K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

1 tháng 4 2021

Trả lời :

1.  Hạn chế :
+ Mang tính chất lẻ tẻ rời rạc .
+ Chưa xuất phát từ cơ sở bên trong .
+ Chưa giải quyết mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.

2. Nói khởi nghĩa Hương Khê là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong phong trào Cần vương, vì:

- Quy mô, địa bàn hoạt động: rộng lớn, gồm 4 tỉnh Bắc Trung Kì: Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.

- Trình độ tổ chức quy củ: gồm 15 quân thứ, mỗi quân thứ có từ 100 đến 500 người do các tướng lĩnh tài ba chỉ huy.

- Thời gian tồn tại: dài nhất trong các cuộc khởi nghĩa của phong trào Cần vương (12 năm từ năm 1885 đến năm 1896).

- Phương thức tác chiến: tiến hành chiến tranh du kích nhưng hình thức phong phú, linh hoạt. Nghĩa quân đã tự chế tạo được súng trường.

- Khởi nghĩa thất bại đánh dấu mốc kết thúc của phong trào đấu tranh chống Pháp dưới ngọn cờ Cần vương.

2 tháng 4 2021

* Chính sách cai trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc đối với nhân dân ta trong thời kì Bắc thuộc vô cùng tàn bạo, thâm độc, đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng quẫn về mọi mặt:

- Bắt nhân dân ta đóng nhiều thứ thuế vô lí, bắt nhân dân cống nộp sản vật quý hiếm như: ngà voi, đồi mồi,…

- Bắt những người thợ thủ công giỏi, khéo tay về nước.

- Đưa người Hán sang sống chung với người Việt để “thuần hóa” người Việt. Bắt dân ta theo phong tục tập quán của người Hán, học chữ Hán,...

- Đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân ta,...

⟹ Những chính sách vô cùng tàn bạo, thâm độc, đẩy nhân dân ta vào cảnh cùng quẫn về mọi mặt.

* Chính sách thâm hiểm nhất: là muốn đồng hóa dân tộc ta về mọi mặt, biến nước ta trở thành một quận, huyện của chúng

11 tháng 8 2021

Chính sách đồng hóa là thâm độc nhất bởi  khi chúng thực hiện chính sách này, nhân dân ta và thế hệ sau này sẽ mất đi văn hóa, truyền thống, phong tục tập quán dân tộc, mất đi ngôn ngữ, tiếng nói, dần dần biến người Việt thành người Trung Quốc, để dễ dàng cai trị, biến nước ta thành 1 tỉnh, thuộc địa của chúng mãi ...

                                                                    ht

31 tháng 3 2021

* Kinh tế: đạt trình độ ngang với các nước xung quanh:

- Nông nghiệp:

+ Biết sử dụng công cụ bằng sắt, dùng sức kéo của trâu bò, biết làm ruộng bậc thang và xe guồng nước.

+ Trồng lúa một năm hai vụ, trồng các loại cây ăn quả, cây công nghiệp.

+ Nghề khai thác lâm thổ sản (trầm hương, ngà voi,…) và đánh bắt cá phát triển.

- Thủ công nghiệp: nghề làm gốm khá phát triển.

- Thương nghiệp: Có sự giao lưu, buôn bán với các nước láng giềng.

* Văn hóa:

- Chữ viết: người Chăm đã có chữ viết riêng (từ thế kỉ IV).

- Tôn giáo: Người Chăm theo đạo Bà La Môn và đạo Phật.

- Phong tục, tập quán: ở nhà sàn, ăn trầu cau, tục hỏa táng người chết, bỏ tro vào bình hoặc vò gốm rồi ném xuống sông hay biển.

- Nghệ thuật: người Chăm đã sáng tạo ra một nền nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu là các tháp Chăm, đền, tượng, các bức chạm nổi,...

31 tháng 3 2021

* Kinh tế: đạt trình độ ngang với các nước xung quanh:

- Nông nghiệp:

+ Biết sử dụng công cụ bằng sắt, dùng sức kéo của trâu bò, biết làm ruộng bậc thang và xe guồng nước.

+ Trồng lúa một năm hai vụ, trồng các loại cây ăn quả, cây công nghiệp.

+ Nghề khai thác lâm thổ sản (trầm hương, ngà voi,…) và đánh bắt cá phát triển.

- Thủ công nghiệp: nghề làm gốm khá phát triển.

- Thương nghiệp: Có sự giao lưu, buôn bán với các nước láng giềng.

* Văn hóa:

- Chữ viết: người Chăm đã có chữ viết riêng (từ thế kỉ IV).

- Tôn giáo: Người Chăm theo đạo Bà La Môn và đạo Phật.

- Phong tục, tập quán: ở nhà sàn, ăn trầu cau, tục hỏa táng người chết, bỏ tro vào bình hoặc vò gốm rồi ném xuống sông hay biển.

- Nghệ thuật: người Chăm đã sáng tạo ra một nền nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu là các tháp Chăm, đền, tượng, các bức chạm nổi,…

31 tháng 3 2021

Kinh tế: đạt trình độ ngang với các nước xung quanh:

- Nông nghiệp:

+ Biết sử dụng công cụ bằng sắt, dùng sức kéo của trâu bò, biết làm ruộng bậc thang và xe guồng nước.

+ Trồng lúa một năm hai vụ, trồng các loại cây ăn quả, cây công nghiệp.

+ Nghề khai thác lâm thổ sản (trầm hương, ngà voi,…) và đánh bắt cá phát triển.

- Thủ công nghiệp: nghề làm gốm khá phát triển.

- Thương nghiệp: Có sự giao lưu, buôn bán với các nước láng giềng.

* Văn hóa:

- Chữ viết: người Chăm đã có chữ viết riêng (từ thế kỉ IV).

- Tôn giáo: Người Chăm theo đạo Bà La Môn và đạo Phật.

- Phong tục, tập quán: ở nhà sàn, ăn trầu cau, tục hỏa táng người chết, bỏ tro vào bình hoặc vò gốm rồi ném xuống sông hay biển.

- Nghệ thuật: người Chăm đã sáng tạo ra một nền nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu là các tháp Chăm, đền, tượng, các bức chạm nổi,

31 tháng 3 2021

* Kinh tế: đạt trình độ ngang với các nước xung quanh:

- Nông nghiệp:

+ Biết sử dụng công cụ bằng sắt, dùng sức kéo của trâu bò, biết làm ruộng bậc thang và xe guồng nước.

+ Trồng lúa một năm hai vụ, trồng các loại cây ăn quả, cây công nghiệp.

+ Nghề khai thác lâm thổ sản (trầm hương, ngà voi,…) và đánh bắt cá phát triển.

- Thủ công nghiệp: nghề làm gốm khá phát triển.

- Thương nghiệp: Có sự giao lưu, buôn bán với các nước láng giềng.

* Văn hóa:

- Chữ viết: người Chăm đã có chữ viết riêng (từ thế kỉ IV).

- Tôn giáo: Người Chăm theo đạo Bà La Môn và đạo Phật.

- Phong tục, tập quán: ở nhà sàn, ăn trầu cau, tục hỏa táng người chết, bỏ tro vào bình hoặc vò gốm rồi ném xuống sông hay biển.

- Nghệ thuật: người Chăm đã sáng tạo ra một nền nghệ thuật đặc sắc, tiêu biểu là các tháp Chăm, đền, tượng, các bức chạm nổi,…

31 tháng 3 2021

Đình làng Phú Chử - thờ Bố Cái đại vương Phùng Hưng.

Phùng Hưng quê làng Đường Lâm, huyện Ba Vì, xưa thuộc Sơn Tây, nay thuộc Thành phố Hà Nội, là lãnh tụ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống ách thống trị của nhà Đường (Trung Quốc), làm chủ Tống Bình (Hà Nội) trong khoảng thời gian từ năm 791 - 803.  Xưa nay khi nói về cuộc khởi nghĩa của Phùng Hưng, sử sách chỉ ghi về việc ông tập hợp quân nghĩa trong vùng đánh chiếm rồi làm chủ Tống Bình, không nói đến ảnh hưởng của cuộc khởi nghĩa ấy với toàn cõi Giao Châu. Truyền thuyết và tư liệu lịch sử ở Thái Bình khẳng định Bố Cái đại vương Phùng Hưng đã lập đồn binh, lấy vợ người Thái Bình. Ông không chỉ làm chủ Tống Bình mà làm chủ cả Giao Châu, làm chủ cả An Nam khi ấy.

Thời nước ta thuộc nhà Đường, dân ta phải đóng góp thuế khóa, phu phen tạp dịch nặng nề. Năm 791, Phùng Hưng dấy quân từ Đường Lâm (Sơn Tây) đánh thành Tống Bình, Đô úy Cao Chính Bình sợ, phát ốm mà chết. Phùng Hưng và Phùng Hải vào thành tự quản lý các châu huyện. Bấy giờ người Chà Và, Côn Lôn vẫn vào cướp phá ven vùng Chu Diên, đích thân Phùng Hưng đã về đánh giặc, xây đồn ở làng Roi (Phú Chử, xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư) để giữ vùng hạ lưu, trấn giữ Tống Bình, rồi cử Phùng Lã Tu ở lại giữ đồn. Theo khảo tả của các cụ cao niên, thành đồn có hình vuông mỗi chiều rộng khoảng 200m, đế rộng độ 4m, cao độ 3m, khu đất thành đồn rộng đến trên 10 mẫu Bắc Bộ. Các triều sau đều coi là đất cấm, đến trước năm 1945 thành đồn vẫn còn cao độ 1,2 - 1,5m, dấu tích ấy còn mãi đến thập kỷ 60, thế kỷ XX mới bị san thành ruộng.

Thành đồn của Phùng Hưng được xây dựng gần cửa Tuần Vường (cửa Vàng) nơi ngã ba Đại Hoàng giang (sông Hồng) mở chi lưu Tiểu Hoàng giang (sông Trà Lý). Đây là cửa ngõ quan trọng để vào Long Biên, Tống Bình, Đại La ngày ấy và sau này là Thăng Long. Nơi đây sóng cao ngàn tầm, dân gian đã ví:     

“Một trăm cửa bể phải nể cửa Vàng (Vường)”.

Phùng Hưng mất, con là Phùng An không giữ được nghiệp của cha, bị Đô hộ Triệu Xương vây hãm phải đầu hàng. Phùng Lã Tu cố giữ cửa Vàng và hy sinh.

Tư liệu Hán Nôm hiện lưu giữ ở làng Lộc Điền, làng Phú Chử (xã Việt Hùng, huyện Vũ Thư) viết: “Khi Phùng Hưng sinh ra là một người mặt vuông, tai to, thân đỏ như son, bụng có vân mây, lại có chữ “Bố Cái đại vương thiên thần, tế thế an dân”. Trong lúc ngài sinh, tự nhiên thấy mây vàng từ trên trời bay xuống, hoàng quang sáng chói cả sản phòng. Hôm ấy là ngày mùng 10 tháng Giêng năm Bính Ngọ. Một trăm ngày sau khi sinh, ngài đã nói năng rõ ràng. Bá Công (cha ông) liền đặt tên cho ngài là Hưng. Ngài chưa học mà đã biết chữ. Năm 16 tuổi, ngài cao lớn, khỏe mạnh, một tay xách nổi trăm cân, từng nắm sừng đẩy được hai con trâu mộng đang húc nhau, dùng búa sắt giết hổ; lại mưu trí, bản tính hào hiệp, quảng đại, thường giúp đỡ người nghèo hèn yếu.  Khi ấy nước ta bị người Tầu cai trị, chúng làm mưa, làm gió, hà hiếp bóc lột nhân dân… Ngài đã hô hào nhân dân đứng lên khởi nghĩa, người theo về có đến hàng vạn, quân tiến như chẻ tre, phá hủy các trận thế của giặc, giải phóng thành Long Biên, ngài lên làm vua, xưng là Bố Cái đại vương.

Một hôm ngài đi đến phủ Kiến Xương, huyện Thư Trì, làng Lộc Điền, nhân dân mang trâu bò, gà, lợn làm lễ đón. Ngài bèn cho quân dừng lại ba bốn ngày, vào thăm hỏi dân chúng. Thôn Lộc Điền lúc ấy có một nhà khá giả, họ Nguyễn, tên Thành, vợ họ Lê, thường gọi Hoan Nương, nhà họ Nguyễn có hai người con gái là Hồng Loan Nương và Nhị Nương. Lúc ngài Hưng gặp hai nàng, tưởng như lạc vào cõi tiên nga. Ngài hỏi thăm dân chúng, sau vào nhà họ Nguyễn xin hỏi làm vợ. Ngài lập bà chị làm Hoàng hậu, người em làm Phi. Ngài lại cho quân sĩ cùng nhân dân xây một hành cung, lưng quay về phía Bắc, mặt quay về phía Nam, để hai bà ở đó rồi ngài đem quân về triều...”.

Trong thời gian làm vua, Phùng Hưng đã ban phát ân uy cho vùng Thư Trì, Chu Diên, sau ngày vương mất, dân các làng Phú Chử, Lộc Điền thụ ân lớn, đều lập đền thờ ông và thờ cả Phùng Lã Tu (xưa làng Lộc Điền và làng Phú Chử có 3 đình, 3 miếu, nay còn 2 đình, 3 miếu; làng An Để, xã Hiệp Hòa có miếu Hoa Quán thờ ông).

Về Hoàng hậu Hồng Loan Nương và Cung phi Nhị Nương được thờ ở đình, miếu làng Lộc Điền, các triều đều có sắc phong thần. Hiện nay làng Lộc Điền còn giữ được 13 đạo sắc của các triều Lê, Nguyễn ghi nhận: “Đại vương và Thái hậu hai cung” là người đức hạnh, đẹp đẽ, cẩn thận, có khí tiết là bậc mẫu nghi sáng suốt thuần khiết, thường hiển hiện linh thiêng bảo vệ người đời, bà là bậc uy nghi, đẹp đẽ, đoan chính hiền lương, khoan hòa giúp đỡ dân... Thái hậu hai cung là sự hợp lại của hai khí âm dương, nghìn thu sáng láng, lưu lại lâu dài, tiếng thơm để lại nghi ngút khói hương, công lớn như trời cao biển rộng”.

Đất đai Thái Bình do phù sa bồi lắng, rất màu mỡ, gần hai mươi thế kỷ từ đầu Công nguyên đến đầu thế kỷ XIX, Thái Bình luôn là miền hội cư của nhiều luồng dân cư. Thái Bình lại là vùng đất bị giới hạn bởi ba mặt sông, một mặt biển, trong đồng thì sông ngòi chằng chịt. Vị trí ấy xưa có tầm chiến lược rất quan trọng, nhiều thủ lĩnh khởi nghĩa chống xâm lược, chống phong kiến đã lấy Thái Bình làm nơi tụ binh, dấy nghĩa. Các sông lớn ở Thái Bình cũng là cửa ngõ từ biển vào kinh đô và từ kinh đô đi ra biển. Vị trí chiến lược ấy không chỉ thuận tiện cho người Việt mà kẻ thù xâm lược cũng từ ngoài biển cũng tiến quân theo đường này vào nước ta.

Thời Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 40 đầu Công nguyên, Thái Bình có hơn 30 thủ lĩnh đã lãnh đạo nhân dân hưởng ứng, nay đền thờ các tướng súy ấy đều nằm ven các sông Hồng, sông Luộc, sông Trà Lý và một số sông nội đồng. Thế kỷ thứ VI, Lý Bí đã lấy vùng sông nước, đầm lầy Thái Bình để tụ nghĩa chống lại nhà Lương, Thái Bình hiện còn trên 60 đền thờ Lý Bí, Hoàng hậu và các tướng súy của vua. Sử sách xưa đã từng ghi vùng đất Thái Bình vốn “dân đông, thóc nhiều” (dân đông để bổ sung vào quân lính, thóc nhiều để nuôi quân), lại có vị trí chiến lược quan trọng nên Thái Bình luôn là “đất tụ nghĩa, đất dấy nghĩa” chống xâm lược, chống áp bức.  Phùng Hưng không xây dựng căn cứ khởi nghĩa ở Thái Bình nhưng để giữ Tống Bình, giữ Giao Châu, Phùng Hưng đã dựng thành đồn, đóng quân ở Thái Bình, lấy vợ người Thái Bình. Những tư liệu trên khẳng định phạm vi rộng của cuộc khởi nghĩa do Phùng Hưng lãnh đạo. Sau ngày ông mất, dân làng Phú Chử, Lộc Điền lập đền thờ, tôn ông là thành hoàng. Đền thờ ông xưa được dựng ở ngoài đê, năm Thành Thái thứ 10 (1897) dân làng Phú Chử đã xây dựng đình vào phía trong đê, đình ấy nay vẫn còn, vẫn được tu bổ, tôn tạo, giữ gìn sạch đẹp.

Hàng năm vào ngày 10/11, nhân dân làng Phú Chử tổ chức lễ hội để tưởng nhớ về Bố Cái đại vương Phùng Hưng và tướng Phùng Lã Tu. Những năm được mùa “Phong đăng hòa cốc” lễ hội thường diễn ra trong ba ngày (10 - 12). Phần lễ có rước kiệu quanh làng, sau về đình tế lễ, lễ vật gồm có xôi, gà, thủ lợn, hoa quả... Phần hội có hát ca trù, diễn chèo, thi vật, đi cầu kiều, bắt vịt... Ngày hội dân làng tham gia rất đông. Ngày nay, dân thường tế lễ dâng hương trong một ngày.

31 tháng 3 2021

10 vạn quân

31 tháng 3 2021

10 vạn

31 tháng 3 2021

Vua Đường cử tên tướng nanh vuốt Dương Tư Húc, đem 10 vạn quân cùng Quang Sở Khách tiến sang đàn áp cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan

31 tháng 3 2021

Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu đã cùng ông phải đi gánh vải quả nộp cống cho chính quyền nhà Đường nổi dậy khởi nghĩa. Được nhân dân khắp vùng Thanh, Nghệ Tĩnh hưởng ứng, nghĩa quân trở nên đông đảo, mạnh mẽ. 

Sau khi Lý Phật Tử xin thần phục nhà Tùy ở Trung Hoa để chịu ách Bắc thuộc lần thứ ba, đất nước Giao Châu lệ thuộc vào nhà Tùy. Đến năm 679 Giao Châu đổi thành An Nam Đô Hộ Phủ, đóng đô ở Giao Châu, thay đổi khu vực, chia ra 12 châu và 59 huyện. Việt Nam có tên gọi là An Nam cũng khởi nguồn từ đó. 

Đất nước An Nam trong thời gian đó luôn luôn bị loạn lạc giữa nội tình và ngoại xâm. Có nhiều cuộc nổi dậy để chống lại ách thống trị của nhà Đường, trong đó có Mai Thúc Loan.

Đền thờ Mai Hắc Đế - thị trấn Nam Đàn, Nghệ An

Mai Thúc Loan, sử nhà Đường còn gọi là Mai Huyền Thành, gốc người vùng ven biển Hà Tĩnh sau chuyển sang vùng Nam Đàn, Nghệ An; quê ở Mai Phụ ("gò họ Mai", tên nôm là Kẻ Mỏm), một làng chuyên làm muối ở miền ven biển Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay, lúc bấy giờ giáp giới với đất Chăm ở bên kia dải núi Nam Giới. Mai Thúc Loan nhà nghèo, phải làm nghề kiếm củi rồi đi làm thuê cho nhà giàu, chăn trâu, cày ruộng. Ông rất khỏe và sáng dạ, người đen trũi, nổi tiếng giỏi vật cả một vùng, thường bị bắt làm dân phu phục dịch chính quyền đô hộ nhà Đường. Là người con chí hiếu, Mai Thúc Loan phụ giúp cho thân mẫu làm lụng, vào rừng kiếm củi. Thế nhưng, sau đó mẹ ông lại bị cọp vồ chết. Ông quyết định theo học săn, nhiều lần giết được cọp dữ khiến nhân dân trong vùng khâm phục. Vì vậy, mọi người đã suy tôn Mai Thúc Loan làm thủ lĩnh quân sự của làng.

Vùng đất Châu Hoan (Nghệ Tĩnh) lúc bấy giờ luôn bị giặc Chà Và (Java), Côn Lôn (Malaysia) cướp phá, thêm nữa là là ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường làm cho nhân dân vô cùng khổ sở. Đặc biệt, nạn cống quả lệ chi (quả vải) cho Dương Quý Phi - một ái phi của vua nhà Đường ở Trường An là một gánh nặng khôn cùng đối với nhân dân Hoan Châu. Cũng như mọi người dân đất Việt, Mai Thúc Loan phải đi phu, quanh năm phục dịch vất vả cho bọn đô hộ nhà Đường.

Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu đã cùng ông phải đi gánh vải quả nộp cống cho chính quyền nhà Đường nổi dậy khởi nghĩa. Được nhân dân khắp vùng Thanh, Nghệ Tĩnh hưởng ứng, nghĩa quân trở nên đông đảo, mạnh mẽ. Nhân tài khắp các châu Hoan, Diễn, Ái (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng đến tụ tập dưới cờ nghĩa. Sử nhà Đường chép rằng Mai Thúc Loan đã liên kết dân chúng 32 châu. Thế lực nghĩa quân dần dần thêm mạnh, đã lợi dụng địa thế vùng rừng núi Sa Nam bên bờ sông Lam thuộc đất Nghệ An xây dựng căn cứ chống giặc.  Dọc bờ sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài hơn nghìn mét, còn gọi là thành Vạn An nổi tiếng, có núi Đụn (Hùng Sơn) làm chỗ dựa; phía trong núi là dải thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng làm nơi trữ lương thực, vũ khí; phía ngoài núi, có nhiều đồn trại đóng ở cạnh sườn; chung quanh núi, sông Lam vây bọc như con hào thiên nhiên. Ông lấy Vệ Sơn làm trung tâm và cho đóng doanh trại nghĩa quân. Bao quanh khu trung tâm (Vệ Sơn), nghĩa quân xây dựng một hệ thống đồn trại nương tựa lẫn nhau: Biểu Sơn (hình quả bầu), bảo vệ cánh tả, Liêu Sơn bảo vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn (hình ngọc) cạnh thành Vạn An, là đồn tổng chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo quân thủy bộ. Mai Thúc Loan xưng đế và đóng đô ở thành Vạn An, sử và dân gian gọi ông là Mai Hắc Đế (Vua đen họ Mai) vì ông da đen, có lẽ do ông xuất thân từ Mai Phụ, một làng làm muối ven biển Thạch Hà.

Mai Hắc Đế còn cử người đi giao thiệp, liên kết với các nước Champa, Chân Lạp ở phía tây và cả nước Kim Lân (Malaysia hiện nay) để có thêm lực lượng chống nhà Đường. Sau thời gian xây dựng, phát triển lực lượng, nghĩa quân tiến ra Bắc đánh đuổi bọn đô hộ, giải phóng đất nước. Từ Vạn An, có một số quân từ các nước thuộc bán đảo Đông Dương giúp sức, nghĩa quân tiến ra Bắc, tiến công phủ thành Tống Bình (Hà Nội). Bè lũ đô hộ Quang Sở Khách, trước khí thế ngút ngàn của cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của người Việt, đã bỏ thành, chạy tháo thân về nước. Đất nước được giải phóng, lực lượng nghĩa quân phát triển tới hàng chục vạn người. 

Nhưng lúc này nhà Đường còn mạnh, vua Đường cử tướng Dương Tư Húc, tướng hàng đầu của triều đình nhà Đường, đem 10 vạn quân cùng Quang Sở Khách tiến sang đàn áp cuộc khởi nghĩa. Sau nhiều trận đánh khốc liệt, từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, nghĩa quân tan vỡ, một bộ phận rút vào rừng. Hiện nay, ở thung lũng Hùng Sơn (Rú Đụn) còn lăng mộ cha con Mai Hắc Đế. Theo truyền thuyết dân gian sau khi Mai Hắc Đế bị bệnh mất ở trong rừng, con ông đã nối ngôi được một thời gian, tức là Mai Thiệu Đế. 
Mai Hắc Đế mất đi, An Nam chìm đắm lại trong thời kỳ Bắc thuộc. Quân xâm lược nhà Đường tiến hành tàn sát nhân dân rất dã man, chất xác quân đắp thành gò cao để ghi công chinh phục, đề cao uy thế "thiên triều", răn đe nhân dân Việt. Tội ác của giặc cũng ngày càng chồng chất cao lên mãi. 
 

Đền thờ và lăng mộ Vua Mai tại chân Rú Đụn, xã Vân Diên - Nam Đàn

Nhân dân Việt Nam đời đời nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ ông ở trên núi Vệ Sơn và trong thung lũng Hùng Sơn. Một bài thơ chữ Hán còn ghi trong Tiên chân báo huấn tân kinh để ở đền, ca tụng công đức ông như sau (tạm dịch):

Hùng cứ Châu Hoan đất một vùng, 
Vạn An thành lũy khói hương xông, 
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức, 
Trăm trận Lý Đường phục võ công. 
Lam Thủy trăng in, tăm ngạc lặn, 
Hùng Sơn gió lặng, khói lang không. 
Đường đi cống vải từ đây dứt, 
Dân nước đời đời hưởng phúc chung. 

Trong “ Đại Nam Quốc Sử diễn ca ” đã ghi lại hình ảnh của Mai Hắc Đế:

“Quan Đường lắm kẻ tham tài, 
Bình dân hàm oán, trong ngoài họp mưu. 
Mai Thúc Loan ở Hoan Châu 
Quân ba mươi vạn ruổi vào ải xa. 
Hiệu cờ Hắc Đế mở ra, 
Cũng toan quét dẹp sơn hà một phương. 
Đường sai Tư Húc tiếp sang, 
Hợp cùng Sở Khách, hai đàng giáp công, 
Vận đời còn chửa hanh thông, 
Nước non để giận anh hùng nghìn thu 
Lam thủy trăng in tăm ngạc lặn 
Hùng Sơn gió lặng khói lang không..."”.

Mai Thúc Loan khởi nghĩa với địa lợi, nhân hòa nhưng chưa gặp thiên thời vì đúng vào lúc nhà Đường cực thịnh nên thất bại. Tương truyền từ sau cuộc khởi nghĩa lớn lao này, nhà Đường không dám bắt nhân dân nộp cống vải quả hằng năm nữa.

“Vua đen” là tên gọi của Mai Thúc Loan, khi lên ngôi, được nhân dân tôn phong lên ngôi hoàng đế gọi là Mai Hắc Đế - Vua đen họ Mai.

31 tháng 3 2021

Cho tôi

31 tháng 3 2021

Trong các thể kỉ VII - IX để chống ách đô hộ nhà Đường có nhiều cuộc khởi nghĩa lớn đã nỗ rađó là: A. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, khởi nghĩa Bà Triệu.

31 tháng 3 2021

Trong các thể kỉ VII - IX để chống ách đô hộ nhà Đường có nhiều cuộc khởi nghĩa lớn đã nỗ rađó là: A. Khởi nghĩa Mai Thúc Loan, khởi nghĩa Bà Triệu