K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 9 2021

Gấu trúc ao ước được chụp ảnh màu, vì gấu trúc chỉ có 2 màu đen trắng, nên chỉ mong có một tấm ảnh màu mà không có được, vẫn mãi chỉ là đen trắng mà thôi :)

18 tháng 9 2021

ko béo :)

18 tháng 9 2021

Chiếc nón lá từ lâu đời đã gắn bó và trở thành một biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam theo bề dày hàng nghìn năm lịch sử. Để làm nên một chiếc nón đòi hỏi người thợ phải thật tỉ mỉ và tinh tế. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu về quy trình cũng như những thông tin về chiếc nón thông qua bài văn mẫu này nhé.

Chiếc nón lá có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón lá đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịch vào khoảng 2500 – 3000 năm trước công nguyên. Từ xa xưa, nón lá đã hiện diện trong đời sống hằng ngày của người và gắn liền với hình ảnh người phụ nữ Việt Nam. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, chiếc nón lá và nghề chằm nón vẫn được duy trì, gắn bó và tồn tại đến ngày nay.

Ở nước ta, nón lá được làm chủ yếu bằng nghề thủ công. Để làm nên một chiếc nón hoàn chính và đẹp đẽ, người thợ phải trải qua rất nhiều công đoạn khác nhau đòi hỏi sự tỉ mỉ, cần mẫn, khéo léo. Đầu tiên, họ phải chọn ra những chiếc lá đều nhau, có chất liệu và màu sắc tương đối giống nhau. Nón được làm chủ yếu từ lá cọ, lá dừa. Người thợ phải chế biến lá thật kĩ càng để lá đạt đến một độ dẻo dai nhất định phục vụ quá trình đan lát. Sau bước chọn lá, người thợ tiến hành chọn chất liệu làm khung nón, thường khung nón được làm bằng tre, trúc. Người ta tỉ mỉ chuốt từng thanh tre, trúc thành những chiếc que rất nhỏ (to hơn chiếc tăm một chút) và có chiều dài to nhỏ khác nhau; sau đó người ta uốn cong thanh tre đấy thành vòng tròn và dùng một sợi chỉ thật chắc chắn để buộc cố định lại. Người ta lấy một thanh tre cứng hơn sau đó sắp xếp những vòng tròn từ nhỏ đến lớn thành hình chóp nón, mỗi vòng cách nhau từ 3 - 5cm để làm khung nón. Sau khi làm khung xong, người ta tiến hành đan nón. Những sợi lá dừa, lá cọ được đan khéo léo quanh chiếc khung và buộc chúng vào khung bằng sợi chỉ màu sắc. Bên trong chiếc nón thường được thiết kế để buộc chiếc quai. Quai nón là một mảnh vải làm bằng lụa, von,… có màu sắc khác nhau để cho chiếc nón thêm tươi đẹp. Bên trong nón, người ta thường khắc lên những bài thơ, những bài ca dao thơ mộng và đó cũng là tiền đề ra đời “chiếc nón bài thơ”. Phần bên ngoài người ta bọc lá dứa, lá cọ lại bằng một lớp nilong trong suốt để bảo vệ, tránh làm rách lá hoặc hư hại lá do tiếp xúc với ánh nắng mà vẫn giữ được vẻ đẹp, tính thẩm mĩ cho chiếc nón.

Ở Việt Nam có làng nghề làm nón ở Huế vô cùng nổi tiếng, thu hút nhiều khách du lịch. Những chiếc nón lá trải đi khắp nẻo đường và trở thành thân quen trong đời sống thường nhật của người phụ nữ. Chiếc nón lá không chỉ là vật dụng thiết thân, người bạn thủy chung với người lao động dùng để đội đầu che mưa, che nắng khi ra đồng, đi chợ, là chiếc quạt xua đi những giọt mồ hôi dưới nắng hè gay gắt mà còn là vật làm duyên, tăng nét nữ tính của người phụ nữ. Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay tán thưởng của khán giả.

Ở Việt Nam hiện nay có nhiều loại nón khác nhau: nón quai thao, nón dấu, nón ngựa, nón thúng,…mỗi loại nón có đặc điểm và cấu tạo khác nhau nhưng cùng mang đặc điểm điểm tô cho người phụ nữ, cho cuộc đời thêm xinh đẹp hơn. Muốn nón lá được bền lâu, chúng ta nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa. Nếu đi mưa về thì lau khô và phơi nón ở chỗ mát. Sau khi sử dụng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng sẽ khiến nón nhanh hỏng hơn đồng thời mất đi tính thẩm mĩ.

Nón lá từ lâu đã đi vào thơ ca, gắn liền với nhiều thế hệ con người Việt Nam và xuất hiện trong những dịp đặc biệt như: đám cưới,… nó trở thành một nét đẹp mà bất cứ du khách nào ghé đến Việt Nam cũng phải trầm trồ, suýt xoa. Dù cho đất nước, xã hội ngày càng phát triển thế nào thì chiếc nón vẫn luôn giữ vững giá trị tốt đẹp của nó và mãi là người bạn thân thiết của chúng ta.

18 tháng 9 2021

"Sao anh không về thăm quê em
Ngắm em chằm nón buổi đầu tiên
Bàn tay xây lá, tay xuyên nón
Mười sáu vành, mười sáu trăng lên"

(Bài thơ đan nón – Nguyễn Khoa Điềm)

Đã từ lâu chiếc nón lá đã đi vào nhiều bài thơ, bài ca Việt Nam và trở thành biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam. Vẻ thanh mảnh, nhẹ nhàng của chiếc nón bài thơ, cùng với tá áo dài bay trong gió đã làm tôn lên vẻ đẹp của người con gái.

Cách 3:

"Người xứ Huế yêu thơ và nhạc lễ
Tà áo dài trắng nhẹ nhàng bay
Nón bài thơ e lệ trong tay
Thầm bước lặng, những khi trời dịu nắng"

Ai đã từng qua miền Trung nắng lửa không thể không biết đến nón bài thơ xứ Huế. Chiếc nón lá ấy đã trở thành biểu tượng văn hóa của một vùng đất nhiều truyền thống. Và cũng từ lâu, chiếc nón lá trở thành biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam. Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam với chiếc nón lá nhẹ nhàng và tà áo dài tha thướt đã đi vào thơ ca, nhạc họa của biết bao thế hệ.

Thân Bài:

1/ Nguồn gốc chiếc nón lá Việt Nam:

Chiếc nón lá có lịch sử rất lâu đời. Hình ảnh tiền thân của chiếc nón lá đã được chạm khắc trên trống đồng Ngọc Lữ, thạp đồng Đào Thịch vào khoảng 2500 – 3000 năm trước công nguyên.

Từ xa xưa, nón lá đã hiện diện trong đời sống hằng ngày của người Việt Nam trong cuộc chiến đấu giữ nước, qua nhiều chuyện kể và tiểu thuyết. Trải qua những năm tháng chiến tranh ác liệt, nghề chằm nón vẫn được duy trì và tồn tại đến ngày nay. Ở Huế hiện nay có một số làng nghề chằm nón truyền thống như làng Đồng Di (Phú Vang), Dạ Lê (Hương Thủy) đặc biệt là làng nón Phủ Cam (Huế),..Những làng nghề này đã tạo ra các sản phẩm công phu cũng là một trong những điểm thu hút khách du lịch.

2/ Nguyên vật liệu, cách làm nón lá Việt Nam:

a/ Chọn lá, sấy lá, ủi lá:

Để làm được một chiếc nón lá đẹp, người làm nón phải tỉ mỉ từ khâu chọn lá, phơi lá, chọn chỉ đến độ tinh xảo trong từng đường kim mũi chỉ. Lá có thể dùng lá dừa hoặc lá cọ.

  • Lá dừa: để có được lá dừa làm nón phải mua từ trong Nam. Lá chuyển về chỉ là lá thô. Để lá có độ bền về thời gian cũng như màu sắc phải chọn lọc, phân loại lá và đem xử lí qua lưu huỳnh. Dẫu chọn lá có công phu nhưng nón làm bằng lá dừa vẫn không thể tinh xảo và đẹp bằng nón làm bằng lá cọ.
  • Lá cọ: làm nón bằng lá cọ phải công phu hơn, lá phải non vừa độ, gân lá phải xanh, màu lá phải trắng xanh. Nếu lá trắng và gân lá cũng trắng thì lá đã già làm nón không đẹp. Một chiếc nón đạt tiêu chuẩn phải có màu trắng xanh với những gân lá vẫn còn màu xanh nhẹ, mặt lá phải bóng, khi nón đan lên phải nổi những gân lá màu xanh đẹp mắt. Để đạt được tiêu chuẩn ấy thì phải tuân thủ đúng quy trình. Sấy khô phải đúng kĩ thuật, sấy trên bếp than (không phơi nắng). Sau đó lại phải phơi sương tiếp từ 2 đến 4 giờ cho lá mềm. Rồi dùng một búi vải và một miếng gang đặt trên bếp than có độ nóng vừa phải để ủi sao cho từng chiếc lá được phẳng. Mỗi chiếc lá đều được chọn lựa kĩ càng và cắt với cùng độ dài là 50cm (lá cọ).

b/ Chuốc vành, lên khung lá, xếp nón:

Với cây mác sắt, người thợ làm nón (thường là đàn ông làm ở khâu này) chuốt từng nan tre sao cho tròn đều và có đường kính rất nhỏ, thường chỉ nhỉnh hơn đường kính que tăm một chút. Sau đó uốn những nan tre này thành những vòng tròn thật tròn đều và bóng bẩy từ nhỏ đến lớn. Mỗi cái nón sẽ cần 16 nan tre uốn thành vòng tròn này đặt từ nhỏ đến lớn vào một cái khung bằng gỗ có hình chóp. Sau đó người thợ sẽ xếp lá lên khung, người xếp lá phải khéo và đều tay không để các phiến lá chồng lên nhau hay xô lệch.

Kể về quá trình làm nón lá mà không kể đến nón bài thơ xứ Huế là một thiếu xót. Đặc biệt nón bài thơ của xứ Huế rất mỏng vì chỉ có hai lớp: lớp lá trong gồm 20 lá, lớp lá ngoài cùng gồm 30 lá và lớp bài thơ được đặt nằm ở giữa. Khi xây lá lợp lá, người thợ phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau nhiều lớp hay xô lệch để nón đạt được sự thanh và mỏng. Khi soi lên ánh nắng, ta đọc được bài thơ, nhìn thấy rõ hình cầu Tràng Tiền hay chùa Thiên Mụ. Chính những chi tiết này đã tạo nên nét đặc trưng cho nón bài thơ xứ Huế.

c/ Chằm nón:

Sau khi xếp lá cho đều và ngay ngắn lên vành, người ta bắt đầu chằm nón. Nón được chằm bằng sợi nilông dẻo, dai, săn chắc và phải có màu trắng trong suốt. Các lá nón không được xộc xệch, đường kim mũi chỉ phải đều tăm tắp. Khi nón đã chằm hoàn tất người ta đính thêm vào chớp nón một cái "xoài" được làm bằng chỉ bóng láng để làm duyên cho chiếc nón. Sau đó mới phủ lên nón lớp dầu nhiều lần, phơi đủ nắng để nón vừa đẹp vừa bền.

Ở vòng tròn lớn bằng nan tre dưới đáy hình chóp, khoảng nan thứ ba và thứ tư, người thợ sẽ dùng chỉ kết đối xứng hai bên để buộc quai. Quai nón thường được làm bằng lụa, the, nhung,...với màu sắc tươi tắn như tím, hồng đào, xanh thiên lí,..càng làm tăng thêm nét duyên cho người đội nón.

Chiếc nón đẹp không chỉ ở đường kim, mũi chỉ mà còn ở dáng nón. Chiếc nón còn đẹp bởi đây là sản phẩm đặc trưng mang nét văn hóa truyền thống được tạo nên bởi đôi tay khéo léo của những người thợ ở các làng nghề.

3/ Công dụng:

Từ làng Chuông ở Tây Hồ đến Ba Đồn những chiếc nón lá trải đi khắp nẻo đường và trở thành thân quen trong đời sống thường nhật của người phụ nữ. Chiếc nón lá không chỉ là vật dụng thiết thân, người bạn thủy chung với người lao động dùng để đội đầu che mưa, che nắng khi ra đồng, đi chợ, là chiếc quạt xua đi những giọt mồ hôi dưới nắng hè gay gắt mà còn là vật làm duyên, tăng nét nữ tính của người phụ nữ. Buổi tan trường, hình ảnh những cô nữ sinh với tà áo trắng tinh khôi, nghiêng nghiêng dưới vành nón lá là lúm đồng tiền làm duyên đã làm say lòng, là cảm hứng nghệ thuật của bao văn nhân, nghệ sĩ,...

Trong nghệ thuật, tiết mục múa nón của các cô gái với chiếc áo dài duyên dáng thể hiện nét dịu dàng, mềm mại kín đáo của người phụ nữ Việt Nam đã nhiều lần xuất hiện và đều nhận được những tràng pháo tay tán thưởng của khán giả.

4/ Bảo quản:

Muốn nón lá được bền lâu chỉ nên đội khi trời nắng, tránh đi mưa. Sau khi dùng nên cất vào chỗ bóng râm, không phơi ngoài nắng sẽ làm cong vành, lá nón giòn và ố vàng làm làm mất tính thẩm mĩ và giảm tuổi thọ của nón.

Kết Bài:

  • Chiếc nón lá là biểu tượng của phụ nữ Việt Nam, là một sản phẩm truyền thống và phổ biến trên khắp mọi miền đất nước.
  • Nhiều người Việt xa nước, nơi đất khách quê người trông thấy hình ảnh chiếc nón lá họ có cảm giác quê hương đang hiện ra trước mắt.

Nón lá là hình ảnh bình dị, thân quen gắn liền với tà áo dài truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Từ xưa đến nay, nhắc đến Việt Nam du khách nước ngoài vẫn thường trầm trồ khen ngợi hình ảnh chiếc nón lá – tượng trưng cho sự thanh tao của người phụ nữ Việt. Nón lá đã đi vào ca dao, dân ca và làm nên văn hóa tinh thần lâu đời của Việt Nam.

18 tháng 9 2021
Á đùtggvvvvvvv
18 tháng 9 2021

1. Văn thuyết minh: kiểu văn bản cung cấp tri thức về đặc điểm, tính chất, nguyên nhân của sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội bằng phương thức trình bày, giới thiệu, giải thích

- Đặc điểm chủ yếu: trình bày các đặc điểm tiêu biểu của sự vật, hiện tượng

- Tính chất: cung cấp những tri thức khách quan, xác thực, phổ thông, hữu ích cho con người.

- Các phương thức thuyết minh thường dùng:

    + Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích

    + Phương pháp liệt kê, phân tích

    + Phương pháp nêu ví dụ, dùng số liệu

2. Văn bản thuyết minh có sử dụng một số biện pháp nghệ thuật

Văn bản “Hạ Long- đá và nước”

Little Dinosaur Go To Underground Dinosaurs Family

FEATURED BY

a, Thuyết minh về vẻ đẹp của đá, nước ở Hạ Long

- Đặc điểm này trừu tượng, khó thuyết minh bằng cách đo đếm, liệt kê

b, Phương pháp thuyết minh:

- Phương pháp nêu định nghĩa

- Phương pháp giải thích

- Phương pháp liệt kê

Câu văn nêu khái quát sự kì lạ của Hạ Long: “Chính Nước làm cho Đá sống dậy… có tâm hồn”

c, Để cho sinh động, tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật:

- Biện pháp liên tưởng, tưởng tượng thế giới diệu kì của Hạ Long

    + Nước tạo nên sự di chuyển, tạo nên thú vị của cảnh sắc

    + Tùy theo góc độ, tốc độ di chuyển của khách, tùy theo hướng ánh sáng soi rọi vào đảo đá mà thiên nhiên tạo nên thế giới sống động, biến hóa lạ lùng

- Biện pháp nhân hóa:

    + Đá có tri giác, có tâm hồn

    + Gọi đá là thập loại chúng sinh, thế giới người, bọn người đá hối hả trở về

→ Làm nổi bật đặc điểm của đối tượng, gây ấn tượng mạnh, thu hút người đọc

II. Luyện tập

Câu 1 (trang 13 sgk ngữ văn 9 tập 1)

a.

Văn bản có tính thuyết minh:

- Thể hiện ở việc giới thiệu về loài ruồi có hệ thống:

    + Tính chất chung về họ, giống, loài

    + Tập tính sinh sống: sinh đẻ, đặc điểm cơ thể…

    + Cung cấp những kiến thức đáng tin cậy về loài ruồi: giữ gìn vệ sinh, phòng bệnh, ý thức diệt ruồi

- Những phương pháp thuyết minh được sử dụng:

    + Nêu định nghĩa: thuộc họ côn trùng, hai cánh, mắt lưới

    + Phương pháp phân loại: các loại ruồi

    + Phương pháp dùng số liệu: số vi khuẩn, số lượng sinh sản

    + Phương pháp liệt kê: các đặc tính của ruồi

b, Nét đặc biệt:

    + Hình thức: giống văn bản thuật lại phiên tòa

    + Nội dung: giống chuyện kể về loài ruồi

- Những biện nghệ thuật:

    + Nhân hóa

    + Liệt kê

- Tác dụng gây hứng thú cho bạn đọc nhỏ tuổi, vừa truyện vui vừa cung cấp thêm tri thức.

Biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong đoạn văn thuyết minh là: tự sự

    + Kể câu chuyện ngày bé bà kể về chim cú (chim cú kêu là có ma tới). Sau này được học môn sinh vật mới biết không phải như vậy.

23 tháng 9 2021

Su khi đẻ trứng ,cô Gà Mái Mơ lại nằm ấp ổ trứng suốt gần một tháng.Đến khi đàn gà con nở .Vàng bung như vườn hoa cúc. Mái Mơ trở nên tiều tụy,áo váy xác xơ.Lại còn lắm điều lắm lời .Lũ gà con yêu mẹ lắm .Suốt ngày ,chúng cứ quẩn quanh bên chân mẹ.

                                                      bạn chụp không rõ cho nên cái chỗ áo váy hay áo vây mình nhìn là áo váy 

hihi

18 tháng 9 2021

Quả thực, văn bản " Tôi đi học" đã gợi lại hồi ức từ buổi tựu trường đầu tiên. Trong văn bản trên, những hình ảnh so sánh đã được tác giả sử dụng để miêu tả những tâm trạng của các em nhỏ và tâm trạng của tác giả. Câu : "họ như con chim con đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ" đã cho thấy 'họ' ở đây chính là mấy cậu học trò bỡ ngỡ, e sợ. CŨng giống như những chú chim non đứng bên bờ tổ, bỡ ngỡ muốn cất cánh bay trên quãng trời mênh mông như những chú chim khác. Nhưng nó vẫn có cảm giác lo lắng bởi chăng nó chưa quen với môi trường sống nơi đây hay là nó ko dám đối mặt với khó khăn phía trước. Mấy cậu học trò cũng vậy, họ còn quá xa lạ với mọi thứ xung quanh. Nhưng được sự an ủi của ông đốc, họ cũng phần nào quên đi cái cảm giác ấy. Nhưng chính vì những cảm giác ấy lại chính là những yếu tố giúp chúng ta nhớ mãi. Để khi nhớ lại thì nó là kỉ niệm đẹp. Dù đã 30 tuổi, nhưng ông vẫn nhớ như in cái buổi tựu trường. Các hình ảnh so sánh đã thêm phần sinh động, thú vị hấp dấn và lôi cuốn người đọc.

18 tháng 9 2021

Văn bản Tôi đi học của tác giả Thanh Tịnh là một văn bản hay, một văn bản đẹp. Hay bởi ý nghĩa, đẹp bởi từ ngữ. Góp một phần không nhỏ làm nên thành công chung của văn bản chính là sự thành công về nghệ thuật. Trong đó, không thể không để đến những hình ảnh so sánh trong văn bản rất giàu giá trị biểu cảm, góp phần tạo nên nội dung ý nghĩa của văn bản.

Ngay từ phần đầu tiên của văn bản, theo dòng cảm xúc của nhân vật tôi, hình ảnh về buổi tựu trường đã in đậm trong tâm trí của đứa con "Tôi không thể nào quên được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng". Tâm hồn trong sáng của cậu bé ngày đầu tiên đi học, bước vào lớp một thật nhẹ nhàng, thật khác lạ. Hôm nay cậu đi học, hôm nay cậu có sự thay đổi lớn. Sự thay đổi ấy tích cực, thật đẹp như những cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời. Khi ý nghĩ của cậu bé nhỏ chợt lướt qua khi nhìn thấy các bạn học sinh khác cầm bút thước như một người lớn "Ý nghĩ thoáng qua trong trí tôi nhẹ nhàng như một làn mây lướt ngang trên ngọn núi". Hình ảnh so sánh này cũng rất thú vị, đặc biệt. Đọc câu văn khiến người đọc có một cảm giác nhẹ nhàng, thư thái về những hình dung đầy chất thơ trong suy nghĩ của cậu bé nhỏ. Khi quan sát các bạn học sinh cùng trang lứa với mình, nhân vật tôi có suy nghĩ trong đầu "Họ như con chim con đứng trên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ. Họ thèm vụng và ước ao thầm được như những học trò cũ, biết lớp, biết thầy để khỏi phải rụt rè trong cảnh lạ". Cậu bé quan sát những người bạn học cùng như những chú chim nhỏ đang sắp phải rời khỏi tổ. Nhưng cảm xúc nhẹ nhàng, tinh tế khi những chú chim ấy muốn cất cánh bay nhưng còn ngập ngừng e sợ, nhút nhát, nửa chưa muốn nửa muốn bay khỏi tổ để đến những chân trời mới. Hình ảnh so sánh ấy thật đẹp, thật giàu sức gợi. Những hình ảnh so sánh trong văn bản được tác giả ghi lại ở những thời điểm khác nhau theo dòng cảm xúc của nhân vật, khi thì gắn liền với tâm trạng cậu bé trước khi đến trường, khi đến trường hay khi đã vào lớp học. Tuy nhiên, tất cả hình ảnh ấy đều thể hiện tài năng của tác giả Thanh Tịnh. Các hình ảnh so sánh cũng rất đỗi đẹp, rất đỗi hay, tinh tế vô cùng. Những hình ảnh cánh hoa tươi, làn mây, con chim non...tạo nên sự gợi hình, gợi cảm cao cho văn bản. Nhờ đó, dòng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật tôi được thể hiện rõ ràng hơn bao giờ hết.

18 tháng 9 2021

Hoa lựu nở đầu hè

Như những đốm lửa nhỏ

18 tháng 9 2021

Có thể nhận thấy được chính những điều đã gợi lên trong lòng nhân vật “tôi” như cũng đã kỉ niệm về buổi tựu trường đầu tiên: Khi mà thời tiết cuối thu, lá rụng ngoài đường nhiều thế rồi cũng trên không có những đám mây bàng bạc.

– Thế rồi những kỉ niệm được diễn tả theo trình tự thời gian thật đẹp biết bao nhiêu

+ Có thể nhận thấy được cũng chính từ hiện tại hồi tưởng về quá khứ: Lúc này đay cũng là đang độ tiết trời cuối thu, có các hình ảnh em nhỏ tới trường.

+ Chính những dòng hồi tưởng của nhân vật “tôi” dường như cũng nói về con đường cùng mẹ tới trường

+ Chính những cảm giác nhân vật “tôi” mà khi nhìn thấy ngôi trường trong ngày khai giảng được tác giả thể hiện rất rõ nét.

+ Không những thế mà tác giả cũng lại còn diễn tả được một tâm trạng hồi hộp của nhân vật “tôi” khi mà nhân vật vào ngồi vào chỗ của mình trong giờ học đầu tiên.

Ai trong số người học sinh chúng ta đều có cho mình kỉ niệm về buổi tựu trường đầu tiên, đó mãi là những kỉ niệm đẹp nhất, sâu sắc và in đậm nhất trong tâm trí mỗi người. Nhà văn Thanh Tịnh - một nhà văn trữ tình với những vẻ đẹp đằm thắm, êm dịu và trong trẻo đã mang đến cho chúng ta truyện ngắn "Tôi đi học" (in trong tập "Quê mẹ"), người đọc như được sống lại với chính kỉ niệm của mình với tâm trạng hồi hộp, cảm giác bỡ ngỡ của nhân vật "tôi" trong buổi tựu trường đầu tiên.

Nhân vật "tôi" nhớ lại kỉ niệm mơn man của buổi tựu trường và gọi đó là "những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng". Tiết trời cuối thu đặc trưng với những buổi sáng dày sương và gió heo may lạnh, cậu bé được mẹ âu yếm dắt tay đi trên con đường làng tới trường dự buổi tựu trường đầu tiên. Bước đi trên con đường quen thuộc nhưng nhân vật "tôi" lại cảm nhận được những thay đổi lớn, cảm thấy bản thân mình đã lớn, đã chững chạc và đứng đắn hơn, "cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự thay đổi lớn", "trong chiếc áo vải dù đen dài tôi cảm thấy mình trang trọng và đứng đắn".

Cậu nhìn những cậu nhỏ khác nhí nhảnh trao sách vở cho nhau xem mà "thèm", đó là nỗi khao khát của một cậu bé cũng có sách vở mới nhưng chưa có bạn, cậu cẩn thận và nâng niu giữ chặt hai quyển vở mới của mình. Bước vào trong sân trường, nhân vật "tôi" có phần ngỡ ngàng trước cảnh tượng "dày đặc cả người" bởi cậu nhớ lại lần cậu ghé trường "trước mắt tôi trường Mĩ Lí trông vừa xinh xắn vừa oai nghiêm như cái đình làng Hòa Ấp...". Trước khung cảnh có phần khác lạ ấy, cậu bé đâm ra lo sợ những nỗi sợ vẩn vơ, cùng với sự bỡ ngỡ cậu trở nên rụt rè, khép nép bên người thân "chỉ dám nhìn một nửa hay dám đi từng bước nhẹ".

Nỗi lo lắng, e dè và lo sợ của cậu khiến cậu ước muốn được là những người học sinh cũ, đã quen thầy, quen trường và quen lớp không còn rụt rè trước cảnh xa lạ như bây giờ. Cậu cảm thấy những người học trò mới "như con chim con đứng bên bờ tổ, nhìn quãng trời rộng muốn bay, nhưng còn ngập ngừng e sợ". Tâm trạng bơ vơ, lạc lõng và lúng túng nhất chính là lúc nhân vật "tôi" nghe tiếng trống vào lớp, khi xung quanh các học sinh cũ đã xếp hàng vào lớp cả thì các học trò mới như cậu không đi, không biết đi và không muốn đi "hai chân các cậu cứ dềnh dàng mãi. Hết co lên một chân, các cậu lại duỗi như đá một quả banh tưởng tượng".

Nghe tiếng đọc tên của ông đốc mà cậu bé cảm thấy "quả tim tôi ngừng đập", "quên cả mẹ tôi đứng sau", khi nghe đến tên lại giật mình lúng túng, quả thực đó chính là những phản xạ tự nhiên vô điều kiện đã xảy đến với cậu. Tuy có phần nhút nhát và lo sợ nhưng cậu vẫn cảm nhận được sự hiền từ và tận tình của ông đốc, đã vơi đi phần nào sự bỡ ngỡ với trường với thầy. Bước đến lớp, dường như bước đi của cậu không hề theo ý muốn "người tôi lúc ấy tự nhiên thấy nặng nề một cách lạ", rồi bất chợt nghe đâu tiếng khóc, mọi cảm xúc dồn nén trong lòng cậu đã vỡ òa, tuôn trào ra "Tôi bất giác quay lưng lại rồi dúi đầu vào lòng mẹ tôi nức nở khóc theo".

Rồi giây phút đó cũng qua đi, cậu trở lại với nhiệm vụ của mình - vào lớp, chấp nhận xa mẹ dù cậu đã từng xa mẹ cả ngày nhưng chẳng lần nào lạ như lần này. Ngồi trong lớp, nhân vật "tôi" cảm thấy cái gì cũng lạ và hay, bạn mới tuy chưa quen biết nhưng lại cảm thấy gần gũi "sự quyến luyến tự nhiên và bất ngờ quá đến tôi cũng không dám tin có thật". Tâm trạng cậu đan xen giữa những kỉ niệm trong quá khứ và hiện tại, tiếng chim và cánh chim gợi kỉ niệm đi bẫy chim còn tiếng phấn thầy gạch trên bảng là hiện thực về một chặng đường mới, giai đoạn mới - trở thành người học sinh.

Buổi tựu trường đầu tiên của nhân vật "tôi" đã được tác giả Thanh Tịnh tái hiện rất chân thực, sinh động và tràn đầy cảm xúc, từng trạng thái và diễn biến tâm trạng của nhân vật được thể hiện theo trình tự không gian, thời gian rõ ràng. Với mỗi không gian, thời gian tâm trạng ấy lại thay đổi, lại có những điểm nhấn riêng, chung quy lại tất cả những tâm trạng ấy đã làm nên một kỉ niệm sâu sắc, đẹp đẽ, khó có thể phai mờ trong tâm trí của nhân vật nói riêng và người đọc nói chung.

a. Ông em được tặng một cuốn sách quý. -> cho

b. Nhà bách Lan mới tậu được một chiếc máy vi tính. -> mua

c. Trong giờ ra chơi các bạn trai rất thích gấp máy bay . -> phi cơ

Câu thơ:

"Vì bắt nạt rất hôi" mang giá trị nghệ thuật nào?

a. So sánh

B. Nhân hóa

C. Điệp ngữ

Câu thơ:

"Vì bắt nạt rất hôi" mang giá trị nghệ thuật nào?

A. So sánh

B. Nhân hóa

C. Điệp ngữ