K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

GN
GV Ngữ Văn
Giáo viên
27 tháng 8 2018

Câu 1: Từ "anh em" trong câu b là từ ghép.

Câu 2:

Từ ghép: nòi rồng, nước thẳm, dòng tiên, non cao, tính tình, tập quán, khác nhau, ăn ở, cùng nhau, lâu dài, cai quản, miền núi, miền biển, giúp đỡ, lời hẹn.

Từ láy: không có từ nào.

26 tháng 8 2018

quả bầu mẹ bạn nhé

26 tháng 8 2018

quả bầu mẹ bn nhoa

26 tháng 8 2018

Đã 38 năm kể từ ngày ta giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc (30/4/1975-30/4/2013). Đất nước ta đã độc lập, nhân dân ta đã được tự do, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Chiến tranh đã đi qua nhưng những nỗi đau chiến tranh vẫn còn đó, người Việt Nam vẫn kiên cường bất khuất, gồng mình hàn gắn vết thương chiến tranh và nỗ lực lao động để xây dựng đất nước trong thời kỳ hội nhập. Trong mỗi chúng ta, có ai biết rõ số lượng vũ khí mà Mỹ đã sử dụng cho cuộc chiến tranh ở Việt Nam? Con số đó không hề nhỏ, có những lúc, cường quốc to lớn ấy phải dốc hết toàn lực để nhằm khuất phục đất và người Việt Nam. Nhưng chính nghĩa luôn chiến thắng, đất nước Việt Nam đã chiến thắng vẻ vang trước một kẻ khổng lồ. Họ quyết tâm đánh Mỹ bằng tất cả những gì họ có, bằng cả chông tre, tổ ong, dao, búa, tầm vông vót nhọn,…Họ thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ.

Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam, các nhà quân sự Mỹ đã thừa nhận rằng: Một số lượng lớn binh sĩ Mỹ bị chết là do vũ khí tự chế của Việt Nam. Những vũ khí tự chế ấy đơn giản chỉ là những cây chông làm bằng tre được vót nhọn; những tổ ong vò vẽ treo lủng lẳng ở ngoài vườn; súng ngựa trời dùng để phóng mảnh kim loại, thủy tinh gây sát thương cao; giàn thun bắn lựu đạn hay chất độc được đồng bào dân tộc dùng để săn thú rừng,…Tất cả những thứ ấy, lúc thanh bình nó là những vật gần gũi với người dân. Nhưng khi có giặc ngoại xâm thì vũ khí tự chế của Việt Nam mang tính sát thương cực kì lớn và đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những kẻ mang dã tâm xâm lược. Từ đó, ta mới thấy được sự mưu trí, dũng cảm của những con người Việt Nam, luôn kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, luôn thể hiện được chủ nghĩa anh hùng cách mạng của một dân tộc đối đầu với các thế lực ngoại xâm qua các thời đại lịch sử. Nhân dịp kỉ niệm 38 năm ngày giải phóng Miền Nam, thống nhất đất nước, chúng ta hãy cùng tìm hiểu một số loại vũ khí tự chế của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhằm ôn lại truyền thống kiên cường bất khuất chống giặc ngoại xâm, sự mưu trí, sáng tạo, dũng cảm của nhân dân ta.

Hầm chông giết giặc

Trong những trận càn, nhiều binh sỹ Mỹ vẫn nói với nhau rằng “Đi một bước nữa có thể là bước đi cuối cùng của đời mình!”. Bởi vì: Chúng có thể bị sụp xuống hầm chông và hậu quả thì từ chết tới bị thương. Trên những con đường làng êm ả của Việt Nam, hằng ngày người dân Việt Nam đi làm đồng, đi chợ, đi bắt cá,…rất đỗi bình thường. Nhưng tới khi quân Mỹ đi càn thì con đường ấy lại trở thành con đường xuống địa ngục. Vì nó đầy rẫy những cạm bẫy không lường trước được. Đó là những hầm chông sắc nhọn được vót bằng loại tre già hay tầm vông được cắm thật chặt xuống hố đã được đào sẵn, chỉa mũi nhọn lên trên. Ở trên được ngụy trang bằng những cành cây, rơm rạ, hay lá cây. Bình thường không biết đấy là hầm chông chỉ khi nào quân địch bị rơi tọt xuống hố đó, rồi bị chông đâm thủng bụng, xuyên qua mông, xuyên qua chân thì mới biết là mình đã rơi vào trận địa được nhân dân ta bày sẵn. Nhân dân ta đã sáng tạo ra rất nhiều loại chông: Chông đòn, chông hầm, chông quay, chông bàn, chông hom,…đa số chông được làm bằng tre, có những nơi chông được làm từ thân của cây cau già, hay làm bằng sắt. Hầm chông được bố trí ở khắp nơi: Ở trên đường làng, ở hiên nhà, dưới gốc cây, trong vườn nhà,…có mặt ở khắp đất nước Việt Nam. Hầm chông dễ làm, tre thì ta có sẵn ngay ngoài vườn, từ những cụ già, những người phụ nữ, những em bé cũng tham gia vót chông để giết giặc. Chính vì vậy, hầm chông đã góp phần vào việc đánh giặc giữ làng, giữ nước của dân ta và đã trở thành nỗi ám ảnh kinh hoàng của binh lính Mỹ. Tôi nhớ mãi một cảnh trong phim Biệt Động Sài Gòn, một toán lính Mỹ đi càn ở Củ Chi, có một tên bị rơi xuống hầm chông đau đớn kêu cứu trong tuyệt vọng: “Help me! Help me!” (Cứu tôi với! Cứu tôi với!). Nhưng những tên đồng bọn của hắn dù không bị rơi xuống hầm chông nhưng cũng hoảng sợ cực độ, quay súng bỏ chạy với sự bất lực “No…! No…! I can’t!” (Không! Không! Tôi không thể!). Một đội quân Mỹ được trang bị vũ khí tối tân hiện đại nhưng phải bỏ chạy trước hầm chông đơn giản của Việt Nam. Thấy tự hào làm sao dân tộc ta, một dân tộc bình dị nhưng rất đỗi anh hùng.

* Đánh giặc bằng ong vò vẽ

Ở quê hương Bến Tre, cái nôi của phong trào Đồng Khởi. Chẳng ai mà không biết ông Nguyễn Văn Tư (sinh năm 1933, hy sinh ngày 26/10/1964), bí danh Thanh Ngọc, quê ở xã Tân Thành Bình nay thuộc huyện Mỏ Cày Bắc tỉnh Bến Tre. Ông là một chiến sĩ du kích có kỹ năng đánh độc lập, nhỏ lẻ, với vũ khí thô sơ như chông, mìn, bẫy lựu đạn. Đặc biệt, ông đã sáng tạo ra cách đánh địch bằng ong vò vẽ phối hợp với trận địa chông, mìn, gây cho giặc nhiều tổn thất đáng kể. Trận địa có ong vò vẽ được ông thiết kế công phu: Ong được bắt về điểm sẽ xây dựng trận địa từ hồi tổ còn nhỏ, đem về hàng ngày cho ong ăn thịt trâu, bò cho tổ ong lớn nhanh. Bên cạnh tổ ong, ông Tư thiết kế trận địa hầm chông, mìn, cấm chông dày đặc ở dưới các mương gần đó. Khi địch đã lọt vào “ổ” từ xa ông giật dây phá vỡ tổ ong cho ong bay ra rượt bọn địch đánh tới tấp, khiến chúng hoảng loạn đâm đầu chạy, không biết xung quanh mình trận địa đã bày sẵn: Thằng thì rớt xuống hầm chông, thằng thì rơi vào điểm có cài lựu đạn nổ, thằng thì nhảy xuống mương mong rằng thoát nạn bị ong đánh, ai dè bị chông dưới mương đâm lủng bụng, làm bọn địch chết loạn xạ và phải dừng cuộc hành quân.

Ở Cần Thơ, nhân dân ta bắt ong về nuôi. Hằng ngày đem áo, khăn của mình ra treo ở gần tổ ong để cho ong quen mùi, nhân dân ta lại gần tổ ong thì không sao nhưng khi Mỹ càn tới, ong thấy mùi lạ bèn xông ra đánh tới tấp làm bọn lính Mỹ bị ong đốt bỏ chạy toán loạn.

Ở nước ta, trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước có nhiều người dân, đội du kích sáng tạo cách đánh giặc bằng ong vò vẽ rất hiệu quả. Tạo nên một sức mạnh toàn dân đánh giặc càng làm cho phong trào giải phóng ngày càng phát triển mạnh mẽ. Ong vò vẽ được mệnh danh là “Binh chủng không quân” của chiến tranh nhân dân.

* Súng ngựa trời

Súng ngựa trời được quân và dân Bến Tre sản xuất tháng 1/1960, được sử dụng ở ba xã Định Thuỷ, Bình Khánh, Phước Hiệp và một số trận chống càn ở Bến Tre trong phong trào Đồng Khởi. Sau đó, súng được sử dụng phổ biến trong du kích đồng bằng sông Cửu Long và Nam Bộ đầu những năm 60 của thế kỷ XX.

Là loại vũ khí thô sơ có hình con ngựa trời, dùng phóng các mảnh kim loại, thuỷ tinh, đá vụn để sát thương sinh lực địch. Cấu tạo của súng ngựa trời gồm: Nòng bằng kim loại (ống nước, ống tôn) đường kính 35-70 mm, dài 0,4-0,8 mét, đáy nòng bịt kín (hàn hay đập dẹt) đặt trên hai chân chống, gần đáy nòng khoan một lỗ để lắp cơ cấu cò hay bộ phận phát hoả đơn giản. Trong nòng nhồi thuốc phóng (thường dùng thuốc đen), tấm đệm bằng gỗ và các mảnh gang, sắt, mảnh sành, thuỷ tinh, đá, bi xe đạp,...có thể ngâm nọc rắn độc, nước tiểu nhằm tăng tính sát thương. Cự ly phóng mảnh tới 150 mét, sát thương sinh lực địch khoảng cách tới 100 mét.

* Giàn thun bắn lựu đạn

Giàn thun cao su bắn lựu đạn do đội du kích sử dụng được làm bằng hai dây lớn, buộc một mảnh bạt vào đuôi. Hai đầu dây cột vào một cây có hai chạc cao hơn đầu người kéo căng ra để quăng lựu đạn đã rút chốt sẵn. Phần mỏ vịt được quấn chặt bằng dây cao su và tính toán sao cho lựu đạn bay xa từ 100m đến 150m thì dây cao su mở hết, rồi phát nổ trong đồn địch. Thời gian cháy chậm của lựu đạn là 7s nên khoảng cách tối thiểu mà ta có thể bắn trúng đó là 330m.

Cách dùng giàn thun bắn lựu đạn để tấn công một đồn địch rất đơn giản mà cực kỳ hiệu quả. Những chiến sĩ du kích của ta thường chọn những bụi rậm, có nhiều cây để buộc giàn thun. Đến một cây to có thân chia ra hai nhánh hoặc hai cây đứng cạnh bên nhau, các du kích lặng lẽ buộc dây thun vào. Họ phân công nhau người thì trèo lên cây cao để quan sát mục tiêu, người thì cầm trái lựu đạn tra vào giàn thun, người đo cự ly để kéo giãn dây thun, còn lại tất cả tập trung kéo dây thun giãn ra để tạo lực đàn hồi bắn trái lựu đạn bay xa. Người chỉ huy hô “bắn”, tất cả đồng loạt buông ra, trái lựu đạn được bắn đi vào không trung và rơi xa mấy trăm mét. Người quan sát trên cây hô “trúng rồi”, ở dưới đất người chỉ huy tra quả lựu đạn tiếp theo; hoặc người trên cây yêu cầu điều chỉnh “qua trái - qua phải, xa hơn - gần hơn” năm mười mét để những người dưới đất điều chỉnh lại “thước ngắm”. Cứ thế mà các du kích nã đạn, chỉ đến khi đánh cháy được đồn địch, họ mới tháo giàn thun và âm thầm rút lui không để lại dấu vết. Bọn địch ở trong đồn được nhận những quả lựu đạn “từ trên trời rơi xuống” chỉ biết âm thầm chịu đựng chứ chẳng biết ai tấn công mình và ở phía nào, chúng chỉ bắn trả một cách mông lung không chủ đích trong khi đội du kích của ta đã rút lui an toàn. Nhờ giàn thun bắn lựu đạn mà du kích Bến Tre đã hạ được nhiều đồn địch trong phong trào Đồng Khởi năm 1960.

* Hạ trực thăng địch bằng cụm 3 trái nổ đơn giản mà hiệu quả

Với trí thông minh óc sáng tạo của một người dân Bến Tre, đồng chí Nguyễn Văn Chồn và đồng đội đã tận dụng đạn pháo lép của Mỹ chế thành trái nổ, lấy vũ khí địch đánh địch, diệt máy bay trực thăng Mỹ ở ấp 5 xã Long Mỹ huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre vào năm 1969.

Trái được đặt cách mặt đất 0,7m trên giá tréo và được gài bằng 4 sợi dây cho 1 chốt an toàn của trái, mỗi dây dài 25m căng qua các chông sào (chống máy bay). Giữa trái này và trái khác có khoảng cách 50m và được bố trí thành thế tam giác 3 trái 3 cụm. Đồng thời, trên các sợi dây dẫn đến chốt an toàn các chiến sĩ ta còn thêm tàu cau, lá chuối tạo sức giật mạnh chốt, khi có sức gió căng bảo đảm trái sẽ nổ đúng yêu cầu”. Ngày 13/4/1969, trực thăng Mỹ đổ quân vào trận địa, sức gió căng do cánh quạt máy bay giật mạnh tàu cau, lá chuối làm 1 cụm trái nổ, kết quả 2 chiếc tan xác tại chỗ, 2 chiếc khác bị thương.

Bọn Mỹ đưa trực thăng khác đến chở thương, 1 cụm trái khác nổ tiếp làm tan xác thêm 1 chiếc. Trận này ta diệt và làm hư hại nặng 5 máy bay trực thăng, 52 lính Mỹ bị tiêu diệt khi chưa kịp xuống mặt đất.

Cách đánh trực thăng đơn giản nhưng tiêu diệt nhiều giặc được phổ biến ra toàn tỉnh. Đồng chí Nguyễn Văn Chồn được tuyên dương danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang.

* Lấy bom bi Mỹ, đánh Mỹ

Đó là sáng kiến của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Việt Hùng, (tên thường gọi Tư Trung) sinh năm 1944, trong một gia đình có truyền thống cách mạng tại ấp 3, xã Mỹ Thạnh Đông, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Giai đoạn 1965-1966, hầu hết địa bàn Đức Huệ là vùng trắng (vùng không có cơ sở cách mạng, là địa bàn bị địch chiếm đóng), vì thế nên đội du kích của ông phải ở dưới hầm bí mật. Việc tiếp tế vũ khí, đạn dược cực kỳ khó khăn; lương thực, thực phẩm, thuốc men đều phải do nhân dân Đức Hoà, Đức Huệ chi viện. Trước khó khăn đó, nhiều đêm ông trăn trở phải đánh giặc cách nào cho hiệu quả. Và ý tưởng chế tạo bom mìn bằng chính vật liệu từ bom đạn của Mỹ đã hình thành trong ông từ những đêm trăn trở ấy.

Sau mỗi lần địch thả bom bi, có nhiều trái nhỏ sau khi bung ra từ “trái mẹ” song vẫn không nổ, ông tranh thủ lượm về, cùng với đồng đội tìm hiểu nguyên lý hoạt động của chúng và phát hiện ra rằng trái bom bi chưa nổ là do chưa đủ vòng quay. Sau đó, ông và đồng đội đã “chế” ra trái gài bằng cách bật nắp trái bom bi chưa nổ, điều chỉnh kim hoả, buộc dây kẽm bên ngoài, làm một cần bật rồi móc chỉ vào cần bật này (tuỳ theo địa hình để sợi chỉ dài 5-10m hoặc lớn hơn). Với trái gài này, khi có lực tác động vào sợi chỉ, cần bật sẽ bung ra, làm kim hoả chạm hạt nổ và trái bom bi sẽ nổ ngay. Sau đó, ông và đồng đội còn làm mìn gồm: Nguyên trái bom bi ở giữa, khối thuốc nổ, kẽm gai cắt nhỏ trộn xi măng xung quanh, gây sát thương rất lớn khi nổ. Ngoài ra, ông còn mày mò, chế tạo bệ phóng để phóng trái đánh tàu với sức công phá đủ đánh chìm tàu hàng trăm tấn…

Sau khi có vũ khí tự tạo, ông điều nghiên cứu kỹ quy luật đi càn quét của Mỹ, ngụy để tạo trận địa mìn liên hoàn, dày đặc. Cứ một trái mìn tự chế, ông lại đặt kèm theo gần đó cả chục trái gài. Có lần, ông và một đồng chí nằm dưới hầm bí mật sau một bụi tre, khi địch đến gần bụi tre, ông bật nắp hầm, quăng lựu đạn ngay. Bọn địch hoảng hốt tản ra, vấp ngay phải dây của trái gài thứ nhất, khiến trái gài nổ, làm mấy tên chết ngay tại chỗ. Hoảng loạn, chúng chạy thục mạng, tiếp tục vấp phải trái thứ hai rồi đến trái thứ ba. Tổng số 12 tên địch đã phải bỏ mạng vì thứ vũ khí tự chế của ông…

Từ thắng lợi ban đầu, diệt địch bằng chính bom đạn địch ấy, ông và đồng đội đã chế tạo được một số lượng lớn mìn, lựu đạn gài và bệ phóng đánh tàu chiến. Nhờ những loại vũ khí lợi hại đó nên mặc dù lực lượng của ta ở ngay sát nách địch, ngày ngày khiến địch chết và bị thương mà chúng không thể tìm ra nơi quân ta phục kích. Chẳng thế mà ngày ấy địch hay nói câu cửa miệng “Không đụng độ “Việt Cộng” mà vẫn đầu rơi máu chảy”.

* Đánh giặc bằng mìn gạt

Cựu chiến binh, Trung tá Tô Hoài Đức ở Củ Chi chính là người sáng tạo ra loại vũ khí: Mìn gạt. Ông sớm giác ngộ cách mạng, tham gia du kích từ khi mới 13 tuổi (năm 1960) và hai năm sau nhập ngũ trực tiếp chiến đấu. Tháng 9/1967, ông vinh dự được phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân. Ông được biết đến như người có “biệt tài” sáng chế vũ khí. Ban đầu, ông mượn cán bộ quân giới hai trái mìn cán của Liên Xô về tìm hiểu, sau đó mang đi đánh thử xe tăng. Tuy nhiên, nhược điểm của loại mìn này là khi xe tăng cán lên mới gây nổ. Ông bèn tìm cách dùng thuốc từ những trái đạn, quả bom chưa nổ để làm mìn đánh xe tăng, “chế” bộ điểm hỏa gắn vào và chừa một lỗ nhỏ để cắm chiếc que dài. Làm xong, ông mang mìn đi cài đánh thử và đánh thắng ngay lần đầu. Loại mìn này chỉ cần xe tăng chạy qua, “gạt” nhẹ vào chiếc que là nổ ngay.

Từ đó quân và dân Củ Chi dùng mìn “gạt” để đánh xe tăng, tàu chiến Mỹ và cả lính bộ binh đi càn, máy bay đổ bộ nữa,…Chỉ cần biết được những vị trí địch có thể tập trung quân, máy bay có thể đổ quân, cài sẵn mìn ở đó và chờ kết quả. Hiệu quả của mìn “gạt” giúp quân và dân Củ Chi càng hăng hái thi đua giết giặc, đánh xe tăng địch.

* Đánh giặc bằng độc Ch’pơơr

Ch’pơơr là một loại cây rừng, thường mọc ở những vùng núi cao dọc các thượng nguồn sông suối, thác ghềnh. Mủ cây Ch’pơơr được người Cơtu chứa trong một chiếc lá, sau một quá trình thêm thắt các nguyên vật liệu (như nọc rắn, bồ hóng ở dưới bếp hay mủ cây sơn) thì được nấu kĩ, phơi sương được cô đặc lại; mất gần 2 ngày mới có thể làm được Ch’pơơr. Loại kịch độc này được dùng để phết lên đầu mũi tên để đi săn là chủ yếu. Không những giúp đồng bào Cơtu trong việc săn bắn, tự vệ, mà kịch độc Ch’pơơr còn làm nên những chiến thắng lẫy lừng của người Cơtu trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.

Kịch độc Ch’pơơr đã giúp dân làng Cơtu giết thú dữ và làm nên những chiến thắng lẫy lừng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, ngày nay chiến tranh đã kết thúc, thú dữ cũng không còn nhưng đồng bào Cơtu vẫn giữ gìn bí quyết chế tác Ch’pơơr để thể hiện sự trân trọng tổ tiên.

Những loại vũ khí tự chế như hầm chông, tổ ong, súng ngựa trời, giàn thun bắn lựu đạn, mìn gạt, trái nổ,…và nhiều loại vũ khí khác như mìn xi măng, mìn tĩnh nước mắm, mìn chông, dao, búa, mã tấu, súng tự tạo,…đã thể hiện được mưu trí sáng tạo của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Quân đội Mỹ hùng mạnh với những vũ khí tối tân hiện đại nhưng phải khiếp sợ trước những vũ khí tự chế của quân và dân Việt Nam. Những vũ khí ấy đã góp phần cho thắng lợi của toàn dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến tranh giữ nước, viết thêm cho lịch sử hào hùng của một dân tộc anh hùng. Là thanh niên của thế hệ Hồ Chí Minh, chúng ta cần phải phát huy hơn nữa truyền thống yêu nước của dân tộc ta, thể hiện sự mưu trí, sáng tạo trong lao động, học tập. Tự hào với truyền thống vẻ vang của dân tộc cùng tiếp bước cha anh xây dựng chủ nghĩa xã hội, viết tiếp lịch sử hào hùng của dân tộc bằng những chiến công trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước./.

Xác định các biện pháp nghệ thuật a)Núi cao chi lắm núi ơiNúi che mặt trời chẳng thấy người thươngb) Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũCỏ đón giếng hai chim én gặp mùaNhư đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữaChiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưac) Đầu xanh có tội tình chi Má hồng đến quá nửa thì chưa thôiBiết thân chạy chẳng khỏi trờiCũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanhd) Thân em...
Đọc tiếp

Xác định các biện pháp nghệ thuật 

a)Núi cao chi lắm núi ơi

Núi che mặt trời chẳng thấy người thương

b) Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ

Cỏ đón giếng hai chim én gặp mùa

Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa

Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa

c) Đầu xanh có tội tình chi 

Má hồng đến quá nửa thì chưa thôi

Biết thân chạy chẳng khỏi trời

Cũng liều mặt phấn cho rồi ngày xanh

d) Thân em như dải lủa đào

Phất phơ giữa chợ bt vào tay ai

e) Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín.

g) Xe không có kính rồi xe cũng có đèn

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy về miền Nam phía trước

Chỉ còn trong xe có một trái tim

h) Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính 

1
26 tháng 8 2018

nhìu thế

26 tháng 8 2018

Nói đến từ thuần Việt, để dễ hình dung, dễ phân biệt, có thể lấy ví dụ các từ được gọi là Hán Việt (vd: giáo viên, đồng sự), Pháp Việt (vd: gác-ba-ga, ba-ri-e),... là những từ dùng tiếng Việt để viết theo ngôn ngữ đọc của ngôn ngữ khác; còn gọi là "đồng hóa" ngôn ngữ khác với ngôn ngữ bản địa (ở đây là tiếng Việt), thường xuất hiện khi trong từ điển ngôn ngữ bản địa không có từ tương ứng nghĩa, mà chỉ có từ viết "theo nghĩa hiểu", khi đó người ta sẽ dùng các từ có nguồn gốc ngoại lai kia. Từ thuần Việt là từ dùng tiếng Việt theo nghĩa "thuần", tương ứng các ví dụ trên có thể là người dạy học, người cùng làm, ghế ngồi sau xe, thanh chắn đường tàu,...

Hơn nữa, do được sử dụng nhiều trong sinh hoạt hàng ngày nên từ ngữ tiếng Việt thường có đặc điểm của từ ngữ giao tiếp đơn giản. Điều đó làm cho chúng không thể dùng để biểu thị các sắc thái nghĩa trang trọng hay khái quát. Tiếng Việt vay mượn một số từ ngữ ngôn ngữ ngoại lai khác, đặc biệt là tiếng Hán, có nghĩa cơ bản giống với từ tiếng Việt nhưng được bổ sung thêm một sắc thái nghĩa khác. Từ đó, xuất hiện những cặp từ đồng nghĩa, trong đó từ thuần Việt và từ Hán-Việt chỉ có sắc thái nghĩa khác nhau. Ví dụ một số cặp đôi từ Hán Việt - Từ thuần Việt: xuất huyết - chảy máu, từ trần - chết, thổ - nôn. Dễ nhận thấy, các từ thuần Việt trong ví dụ này cho cảm giác thô tục, ghê sợ hoặc đau đớn còn các từ Hán-Việt tạo cảm giác lịch sự, trung hòa. Đôi khi, từ Hán-Việt thường được sử dụng theo nghĩa trang trọng hơn từ thuần Việt, như hôn nhân - đám cưới, phụ nữ - đàn bà, phụ lão - người già.

Có thể kết luận, tiếng Việt có vay mượn các từ ngữ từ các ngôn ngũ khác để phục vụ cho hai mục đích chính:

  1. Bổ sung cho những từ còn thiếu, chưa từng có tiền lệ;
  2. Tạo ra một lớp từ có sắc thái nghĩa khác với từ đã có trong tiếng Việt.
26 tháng 8 2018

“Ba là cây nến vàng, mẹ là cây nến xanh, con là cây nến hồng, ba ngọn nến lung linh, thắp sáng một gia đình…” là một mái ấm gia đình trọn vẹn, hạnh phúc. Đối với một người thì mái ấm gia đình chính là nơi nuôi dưỡng tâm tuổi từ lúc sinh ra, trường thành. Nhưng với một số người thì gia đình chưa hẳn là nơi trọn vẹn và mong chờ để trở về.

Gia đình chính là một tế bào, là hạt nhân của xã hội. Gia đình có tròn vẹn, êm ấm, hạnh phúc thì xã hội mới văn minh, dân chủ. Gia đình chính là cái nôi đón nhận tiếng khóc chào đời của bạn, nơi có cha, có mẹ, có ông bà, có anh chị em, là những người thân ruột thịt đùm bọc, yêu thương nhau.

Nền tảng gia đình đối với mỗi người vô cùng quan trọng, chúng ta học được những bài học đầu tiên từ chính gia đình. Ba mẹ chính là những người thầy, người cô tập đánh vần chữ “o”, “ô”…cho con trẻ. Những bước chân chập chững đầu đời với vô vàn vết xước do ngã ở chân. Chỉ có gia đình,chỉ có người thân mới có thể bao bọc, yêu thương bạn một cách vô điều kiện và trọn vẹn nhất. Họ có thể sẵn sàng hi sinh rất nhiều thứ, tuổi thanh xuân, những nhọc nhằn vì sự khôn lớn, vì bữa cơm, giấc ngủ của những người con. Gia đình chính là nơi tuyệt vời nhất mà chúng ta có thể trao đi yêu thương không hề toan tính, đắn đo.

Có một gia đình hạnh phúc, ấm êm, có bàn tay mẹ nấu từng bữa cơm mỗi ngày; có nụ cười thật hiền lành, ấm áp của ba sau một ngày làm việc mệt nhọc. Có những giây phút quây quần bên nhau kể cho nhau nghe những điều hay, ý đẹp.

Để xây dựng một mái ấm gia đình hạnh phúc, không chỉ là sự nỗ lực, cố gắng của ba mẹ mà còn là của những đứa con. Không thể một người xây và một người phá, như thế sẽ không thể tạo nên sự bền vững trong tình yêu thương. Những vết rạn nứt luôn hiện hữu quanh đây và có thể sụp đổ bất cứ lúc nào không hay.

Chúng ta cùng chung sống dưới một mái nhà, chung một yêu thương và chung một nhịp đập vì sự trọn vẹn, hạnh phúc của gia đình. Những đứa con có sự bảo ban, răn dạy nghiêm khắc nhưng chan chứa nghĩa tình của ba mẹ là điều tuyệt vời nhất.

Mái ấm gia đình chính là nơi nhiều mong ngóng và đợi chờ, nơi trở về sau những năm tháng bôn ba nơi phương trời xa. Đó chính là nhà, là nơi dù có bất cứ chuyện gì xảy ra thì cũng bao dung và rộng lượng đón nhận và sẵn sàng tha thứ.

Tuy nhiên xã hội còn tồn tại rất nhiều mảnh đời khát khao mong muốn có một mái ấm gia đình bình dị như bao người khác nhưng không được. Những đứa trẻ mồ côi, lang thang đầu đường xó chợ kiếm ăn hằng ngày đôi mắt ngấn lệ khi nhìn vào một ngôi nhà có ánh điện sang trưng, có tiếng cười con trẻ, có giọng nói ấm áp mẹ cha. Điều ước nhỏ nhoi, giản dị ấy các em không bao giờ có được. Vì ba mẹ đã bỏ em mà đi,vì tình yêu thương đó vốn dĩ em không có phúc để hưởng.

Mặc dù có những nơi nhận nuôi trẻ mồ côi, lang thang nhưng nơi đó chưa thể là một mái ấm thực sự mà các em vẫn mong muốn. Song khi tình yêu thương của các bà, các mẹ ở mái ấm tình thương đó đủ sức khiến cho các em bớt mặc cảm tự ti thì các em sẽ nhận ra rằng mái ấm gia đình không chỉ có ba mẹ mới hạnh phúc. Những người dưng vẫn có thể mang lại hạnh phúc và sự bình yên đến cho nhau. Đó chính là lòng yêu thương, san sẻ và đồng lòng.

Xã hội cần có chính sách phù hợp nhất để có thể mang lại cho các em một mái ấm gia đình thực sự, để các em có thể thoát khỏi mặc cảm, tự ti, hòa nhập với cộng đồng cùng xây dựng tương lai bền vững nhất.

Chúng ta ai cũng cần yêu thương, cần san sẻ, đó là một truyền thống quý báu của dân tộc ta từ xưa đến nay.

Hãy mở lòng để tạo những mái ấm thực sự cho các em thiếu thốn tình yêu thương. Những gia đình đang có một nền tảng vững chắc thì nên chăm sóc, gìn giữ và phát triển hơn nữa.

4 tháng 10 2018

bài của nhock lạnh lùng rất hay nhưng có vẻ k liên quan lắm nhỉ ?

26 tháng 8 2018
  • Về việc kết duyên của Lạc Long Quân cùng Âu Cơ và chuyện Âu Cơ sinh nở có nhiều điều kì lạ. Một vị thần sống dưới nước đem lòng yêu thương và kết duyên cùng một người thuộc dòng họ Thần Nông ở trên núi cao. Ít lâu sau, Âu Cơ sinh nở không phải có mang và sinh ra một bọc trứng, sau đó mới nở ra 100 con. Lạc Long Quân và Âu Cơ chia đôi mỗi người 50 con theo mẹ lên chốn non cao, 50 người con theo cha về ven biển để chiếm lĩnh các vùng đất, mở rộng nơi cư trú, làm ăn, để cho gia đình tương lai thành dân tộc, đất nước. Đặc biệt có việc gì (chiến tranh, thiên tai…) thì giúp đỡ lẫn nhau dễ hơn.
  • Theo truyện ngày thì người Việt Nam ta là con cháu của vị thần nòi Rồng là Lạc Long Quân và của bà Âu cơ nòi giống Tiên. Nguồn gốc này rất cao quý và đáng tự hào. 
26 tháng 8 2018

D = 1.2 + 2.3 + 3.4 + ...+ 99.100

=> 3D = 1.2.3 + 2.3.3 + 3.4.3 + ...+ 99.100.3

3D = 1.2.3 + 2.3.(4-1) + 3.4.(5-2) + ...+ 99.100.(101-98)

3D = 1.2.3+2.3.4-1.2.3+3.4.5-2.3.4+...+99.100.101-98.99.100

3D = 99.100.101

D = 99.100.101:3

D = 333 300

26 tháng 8 2018

 D= 1.2+2.3 +.......+99.100

3D= 1.2.3+2.3.4+3.4.3 +......+ 99.100.3

3D= 1.2. (3 - 0) + 2.3.(4 - 1) +3.4. (5 - 2)....... . 99.100. (101 - 98)

3D = (1.2.3 + 2.3.4 + 3.4.5 +...... + 99.100.101) - (0.1.2 + 1.2.3 + 2.3.4 +.......+ 98.99.100)

3D = 99.100.101 - 0.1.2

3D = 999900 - 0

3D= 999900

D= 999900 : 3

D = 333300