụa đen, áo tứ thân, áo yếm, áo dài, vấn khăn mỏ quạ, đội nón quai thao
Nhờ có tà dáo dài, vẻ đẹp của phụ nữ như được mềm mại và thướt tha hơn rất nhiều.
Ngoài trang phục, phương pháp làm đẹp thời xưa cũng khá…độc đáo
Răng hạt huyền chính là điểm nhấn đồng thời là nét cuốn hút không thể chối từ của phái đẹp thời xưa.
Tục nhuộm răng đen của phụ nữ xưa trước hết là do quan điểm thẩm mỹ. Lý do trực tiếp của tục nhuộm răng bởi nhai trầu thường làm ố đen răng nên phải nhuộm thật đen để tạo được nét duyên dáng cho hàm răng.
Bên cạnh việc làm đẹp, chăm sóc gia đình, phụ nữ xưa cũng không quên thú vui cho riêng mình. Đặc biệt là những phu nhân nhà giàu thường có riêng cách để giải khuây giữa cuộc sống bộn bề.
Từ 1945 đến 1975
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, trang phục có nhiều thay đổi do sự Âu hóa nhanh chóng tại khu vực thành thị, phụ nữ mặc váy hoặc áo dài cách tân.
Kiểu tóc vấn cao cộng với chiếc kiềng cổ như càng tăng thêm vẻ quý phái cho phụ nữ ở thời kỳ này.
Một phụ nữ Sài Gòn xưa trong bộ áo dài nâu và chuỗi vòng hạt dài.
Áo dài chính là trang phục truyền thống của phụ nữ thời bấy giờ. Chính vì lẽ đó, những hình ảnh này cứ in hằn và trở thành biểu tượng đẹp cho đến tận ngày nay.
Sau năm 1975, hay đúng hơn là sau công cuộc đổi mới, các quan niệm, tư tưởng dường như cởi mở hơn cùng với quá trình giao lưu kinh tế, văn hóa.
Phụ nữ nông thôn miền Bắc vẫn mặc áo cánh nâu cổ tròn hoặc cổ tim, quần đen bằng vải lụa bóng, đầu vấn khăn vuông.
Ở miền Nam, trang phục phổ biến vẫn là áo sơmi, áo thun và các loại váy đối với tiểu thương, trí thức.
Áo bà ba với nông dân.
Đến cuối thế kỷ 20, vào những năm 60, 70 thì phụ nữ Sài Gòn lai nổi lên với kiểu vẻ đẹp hiện đại và hợp mốt thành thị của các quý cô.
Phong cách của người phụ nữ xinh đẹp trong bộ váy xòe chấm bi bồng bềnh, thắt eo gọn cùng kiểu tóc sang trọng vẫn không hề lỗi mốt cho đến bây giờ.
Đôi mắt to sáng lấp lánh, khuôn miệng nhỏ xinh lanh lợi và đôi má bầu bĩnh là nét đẹp đặc trưng của thiếu nữ Sài Gòn xưa.
Phụ nữ Sài Gòn những năm 60 rất ưa mua sắm, chưng diện. Họ khéo léo trong việc chọn phục trang họa tiết nền nã, màu đơn sắc đem đến vẻ thanh lịch mà sang trọng.
Trong ký ức nhiều người, nét đẹp của thiếu nữ Sài Gòn còn là hình ảnh của họ bên những chiếc xe. Hình ảnh những cô gái Sài Gòn tự lái xe Vespa hay Cub mang nét quyến rũ và cá tính.
Từ 1975 đến nay
Sau thời kỳ đổi mới (1986), quá trình giao lưu và hội nhập quốc tế đã giúp cho thiết kế trang phục người phụ nữ có những bước ngoặt cả về kỹ thuật và kiểu dáng. Trong đó, chú trọng đến dáng vóc của từng cá nhân, phô diễn vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ.
Khuynh hướng thiết kế những trang phục tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ tiếp tục được phát huy và dần tiệm cận với những phong cách thời trang trên thế giới.
Tuy nhiên, mặt trái của sự phát triển không ngừng trong ngành công nghiệp thời trang cũng như nhận thức có phần sai lệch trong một bộ phận giới trẻ đã đưa đến những sự thay đổi nhanh chóng trong một số thiết kế trang phục không phù hợp với thuần phong mỹ tục.
Khi quá chú trọng trong việc khoe da thịt, tạo nên sự phản cảm trong cộng đồng, với những trang phục không phù hợp với không gian mà nó xuất hiện.
Có thể nói, nghiên cứu sự biến đổi trang phục của người phụ nữ Việt trong diễn trình văn hóa lịch sử giúp chúng ta có được cái nhìn về sự vận động của xã hội trong từng giai đoạn.
Chính trang phục cũng phản ánh phần nào bối cảnh xã hội mà nó xuất hiện và những yếu tố tác động đến sự biến đổi đấy.
Hiểu như vậy, chúng ta mới có được những giải pháp giúp cho những thiết kế thời trang trong thời gian tới phù hợp hơn với mỹ cảm dân tộc, mang tính hiện đại mà vẫn tạo nên được những bản sắc riêng.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
22 tháng 11 2023

Đề bài: Quan niệm về hạnh phúc

1. Giải thích

- “Hạnh phúc”: là thỏa mãn với những gì mình đang có, là đạt được điều mình mong muốn, là sống vui vẻ và thành công

=> Hạnh phúc thực sự có ý nghĩa quan trọng với con người trong cuộc sống

2. Chứng minh

- Biểu hiện 

+ Có người tìm kiếm hạnh phúc giản dị là được sống đầm ấm bên gia đình. 

+ Có người cảm thấy hạnh phúc khi đạt được điểm số cao trong học tập, được bạn bè, thầy cô ngưỡng mộ. 

+ Có người lại hạnh phúc khi được làm công việc mình yêu thích, được sống là mình. 

+ Cũng có người cảm thấy hạnh phúc khi kiếm được nhiều tiền, có quyền lực và được mọi người tôn sùng. 

+ Và cũng có những người … hạnh phúc là được cống hiến, được làm những điều có ích cho xã hội và đem lại niềm vui cho người khác.

+ Hạnh phúc không phải điểm đến, hạnh phúc là con đường

=> Hạnh phúc là gia đình, là bạn bè, là căn nhà ấm áp yêu thương

+ Có những lúc chúng ta gặp thất bại, cảm thất cuộc đời thật bất hạnh. Nhưng hãy nghĩ rằng, hạnh phúc luôn ở bên cạnh ta. Nó chỉ xuất hiện khi ta biết cách chấp nhận thất bại và nhìn cuộc đời bằng một thái độ tích cực.

Dẫn chứng: Đội tuyển bóng đá Việt Nam, Những bệnh nhân mắc bệnh nan y,...

- Vai trò

+ Hạnh phúc giúp tâm hồn con người được thanh thản, luôn sống tích cực

+ Giúp gắn kết xã hội, đất nước phát triển giàu mạnh

3. Bình luận

- Chúng ta cần:

 + Trân trọng cuộc sống hiện tại, luôn sống hết mình

 + Sống có lý tưởng và luôn nỗ lực theo đuổi

 + Yêu thương những người xung quanh, cống hiến trở thành người có ích cho xã hội

- Phê phán: những người sống tiêu cực, bi quan

- Tuy nhiên, chúng ta không nên vì lợi ích của cá nhân mà cướp đi hạnh phúc của người khác. Hạnh phúc chỉ thực sự có ý nghĩa khi chúng ta sống thanh thản với lòng mình, đem lại những giá trị có ích cho bản thân và những người xung quanh.

4. Bài học cá nhân

25 tháng 11 2023

*Tham khảo:

Dàn ý thuyết trình về vấn đề "Ô nhiễm môi trường do rác thải nhựa"

I. Giới thiệu vấn đề
- Giới thiệu về tình trạng ô nhiễm môi trường do rác thải nhựa
- Mức độ ảnh hưởng của vấn đề đến môi trường và sức khỏe con người

II. Nguyên nhân gây ra vấn đề
- Sự phổ biến của sản phẩm nhựa trong cuộc sống hiện đại
- Hậu quả của việc sử dụng và xử lý rác thải nhựa không đúng cách

III. Tác động của vấn đề đến cộng đồng
- Ảnh hưởng đến sức khỏe con người và động vật
- Tác động đến nguồn nước và đất đai

IV. Giải pháp cho vấn đề
- Sử dụng sản phẩm thân thiện với môi trường thay thế nhựa
- Thúc đẩy việc tái chế và tái sử dụng sản phẩm nhựa
- Hỗ trợ chính sách và quy định nghiêm ngặt về xử lý rác thải nhựa

V. Kết luận
- Tóm tắt lại vấn đề và giải pháp
- Mời mọi người cùng nhau hành động để bảo vệ 

14 tháng 12 2021

Trong các triều đại phong kiến ở Việt Nam thì triều đại để lại nhiều dấu ấn nhất có lẽ là triều Trần. Không đạt được những thành tựu to lớn về mặt kinh tế, văn hóa mà thời Trần còn lừng lẫy sử sách với chiến thắng của ba lần chống quân Mông -Nguyên. Phải chăng chính những chiến thắng vang dội ấy đã tạo nên một hào khí vô cùng to lớn, mạnh mẽ, chỉ có ở thời Trần mà không phải bất kì một triều đại nào khác của Việt Nam - hào khí Đông A. Chỉ có ở thời Trần, người ta mới cảm được sức mạnh to lớn mà hào hùng vô cùng của hào khí này. Và nó đã nghiễm nhiên trở thành niềm cảm hứng đi vào không ít tác phẩm thơ ca nổi tiếng vào thời ấy, trong đó có tác phẩm thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão.

Nhắc về hào khí Đông A, hẳn không ít người đã từng nghe thấy rất nhiều lần nhưng vẫn luôn băn khoăn tự hỏi, hào khí Đông A là gì? Tại sao nó lại được phát huy mạnh mẽ nhất vào thời nhà Trần? Hào khí Đông A là hào khí của thời Trần, hai chữ Đông và A khi ghép lại trong nguyên văn chữ Hán sẽ tạo nên chữ Trần, vậy nên mới nói, hào khí này là hào khí của nhà Trần, của quân và dân đời Trần. Nó cũng là cái khí thế oai hùng, hào sảng của nhà Trần, khi mà ở thời kì này, chúng ta đã ba lần đánh thắng quân Mông - Nguyên - đội quân hung hãn nhất thế giới thời bấy giờ. Hào khí Đông A cũng chính là cái khí thế đầy nhiệt huyết, hừng hực trong niềm vui chiến thắng kẻ thù, là sự khát khao mang tính thời đại bởi đói ai cũng muốn góp một phần sức lực bảo vệ non sông, xây dựng Tổ quốc mình. Đồng thời, cũng phải nói rằng hào khí Đông A là kết tinh sâu sắc của lòng yêu nước nồng nàn của con người Việt Nam ta thời đó.

Vậy nên, khi viết "Thuật hoài", Phạm Ngũ Lão - người con của thời đại ấy đã mang vào trong những câu thơ của mình cái hào khí Đông A hào hùng đó. Nó vang vọng trong mỗi câu chữ của bài thơ.

Ở ngay những dòng đầu tiên của bài thơ, người đọc cũng có thể cảm thấy ngay cái hào khí Đông A toát ra từ việc miêu tả một người anh hùng, một người dũng sĩ thời Trần. Chắc hẳn, qua hình ảnh ấy, Phạm Ngũ Lão như muốn khẳng định rằng thời đại hào hùng sẽ được tạo nên bởi những con người hào hùng. Và chân dung vị anh hùng, con người hiên ngang ấy đã được ông khắc họa trong bức chân dung giữa không gian kì vĩ:

"Hoành sóc giang sơn kháp kỉ thu"

Mới câu thơ đầu tiên thôi mà người đọc chúng ta đã cảm nhận được sự hùng dũng, lẫm liệt, vẻ đẹp của một tráng sĩ mang trong mình hào khí Đông A đang hiên ngang cầm ngang ngọn giáo dài, quyết tâm sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc của mình dù đã qua thu. Trong bản phiên âm, "hoành sóc" có nghĩa là cầm ngang ngọn giáo, thể hiện một khí phách vừa có chút tĩnh tại, an nhiên, nhưng cũng không kém phần hiên ngang, khí phách, đó là tư thế của một người tráng sĩ chuẩn bị ra trận để chiến đấu. Tuy nhiên ở bản dịch thơ, người dịch đã dịch "hoành sóc" thành "múa giáo", đây là một hành động, một tư thế biểu diễn, nghe vừa ngang tàng, lại hơi phô trương. Tuy thế chúng ta đều có thể cảm nhận được hình ảnh của một vị tráng sĩ, tay cầm ngọn giáo dài, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thân yêu. Chúng ta cũng thấy được tư thế của người anh hùng ấy đang được đặt trong một không gian rộng lớn "giang sơn", trong khoảng thời gian dài vô tận "kháp kỉ thu". Cả một không gian thật hùng vĩ được tái hiện lại và in đậm trong đó là hình tượng của người tráng sĩ anh hùng. Không chỉ vậy, "kháp kỉ thu" còn nhấn mạnh sự dẻo dai, tinh thần chiến đấu bất khuất, quyết tâm cống hiến tận lực cho đất nước của một người binh thời Trần. m điệu vang vọng trong câu thơ cũng là một âm điệu khỏe khắn, hào hùng, đúng với cái hào khí Đông A mà Phạm Ngũ Lão đang muốn thể hiện.

Nếu như ở câu thơ đầu tiên, người đọc chỉ thấy hình ảnh của một chiến binh nhà Trần giữa giang sơn rộng lớn, thì bước sang câu thơ thứ hai, hình tượng người lính chẳng còn đơn lẻ nữa mà là cả một đoàn quân với một khí thế thật mãnh liệt:

"Tam quân tì hổ khí thôn ngưu"

Hình ảnh một đoàn quân anh hùng hiện lên thật hùng vĩ, thật tráng lệ biết bao. So với câu thơ đầu, hình ảnh thơ được mở rộng ra thật to lớn, ở câu một, người ta chỉ thấy toát lên hình tượng của một người lính, thì ở đây là hẳn "tam quân" với tiền quân, trung quân, hậu quân với sức mạnh như vũ bão, có thể "khí thôn ngưu" - "nuốt trôi trâu". Phạm Ngũ Lão đã đặt ra ở trong câu thơ này một phép so sánh "tam quân tì hổ". Ông so sánh đội quân nhà Trần "tì hổ", phải chăng muốn khẳng định sức mạnh, sự mạnh mẽ, oai hùng của tam quân nhà Trần như là hổ, là báo. Phép cường điệu, ẩn dụ mà Phạm Ngũ Lão sử dụng đã cho thấy được sức mạnh thật to lớn của đoàn quân mang khí thế của cả một triều đại anh hùng. Với khí thế ấy, cùng sức mạnh phi thường, đội quân đó chắc hẳn có thể làm nên được những việc vô cùng lớn lao. Câu thơ miêu tả khái quát hình ảnh xung trận của những chiến binh nhà Trần, họ mang trong mình một sức mạnh to lớn, vĩ đại, một khí thế hào hùng, hào khí của thời đại Đông A.

Thế nhưng, khi đọc câu thơ này, người đọc không khỏi băn khoăn về hình ảnh "khí thôn ngưu"! Đây là hình ảnh tác giả Phạm Ngũ Lão đã dùng để miêu tả về khí thế của "tam quân" thời Trần. "Khí thôn ngưu" có thể là khí thế nuốt trôi trâu như bản dịch, đó là sự ước lệ của tác giả khi nói về những người chiến binh trẻ tuổi mang trong mình khí phách của đội quân nhà Trần. Hoặc cũng có thế "ngưu" ở đây là một vì sao trên trời, lúc này, câu thơ sẽ mang ý nghĩa về hào khí, khí thế của quân đội nhà Trần có thể át được cả sao Ngưu. Mặc dù ở đây có hai cách hiểu với hai hướng khác nhau, nhưng dù hiểu theo nghĩa nào thì câu thơ cũng đều đạt được mục đích là làm nổi bật lên sức mạnh của đội quân nhà Trần, khí thế hào hùng mà họ dùng khi xung trận. Hai nghĩa này không những không mâu thuẫn mà còn bổ sung cho nhau, để chúng ta có thể hiểu được tại sao một đội quân của một đất nước nhỏ bé lại có thể ba lần đánh thắng giặc ngoại xâm Mông - Nguyên đang thống trị thế giới lúc bấy giờ.

Hào khí Đông A cứ vang vọng mãi lên, sục sôi trong mỗi chiến bình với khí thế xuất trận, thế nhưng đôi khi nó lại trầm lắng, thể hiện một cách thật nhẹ nhàng, kín đáo, trong suy tư của con người. Con người dù ở thời đại nào cũng đều mong có thể trở thành một người có thế giúp ích cho non sông đất nước. Vậy nên, những người con thời Trần mang hào khí Đông A ấy trong tâm tư của mình, luôn quyết tâm lập nên công danh báo đền ơn nước. Chí khí ấy thật đáng khâm phục, thật đáng tự hào biết mấy, và Phạm Ngũ Lão đã làm nổi bật cái khát vọng lớn lao ấy của những người con nhà Trần qua hai câu thơ:

"Nam nhi vị liễu công danh trái
Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu".

Cái ý chí của thân nam nhi quyết tâm lập công báo đền nợ nước đã làm nổi bật lên chí khí cao cả, cái tâm cao cả của người tráng sĩ. Đã làm thân nam nhi ở đời, đứng trong trời đất, phải quyết tạo nên được "công danh", sự nghiệp cho thỏa cái chí làm trai ở đời. Đây là một trong những quan điểm vô cùng đúng đắn và tích cực của tư tưởng Nho giáo. Chẳng thế mà Nguyễn Trãi đã nói

"Đã mang tiếng ở trong trời đất
Phải có danh gì với non sông".

Chí làm trai ở đời, "công danh" chính là một món nợ mà thân trai phải mang, phải trả cả cuộc đời. Chính vì luôn luôn tâm niệm như vậy mà cả đời Phạm Ngũ Lão luôn cống hiến không ngừng cho sự nghiệp của nhà Trần. Ông đóng góp rất nhiều trong công cuộc chống giặc xâm lăng, bình định thiên hạ. Công lao xây dựng đất nước của ông cao vời vợi đến cả vua Trần Minh Tông cũng phải tỏ lòng ngưỡng mộ. Cả cuộc đời đã cống hiến hết mình như vậy mà Phạm Ngũ Lão vẫn thấy mình chưa "trả xong nợ công danh - vị liễu công danh trái", ông vẫn "thẹn" khi nghe người đời kể chuyện Vũ hầu giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán. Ông luôn tâm niệm rằng những việc mình làm vẫn còn nhỏ bé, chưa thể sánh ngang với tiền nhân thiên cổ được. Tuy nhiên, cái "thẹn" ấy của người tráng sĩ chẳng những không làm ông nhỏ bé, thấp kém đi mà còn nâng tầm vị thế của ông lên với một nhân cách cao cả.

Hai câu thơ sau trùng xuống, thâm trầm như là lời kể, lời tự bộc bạch của tác giả với bao nỗi niềm ngổn ngang trong lòng. Tuy nó chỉ là một nỗi niềm riêng của ông, nhưng góp cùng với hai câu thơ đầu, chúng vẫn hòa mình để tạo nên một vẻ đẹp của khí thế thời đại, góp phần để hào khí anh hùng Đông A mãi còn vang vọng đến tận hôm nay.

Cả bài thơ "Thuật hoài" của Phạm Ngũ Lão được bao trùm bởi lòng tự hào dân tộc, bởi hào khí của con người và thời đại nhà Trần. Được thể hiện thật cô đọng và súc tích, bài thơ đã toát lên cái hào khí oai thiêng của dân tộc Việt Nam, toát lên từ một tâm hồn cao đẹp, một tấm lòng yêu nước vô cùng sâu sắc. Đọc bài thơ, người đọc chúng ta càng cảm thấy tự hào về một triều đại hào hùng trong dòng lịch sử của dân tộc ta, mới có thể hiểu tại sao ở thời đại đó, chúng ta lại có thể ba lần đánh bại đội quân Mông - Nguyên đang tung hoành khắp thế giới. Cái hào khí mà thời đại ấy thể hiện, tuy nó đã trôi qua, nhưng cái tinh thần mà nó đã thể hiện thì còn vang vọng mãi tới tận ngày nay. Thế hệ chúng ta kế tiếp hào khí anh hùng ấy bằng những dấu son chói lọi trong hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ cứu nước. Và chúng ta càng không thể quên hình ảnh người tráng sĩ chí lớn - Phạm Ngũ Lão, văn võ song toàn, biểu tượng cho bậc trai tráng, cho người chiến binh của thời đại mang hào khí Đông A quyết thắng ấy.

Bài thơ với thể thơ đường luật cổ, với những hình ảnh ước lệ, so sánh, ẩn dụ , giọng thơ thật hùng tráng, mạnh mẽ, mang phong vị của người chiến sĩ anh hùng. "Thuật hoài" sẽ mãi là bài ca, là tấm lòng của người tướng quân cả cuộc đời vì dân vì nước với lý tưởng và nhân cách cao cả. Thế hệ con cháu chúng ta phải luôn biết rèn luyện nhân cách sống có lý tưởng, có ý chí, quyết tâm thực hiện lý tưởng để không thẹn với thế hệ đi trước, với hào khí anh hùng mà dân tộc ta đã thể hiện qua bao tháng năm qua.

14 tháng 12 2021

Phạm Ngũ Lão xuất thân bình dân nhưng có tài kiêm văn võ. Tương truyền, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn trẩy quân dẹp giặc Nguyên - Mông đã gặp ông. Bấy giờ Phạm Ngũ Lão đang ngồi giữa đường đan sọt. Quân lính của Vương quát dẹp đường, ông vẫn không nghe thấy, lấy giáo đâm vào đùi chảy máu mới sực tỉnh. Bởi Phạm đang mãi nghĩ tới "nợ công danh", đem tài năng của mình ra thi thố dẹp giặc giúp nước. Được Hưng Đạo Vương thu nhận làm tì tướng, Phạm tỏ rõ tài năng, lập nhiều công trạng, là một trong những người anh hùng lừng lẫy thời Trần.

Thuật hoài là bài thơ tỏ lòng. Thơ tỏ lòng dưới các tên thuật hoài, ngôn chí, cảm hoài là lối thơ quen thuộc xưa. Nó tập trung bày tỏ chí hướng, khí phách của "chí làm trai". Ấy là cái "nợ công danh", cái nợ lập thân với nước, với vua để tự khẳng định mình.

Người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm từng tuyên ngôn: "Chí làm trai dặm nghìn da ngựa...", Nguyễn Công Trứ cũng nói tới "Chí anh hùng", tỏ rõ "đã sinh ra ở trong trời đất ; phải có danh gì với núi sông"... Tuy nhiên căn cứ vào từng bài, ứng với từng người, từng thời, tác phẩm có thể chỉ là một kiểu cách sách vở, nói cho có "khẩu khí" vậy thôi. Một số khác thoạt nhìn cũng nằm trong khuôn khổ này nhưng chính là tâm sự thật, là niềm day dứt máu thịt, là khát vọng sống cao đẹp của một con người, một thế hệ ở thời đại mình. Vì thế, hình ảnh và khí phách của nhân vật trữ tình trong những tác phẩm cũng rất khác nhau, tạo nên ở người đọc sự rung cảm khác nhau. Chẳng hạn ở Đặng Dung (người cuối triều Trần) là vẻ bi tráng: "Thù nước chưa xong đầu vội bạc; Mấy độ mài gươm dưới bóng trăng". Nguyễn Công Trứ là sự cao ngạo nhưng xót xa thân phận, dẫu là thân phận anh hùng.

Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão - Chàng nam tử trong bài thơ này đặt trong hệ thống "tỏ lòng" có một vẻ đẹp, khí phách riêng. Đấy chính là cái lẽ làm bài thơ qua nghìn năm vẫn tồn tại, xúc động lòng người.

Điểm thứ nhất, bài thơ không phải là khẩu khí của một người mà là khẩu khí của cả một thời đại. Thời đại "Hào khí Đông A". Bằng cách này, cách khác nhiềungười trong thời Trần lúc bấy giờ đã nói như thế. Trần Thủ Độ: "Nếu bệ hạ muốn hàng thì trước hết phải chém đầu thần đã". Trần Quang Khải: "Chương Dương cương giáo giặc; Hàm tử bắt quân thù". Trần Nhân Tông: "Xã tắc hai phen bon ngựa đá; Non sông nghìn thủa vững âu vàng".

Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão là một tiếng nói, không phải tiếng nói của chủ soái mà tiếng nói của một người, của thế hệ tuổi trẻ sống trong sự nghiệp chống ngoại xâm, muốn đóng góp sức mình, để lại tuổi tên trong sự nghiệp ấy.

Điểm thứ hai, chí khí, khát vọng công danh của Phạm Ngũ Lão cất lên qua bài thơ là sự thúc dục từ sự nghiệp chung, oai hùng lừng lẫy. Nó được minh chứng bằng chiến công của chính bản thân ông. Đó không phải là thứ "khẩu khí hão", tỏ lòng theo công thức.

Sự hoà hợp, tương ứng giữa thời đại và cá nhân làm cho bài thơ hùng tráng mà chân thực.

Múa giáo non sông trải mấy thu

Ba quân khí mạnh suốt sao ngưu.

Dẫu được hiểu "cầm ngang ngọn giáo trấn giữ đất nước vừa mấy thu ; ba quân dũng mãnh như hổ báo, khí thế nuốt được cả trâu" hay "nuốt sao Ngưu" thì câu thơ cũng đều muốn dựng lại bối cảnh, hiện thực xã hội rộng lớn. Đó là hình ảnh, là bức tranh hoành tráng của sự nghiệp đánh giặc thời Trần. Phân tích bức tranh này, chúng ta thấy có nhiều tầng hình ảnh với cách thức "dựng tranh" rất nghệ thuật.

Cả hai câu thơ đầu này là cái nền rộng: hào khí đánh giặc của một dân tộc trong đó có người chiến sĩ và có cả đoàn quân. Hào khí ấy được tập trung miêu tả ở hình ảnh tiêu biểu nhất, thể hiện khí phách anh hùng nhất "múa giáo". "Múa giáo non sông trải mấy thu - Ba quân Như vậy, cả "ba quân" cùng múa giáo, cùng ra trận. Song thu lại thành điểm là hành động của người chiến sĩ. Câu thơ dựng lên trựớc mắt ta hình ảnh "một tráng sĩ múa gươm" xung trận trên cái nền "ba quân đậy hào khí giết giặc" kia. Câu thơ từ "điểm" mởrộng ra. Hoặc ngược lại, mở ra rất rộng, thu hẹp dần rồi thu thành một "điểm" (Tráng sĩ anh hùng - đội quân tráng sĩ - Ba quận, dân tộc hoặc Ba quân, dân tộc - đội quân tráng sĩ - tráng sĩ anh hùng) khiến cho chỉ hai câu thơ mà trường diễn tả rất rộng, trường cảm xúc rất mãnh liệt, sâu sắc. Câu thơ tượng trưng nhưng lại rất thực. Cái thực của thời đại ở thế hệ trẻ tuổi, ở mỗi cá nhân.

Hai câu thơ cuối cùng, hình ảnh Người tráng sĩ không còn hiện lên "trông thấy nữa". Nó được biểu hiện qua tâm sự, suy nghĩ:

Công danh nam tử còn vương nợ

Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.

Ở đây có một quan niệm nhân sinh quen thuộc của những con người có chí khí thời phong kiến. Làm thân con trai cái nợ công danh là cái nợ phải trả. Công danh là sự nghiệp và tiếng thơm. Nó còn tỏ rõ sự phân biệt nam - nữ trong đó, song không phải là tiêu cực. Khi một thế hệ "lo" những điều như thế. Và nợ công danh có một khuôn mâu mà học theo, vươn tới: gương Vũ hầu - Gia Cát Lượng.

Trên cái nghĩa chung này là hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Phạm Ngũ Lão. Với nhà thơ - người anh hùng họ Phạm, công danh - chí làm trai - gắn vớisự đóng góp, xả thân cao nhất, ích lợi nhất, nhiều nhất cho đất nước, dân tộc trong công cuộc bảo vệ đất nước. Nỗi niềm canh cánh ấy, cái "thẹn" ấy làm cho con người vươn tới những cái cao đẹp, anh hùng. Nó cũng là sự khích lệ, một tuyên ngôn cho thế hệ và thời đại. Bản dịch nghĩa đã dịch "kẻ nam nhi... nên thẹn..." e là người đọc hiểu một ý là "chưa trả xong nợ nam nhi". Có lẽ phải dịch: "Nam nhi... thì thẹn" để rõ cái ý khuyến cáo, khích lệ, hướng tới cả một thế hệ lúc bấy giờ.

Hai câu thơ do vậy cỏ vẻ đẹp của khát vọng lập công, đóng góp, hi sinh cho dân tộc đất nước.

Bài thơ 4 câu 28 chữ đã dựng lên hào khí của cả một thời đại, một thế hệ và một con người. Nó là sự thể hiện cảm hứng yêu nước, chủ nghĩa yêu nước mãnh liệt. Dung lượng nhỏ nhưng sức bao quát, hàm chứa trong đó thật lớn lao. Đây là bài thơ điển hình về nội dung, về hình thức của văn học trung đại.

29 tháng 8 2023

Phương pháp giải:

Đọc kĩ bài thơ

Lời giải chi tiết:

Đáp án: D

Giải thích: Chú ý về hình thức của các bài.

5 tháng 3 2023

Đáp án: D

Giải thích: Chú ý về hình thức của các bài.

Bước 1: Chuẩn bị nóiXác định đề tài, mục đích, đối tượng người nghe, không gian và thời gian nóiMục đích của bài nói là thuyết trình kết quả nghiên cứu của bản thân sao cho người nghe hiểu được vấn đề thuyết phục được người nghe về kết quả đề tài nghiên cứu.Tìm ý, lập dàn ýTìm ýThu thập thông tin và sắp xếp, sử dụng thêm các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ.Lập dàn ý- Trích dẫn và lập...
Đọc tiếp

Bước 1: Chuẩn bị nói

Xác định đề tài, mục đích, đối tượng người nghe, không gian và thời gian nói

Mục đích của bài nói là thuyết trình kết quả nghiên cứu của bản thân sao cho người nghe hiểu được vấn đề thuyết phục được người nghe về kết quả đề tài nghiên cứu.

Tìm ý, lập dàn ý

Tìm ý

Thu thập thông tin và sắp xếp, sử dụng thêm các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ.

Lập dàn ý

- Trích dẫn và lập danh mục tài liệu tham khảo đúng quy cách.

- Bố cục bài viết đảm bảo các phần:

Nhan đề: Khái quát được đề tài nghiên cứu

Tóm tắt: Nêu bối cảnh nghiên cứu, câu hỏi và phương pháp nghiên cứu.

Cơ sở lí thuyết: Nêu khái niệm, lí thuyết nền tảng để triển khai đề tài.

Kết quả nghiên cứu: Trình bày các kết quả nghiên cứu với lí lẽ và bằng chứng thích hợp.

Kết luận: Khái quát những ý chính từ kết quả nghiên cứu, đề xuất giải pháp, hướng phát triển của đề tài.

 Tài liệu tham khải: Sắp xếp tài liệu liên quan đến đề tài theo tên tác giả, tên tài liệu, năm xuất bản…

Bước 2: Trình bày bài nói

- Dựa vào phần tóm tắt ý từ trước, sử dụng tờ giấy nhỏ để viết, ghi chú…

- Trình bày từ khái quát đến cụ thể.

- Phân tích, đánh giá, kết nối các phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ với bài thuyết trình.

- Chú ý tương tác.

1
HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
24 tháng 11 2023

Bài làm tham khảo

GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ CỦA LÀN ĐIỆU HÁT THEN ĐÀN TÍNH Ở TỈNH BẮC KẠN

Hát then đàn tính mang tính chất lễ và hội, ngoài mang yếu tố tâm linh để cầu một mùa vụ bội thu còn để giải trí, giãi bày và thể hiện nỗi lòng và tình yêu đôi lứa. Người hát then trong dịp lễ tết là những người đại diện cho cộng đồng giao tiếp với thần linh, cầu cho mùa màng bội thu, đời sống của nhân dân no ấm. Ngày nay hát then đàn tính được sân khấu hoá nhiều hơn, xuất hiện rộng rãi trong nhiều dịp sinh hoạt văn hoá của người dân Bắc Kạn. Tuy nhiên trong một bộ phận không nhỏ của giới trẻ hiện nay, việc yêu thích cũng như biểu diễn các làn điệu then đã không còn được như trước. Vì thế vấn đề bảo tồn và giữ gìn những giá trị đặc sắc của hát then đàn tính là hết sức cần thiết.

I. Một số vấn đề về hát then đàn tính ở tỉnh Bắc Kạn

Hát then là nét sinh hoạt văn hoá độc đáo của đồng bào dân tộc Tày, Nùng và của một số vùng núi dân tộc phía Bắc. Theo quan niệm của người Tày, then có nghĩa là “Trời”. Hát then là một loại hình tín ngưỡng dân gian có nội dung thuật lại những hành trình của con người lên thiên giới với mong muốn cầu xin những điều tốt lành.

Dịp diễn ra các sự kiện quan trọng như lễ cầu mùa, cầu yên, cấp sắc… đồng bào dân tộc thường xuyên hát then, thực hiện nghi lễ cùng với đàn tính, thẻ âm dương, hát then…

II. Thực trạng của việc giữ gìn và phát huy đặc sắc của hát then đàn tính ở tỉnh Bắc Kạn hiện nay

Đồng bào dân tộc Tày, Nùng chiếm hơn 70% dân số cư trú trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn. Hát then là một nhu cầu sinh hoạt tâm linh, văn hoá, tinh thần không thể thiếu của đồng bào nơi đây. Một số gia đình của người dân tộc Tày, Nùng khá giả thậm chí còn mời những nghệ nhân về hát then để cầu tài lộc, bình anh. Ở xã Yên Cư có khoảng 20% số gia đình đầu năm thường mời nghệ nhân về để hát then. Điều đó cho thấy những nghệ nhân hát then rất được trân trọng, đặc biệt ở những vùng nông thôn, bản vùng cao. Đó cũng là cách tồn làn điệu hát then đàn tính một cách hiệu quả nhất hiện nay.

Mặc dù điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng trong thời gian vừa qua tỉnh Bắc Kạn đã có nhiều hình thức để bảo tồn và phổ biến làn điệu hát then trong đời sống tinh thần của nhân dân. Đoàn nghệ thuật dân tộc tỉnh thường xuyên sưu tầm, dàn dựng nhiều làn điệu then cổ để biểu diễn ở những vùng sâu, vùng xa, những vùng đồng bào dân tộc thiểu số, với mong muốn để làn điệu hát then được phổ biến rộng rãi trong đời sống văn hoá của quần chúng.

Tuy nhiên có một vấn đề đáng lo ngại là các nghệ nhân hát then cao tuổi ngày càng ít dần, làn điệu then chưa hấp dẫn đến bộ phận giới trẻ, vì thế trong tương lai làn điệu hát then có nguy cơ bị mai một.

III. Tầm quan trọng của việc giữ gìn và phát huy đặc sắc của hát then đàn tính ở tỉnh Bắc Kạn

Như trên đã nói làn điệu hát then có vai trò quan trọng đến với đời sống văn hoá tinh thần của người tỉnh Bắc Kạn nói riêng và các dân tộc khác nói chung. Bởi các làn điệu hát then không chỉ mang tính chất giải trí, là món ăn tinh thần sau ngày những ngày làm việc căng thẳng mà còn là hình thức sinh hoạt mang tính chất tâm linh, tế lễ, cầu mong mưa thuận gió hoà, mùa vụ ấm no cho buôn làng.

Di sản hát then đàn tình đã được UNESCO đưa vào danh sách di sản văn hoá phi vật thể của nhân loại. Đây là niềm vinh dự tự hào của người Tày nói riêng và của các dân tộc anh em khác ở vùng Đông Bắc nói chung. Chính vì vậy việc bảo tồn và phát huy di sản hát then đàn tính là vô cùng quan trọng, nó sẽ góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá quý báu của dân tộc, góp phần phát triển kinh tế xã hội của địa phương.

IV. Kết luận

Giữ gìn và phát huy đặc sắc của hát then đàn tính ở tỉnh Bắc Kạn là một trong những vấn đề được Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn hết sức quan tâm. Đây là một việc làm khó, đòi hỏi phải có sự chung sức của toàn thể nhân dân, đặc biệt của bộ phận giới trẻ, những người có vai trò quan trọng đến việc giữ gìn và quảng bá làn điệu then tính

Bạn tham khảo dàn ý sau nhé: 

Giải thích : Gia đình là gì?

Gia đình là một hình thức tổ chức đời sống cộng đồng của con người, một thiết chề văn hóa – xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên cơ sở của quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục … giữa các thành viên.Gia đình là nơi sinh thành nuôi dưỡng bồi đắp tâm hồn tình cảm cho con người. Nơi đó có những người thân yêu cha mẹ, ông bà, anh chị em…

*Vai trò và ý nghĩa của gia đình:

+ Gia đình như một tế bào tự nhiên, là đơn vị nhỏ nhất để tạo nên xã hội. Không có gia đình để tái tạo ra con người thì xã hội không tồn tại và phát triển được. Chính vì vật, muốn xã hội tốt thì phải xây dựng gia đình tốt.

+ Gia đình là cầu nối giữa cá nhân và xã hội. Mỗi cá nhân chỉ có thể sinh ra trong gia đình. Không thể có con người sinh ra từ bên ngoài gia đình. Gia đình là môi trường đầu tiên có ảnh hưởng rất quan trọng đến sự hình thành và phát triển tính cách của mỗi cá nhân. Và cũng chính trong gia đình, mỗi cá nhân sẽ học được cách cư xử với người xung quanh và xã hội.

+ Gia đình là tổ ấm mang lại các giá trị hạnh phúc. Gia đình là tổ ấm, mang lại các giá trị hạnh phúc, sự hài hòa trong đời sống của mỗi thành viên, mỗi công dân của xã hội. Chỉ trong gia đình, mới thể hiện mối quan hệ tình cảm thiêng liêng giữa vợ và chồng, cha mẹ và con cái. Gia đình là chỗ dựa tinh thần vững chắc trong cuộc sống, chốn về bình yên sau những vất vả gian lao, nơi luôn rộng mở khoan dung sau những sai lầm vấp ngã.

+ Gia đình là nơi nuôi dưỡng, chăm sóc những công dân tốt cho xã hội. Sự hạnh phúc gia đình là tiền đề để hình thành nên nhân cách tốt cho những công dân của xã hội. Vì vậy muốn xây dựng xã hội thì phải chú trọng xây dựng gia đình. Hồ chủ tịch nói: “Gia đình tốt thì xã hội tốt, nhiều gia đình tốt cộng lại thì làm cho xã hội tốt hơn”.

+ Gia đình là nguồn động viên, hỗ trợ về tinh thần để mỗi người nỗ lực hơn, mạnh mẽ và vững vàng hơn trong cuộc sống.Bài học :-Phê phán những người mải chạy theo tiền tài địa vị, đuổi theo những thứ phù du mà quên đi gia đình( Nếu bạn cảm thấy chưa đủ ý có thể bổ sung thêm nhé)
2 tháng 11 2023

1. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về thói quen đi học muộn và quan niệm của bản thân.

2. Thân bài:

a) Tác hại của việc đi học muộn:

Đi học muộn có thể khiến ta mất uy tín, khiến các bạn và thầy cô không tin bạn và không muốn giao lưu với bạn nữa.Đi học muộn cũng làm cắt ngang mạch dạy học của thầy cô cũng như ảnh hưởng đến việc học của các bạn trong lớp.Đi học muộn còn khiến bạn bị mất kiến thức bài học, mất thời gian ôn lại bài mà mọi người đã học. 

b) Nguyên nhân dẫn đến việc đi học muộn:

Khách quan: có thể là những nguyên nhân khách quan như tắc đường, hỏng xe,...Chủ quan: như ngủ quên hoặc đơn giản nó là một thói quen không thể bỏ.

c) Biện pháp giúp bỏ thói quen đi học muộn:

Sắp xếp thời gian hợp lý, cần dự tính thời gian cho những sự cố phát sinh thêm.Đặt đồng hồ báo thức hẹn giờ để tránh quên giờ và không lỡ mất thời gian.Rèn luyện bản thân nhiều hơn để không bị ỷ lại vào người khác.

3. Kết bài: khẳng định lại vấn đề:

Cần từ bỏ thói quen đi học muộn để không làm mất thời gian của bản thân cũng như không làm ảnh hưởng đến người khác

2 tháng 11 2023

cái này để tham khảo thôi