K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

8 tháng 12 2017

2 câu thơ đầu,tác giả sử dụng nghệ thuật đối nhấn mạnh việc tác giả xa quê đã rất nhiều năm,giờ đây mới có dịp trở về quê hương.con người đã có nhiều thay đổi,đã già nua ,tóc mai đã rụng nhưng giọng nói quê hương vẫn ko đổi,vẫn giữ chút hồn quê.dù xa quê nhưng tam hồn,tình cảm luôn hướng về quê hương yêu dấu.2 câu thơ sau, tác giả đã trở về quê hương với tâm trạng bùi ngùi,buồn,đau xót vì ông bị coi là khách tren chính quê mình.hình ảnh nghệ thuật vui tươi đã diển tả tâm trang bùi ngùi và tạo ra tình huống bi hài

8 tháng 12 2017

mình giúp bạn đầu tiên,chọn mình nhé

8 tháng 12 2017
Hạ Tri Chương (659-744) tự QuýChân, hiệu “Tứ Minh cuồng khách”, người Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang). Năm 695 ông đậu tiến sĩ, làm quan trên 50 năm ở Trường An. Ông thích uống rượu, kết thân với Lý Bạch, là một trong “Ngô trung tứ sĩ”, tự xưng “Tứ minh cuồng khách”. Tính tình phóng khoáng, thích đàm tiếu, làm quan lâu năm vì “hoảng sợ bệnh tật” và “muốn về làng” nên sau hơn 50 năm xa quê năm 86 tuổi ông trở về thăm quê ở Vĩnh Hưng, Việt Châu (nay thuộc Tiêu Sơn, tỉnh Chiết Giang). Từ biệt rất lâu nay đến tuổi già lão Hạ Tri Chương mới về quê thăm nên có nhiều cảm xúc ngỡ ngàng và xa lạ. Ông đã làm hai bài thơ nhan đề Hồi hương ngẫu thư (ngẫu nhiên về làng viết). Bài thứ nhất như sau: Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi, Hương âm vô cải mấn mao tồi. Nhi đồng tương kiến bất tương thức, Tiếu vấn: “Khách tòng hà xứ lai?” Dịch thơ: Khi đi trẻ, lúc về già Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao. Trẻ con nhìn lạ không chào, Hỏi rằng: “Khách ở chốn nào lại chơi?” (Phạm Sĩ Vĩ) Đầu đề bài thơ có 4 chữ (từ), chữ “ngẫu” được hiểu là tác giả trở về làng lúc đã quá già nên chỉ có ý định về làng thăm quê sau hơn nửa thế kỷ xa cách mà không có ý sáng tác. Đây là lần trở về quê đầu tiên và cũng có thể là lần cuối. Nhưng vừa đặt chân đến quê thì cảm xúc dâng trào nên tác giả “ngẫu hứng” mà sáng tác bài thơ này. Bài thơ theo thể thất ngôn tuyệt cú, lời lẽ đơn giản, dễ hiểu nhưng trở nên bất hủ và rất được truyền tụng xưa nay, và nó đều được đưa vào chương trình ngữ văn ở nhà trường phổ thông Trung Quốc (sơ trung), Việt Nam (THCS). 1. Bài thơ có 4 câu, hai câu đầu (1, 2) tác giả nói về sự thay đổi của bản thân và hai câu sau (3, 4) diễn tả cảm nghĩ của mình về sự thay đổi của quê sau bao năm dài xa cách. Ở hai câu đầu tác giả tự đặt mình vào hoàn cảnh vừa quen thân vừa xa lạ đối với quê hương khi trên đường trở về. Tâm tình của tác giả lúc này là “không bình tĩnh” với tâm trạng bồn chồn, lo lắng. Nguyên nhân của sự “không bình tĩnh” ấy là lời “tự thuật” khi từ biệt quê nhà ra đi tác giả còn ấu thơ (thiếu tiểu) và khi trở về thì đã quá già lão (lão đại). Câu thơ chỉ có 7 chữ mà đối từng chữ (thiếu tiểu - lão đại; ly - hồi). Ở câu 1 xuất hiện chữ “gia” (nhà) rất gần gũi và thân quen. Cái nơi gần gũi, thân quen “chôn nhau cắt rốn”, “cất tiếng chào đời” ấy trở nên nghẹn ngào làm sao khi tác giả nhớ lại phải “ly gia” (xa cách ngôi nhà) để ra đi từ lúc còn quá bé nhỏ (thiếu tiểu). Xót xa, ngậm ngùi hơn là chính con người ấy nay lại trở về nhà vào lúc tuổi xế chiều “gần đất xa trời”. Một câu thơ có hai vế đối: “Thiếu tiểu ly gia” đối với “lão đại hồi” vừa chỉnh vừa hay. Câu thơ 1 được chuyển tiếp và làm rõ hơn ở câu 2. Nếu câu 1 là sự thay đổi về thời gian năm tháng thì ở câu 2 tác giả làm nổi bật sự thay đổi rất lớn của bản thân ở hai khía cạnh là tâm hồn bên trong và hình dạng bên ngoài. Trong khi hình dáng bên ngoài sau bao năm ra đi và xa cách nay trở về râu và tóc của tác giả đã bạc phơ và thưa rụng đi rất nhiều (mấn mao tồi). Cái mà tác giả rất tự hào và có thể nói “hành trang” trở về rất quí giá của mình, đó là tấm lòng, tình cảm được thể hiện qua giọng nói của quê nhà vẫn không thể thay đổi (hương âm vô cải). Nếu câu 1 tác giả gọi “gia” (nhà) là của riêng mình thì ở câu 2 nhà thơ lại dùng chữ “hương” (làng) rộng lớn, bao quát, thân thiết và gắn bó hơn. Câu 2 cũng có hai vế đối. Chữ “hương âm” (giọng quê) không thay đổi (vô cải) cho dù “mấn mao” (râu tóc) đã thay đổi (tồi). Câu thơ này ngụ ý tác giả muốn nói rằng “tôi không quên quê hương nhưng quê hương còn nhớ tôi không?” (Ngã bất vong cố hương, cố hương khả hoàn nhận đắc ngã ma?). 2. Câu 3, 4 miêu tả sự thay đổi của quê hương từ bức tự họa tràn đầy cảm khái tác giả chuyển sang câu chuyện giàu kịch tính mà trọng tâm là sự xuất hiện hình ảnh đứa trẻ (nhi đồng). Hai câu đầu nhân vật chính là tác giả (thiếu tiểu - lão đại), hai câu sau có hai nhân vật, một già (lão đại) và một đứa trẻ của làng (nhi đồng). Nếu như ở hai câu thơ đầu tác giả háo hức và mơ ước được nhanh chóng trở về quê lúc tuổi già sức yếu thì ở hai câu thơ sau nhà thơ cảm thấy bị hụt hẫng, ngỡ ngàng vì quê hương mà mình khắc khoải mong trở về trở nên xa lạ. Đứa trẻ làng (ở tuổi chắt) nhìn thấy một ông lão rất già nhưng nó dửng dưng, xa lạ, không quen biết và không hề chào hỏi một câu (nhi đồng tương kiến bất tương thức). Câu thơ chỉ có 7 chữ với hai từ lặp (tương - nhìn thấy nhau và không quen biết nhau). Kịch tính của bài thơ được mở ra từ đây. Câu thơ không nói nhưng tác giả tỏ ra không vui và trách giận một đứa trẻ làng gặp ông, nhìn thấy ông mà xa lạ, không lễ phép đối với người già đáng tuổi cụ. Từ thái độ giận trách tác giả chuyển sang thái độ là tự trách mình, tự hỏi mình. Ông chợt nghĩ rằng đứa trẻ không có lỗi, thái độ “xử sự” của nó là đúng. Ông đã trở nên xa lạ trên quê hương mình. Bài học rút ra ở ông lúc này chính là cách “xử sự” của đứa trẻ đối với những ai xa quê lại hờ hững mà ít gắn bó với quê bao nhiêu năm xa cách nay mới trở về. Tác giả - một nhà thơ lớn - làm quan lớn rời bỏ quê hương ra đi nay trở về với “tinh chất” là “Hương âm vô cải” nhưng lại trở nên xa lạ ngay trên quê hương thân yêu của mình mà người “chỉ ra” sự xa cách, xa lạ đó là đứa trẻ làng đáng yêu. 3. Câu thơ cuối (câu kết) rất hay, kịch tính được “thắt” (câu 3) và được “mở” với hình ảnh thân thiện hồn nhiên và lễ phép của đứa trẻ. Từ chỗ nhìn thấy (tương kiến) mà không quen biết (bất tương thức) đứa trẻ có một thái độ cởi mở, niềm nở với ông già (tiếu vấn). Sau nụ cười là một câu hỏi cũng phát ra từ miệng của đứa trẻ thơ: “Ông là khách từ nơi đâu đến?” (Khách tòng hà xứ lai?). Câu thơ có một lời thoại - một lời hỏi của đứa trẻ mà người đáp là ông già (tác giả) - không có trả lời. Chữ “khách” tác giả sử dụng ở đây thật tài tình được coi là “thi nhãn” của bài thơ này. Tác giả là chủ làng, già làng ra đi nay trở về là “khách” còn đứa trẻ làng là kẻ hậu bối mấy đời nay trở nên là “chủ”. Nó sẽ rất tự hào và hãnh diện là “chủ” của quê hương trong hiện tại và tương lai. Với những ai từng là “con em” và “chủ” của làng ra đi lâu ngày không còn thân thiết, gắn bó nữa nếu không có ý thức về quê hương sẽ trở nên là “khách” xa lạ ngay trên nơi chôn nhau cắt rốn và cất tiếng chào đời. Nhà thơ không trả lời được câu hỏi đơn giản của đứa trẻ và tác giả cũng nhận thức ra rằng không thể trả lời! Sau câu hỏi này chắc chắn tác giả sẽ lại phải ra đi vì mình là “khách” của quê hương rồi. 4. Hồi hương ngẫu thư của Hạ Tri Chương tuy ngắn mà hay, sâu xa, ý tứ ít có thi phẩm nào sánh kịp. Bài thơ có không gian, thời gian, con người và sự việc. Bài thơ có hai nhân vật, một lời thoại, có kịch tính dâng trào và có sự hài hước. Yếu tố tự vấn, tự trách, giận mà thương thể hiện khá rõ trong bài thơ. Bài thơ như một màn kịch có bối cảnh, nhân vật đọc lên ai nấy cũng có cảm giác là “xem” một vở hài kịch thân thương.
28 tháng 10 2019

- Nếu như bài thơ “Tĩnh dạ tứ” của Lí Bạch là nỗi nhớ về quê cũ của người xa xứ thì bài thơ trên lại viết về quê hương ngay cả khi tác giả đã trở về sau một thời gian khá dài xa quê. Nay trở về nỗi buồn đau dâng lên khi bản thân bị xem là “khách” trong ngày đầu tiên trở về quê hương. Khi đó, cảm xúc đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên nhưng vì một điều bức xúc trong tình cảm mà trào dâng ra thành thơ.

GN
GV Ngữ Văn
Giáo viên
22 tháng 10 2018

Sự biểu hiện tình quê hương qua 2 bài thơ "Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh" và "Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê":

- Hoàn cảnh và tình huống:

+ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh: Nhà thơ sống xa quê hương, trông trăng sáng và nhớ về quê cũ.

+ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê: Nhà thơ trở về quê sau một khoảng thời gian dài (khoảng 15 năm) và có những cảm nhận về quê hương.

- Tâm trạng được thể hiện:

+ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh: Nỗi nhớ, thao thức không ngủ được vì nhớ về quê hương.

+ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê: nỗi buồn, sự ngạc nhiên ngỡ ngàng về sự đổi khác của quê hương (mặc dù giọng quê không đổi nhưng trẻ con sống ở đó không còn nhận ra tác giả nữa, hỏi: khách ở nơi nào tới chơi)

- Nghệ thuật biểu hiện:

+ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh: Nghệ thuật đối.

+ Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê: Nghệ thuật tiểu đối, bình đối, câu hỏi tu từ

21 tháng 10 2018

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người

(Quê hương - Đỗ Trung Quân)

Quê hương trong mỗi chúng ta là những gì gần gũi, bình dị nhưng rất đỗi thiêng liêng. Với Đỗ Trung Quân quê hương là chùm khế ngọt, là cánh diều biếc, con đường đi học, là tuổi thơ tắm nắng trưa hè. Còn với Lý Bạch và Hạ Tri Chương thì quê hương chính là gia đình, làng xóm và những kỉ niệm ấu thơ. Dẫu kỉ niệm khác nhau nhưng ở họ đều có chung một tình yêu thương cháy bỏng.

Đời hiệp khách chống kiếm lãng du xa quê từ thuở nhỏ. Đêm nay dừng chân nơi quán trọ, Lý Bạch lại bắt gặp ánh trăng thân thuộc ngày nào, ánh trăng đêm nay sáng quá, ánh trăng sáng tận đầu giường nơi lữ khách ngơi chân. Ánh trăng đêm nay lạ quá, trăng tràn khắp nẻo, lan ra bao phủ khắp không gian. Đêm vắng, trên mặt đất những giọt sương như những hạt ngọc lung linh. Trăng đêm nay đẹp khiến không ai có thể hững hờ trước sự choáng ngợp của ánh sáng. Lòng lữ khách bồi hồi xao xuyến say sưa trước cảnh đêm trăng. Thi nhân tìm thấy trong không gian tĩnh lặng ấy hơi ấm của quê hương đang lan toả khắp căn phòng:

Đầu giường ánh trăng rọi

Ngỡ mặt đất phủ sương

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Rất tự nhiên ngẩng đầu ngắm trăng sáng. Ánh trăng đêm nay gợi nhớ về những kỉ niệm ngày nào trên núi Nga Mi. Nỗi niềm nhớ về quê hương đang trĩu nặng trong lòng, tác giả chạnh lòng nhớ về quá khứ, xót xa thay khi nhận ra đang ở quê người. Và cũng rất tự nhiên hành động:

Cúi đầu nhớ cố hương

Nó như một sự phản xạ không điều kiện như nằm ngoái ý thức. Dưới ánh trăng khuya một lữ khách đang ngóng mắt về quê hương nơi ấy có mẹ già tần tảo sớm hôm, có bà con láng giềng thân thuộc, có đám bạn chăn trâu thổi sáo, những đêm trăng ríu rít nô đùa, họ bây giờ ra sao? Quê hương vẫn thế hay có gì thay đổi. Hỏi mà như để khẳng định với chính mình! và dĩ nhiên khi đôi chân lãng du đã mệt mỏi thì ai cũng trở lại quê hương. Về với quê hương là về với mẹ, người mẹ ấy vẫn từng ngày từng giờ dang rộng cánh tay chào đón những đứa con.

Với Lý Bạch ánh trăng gợi nhớ về quê hương. Còn Hạ Tri Chương cũng xa quê từ ngày thơ ấu, lứa tuổi đáng ra phải được sống trọn với quê hương nhưng buồn thay:

Khi đi trẻ, lúc về già

Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao

Sống ở kinh đô Tràng An sầm uất đua chen, lòng tác giả thổn thức chờ ngày về với mẹ. Niềm khắc khoải mong chờ ấy đau đáu bên lòng. Khi đi mái tóc vẫn còn xanh và khi trở lại thì tóc đà khác bao. Tóc đã nhuộm màu thời gian, nhưng giọng quê, hồn quê thì không hề thay đổi. Chất quê hương đã ăn sâu vào máu thịt, nó trở thành giọt máu nuôi sống bản thân. Cảm động xiết bao, thời gian xa cách, tấm lòng với quê son sắt thuỷ chung. Trong cái giọng quê vẫn thế ấy là sự thuỷ chung được trải nghiệm bằng thời gian. Trở lại quê hương sau gần hết cuộc đời xa cách lòng sao lại không man mác bùi ngùi. Nếu như Lý Bạch có ánh trăng gợi nhớ về quê hương thì Hạ Tri Chương là lũ trẻ nơi đầu xóm. Nghịch lý là lũ trẻ kia không biết ông là ai:

Trẻ con nhìn lạ không chào

Hỏi rằng: khách ở chốn nào lại chơi

Trở lại quê hương, mái đầu tóc đã pha sương. Bao năm xa cách nay mới được trở về đất mẹ. Tuy xa cách quê hương trong khoảng thời gian đằng đẵng nhưng giọng quê - giọng của quê hương đất mẹ vẫn không thay đổi. Điều đó chứng tỏ rằng với Hạ Tri Chương quê hương là những gì thiêng liêng nhất. Và như vậy thì dù thời gian và con người có thay đổi nhưng tình cảm với quê hương thì không bao giờ thay đổi.

Không khỏi xúc động cho hai con người, họ có những cảnh ngộ khác nhau nhưng tình yêu quê hương thì hoàn toàn đồng điệu. Trong lòng hai nhà thơ nỗi nhớ quê hương luôn ăn sâu vào tiềm thức, nó luôn thường trực trong trái tim của mỗi người. Thế mới biết quê hương là nguồn cảm hứng mãnh liệt và được thể hiện ở những cung bậc khác nhau, mức độ khác nhau qua những kỉ niệm khác nhau.

Đúng vậy quê hương trong thơ Đỗ Trung Quân cũng thật bình dị mà sâu sắc: chùm khế ngọt, con diều biếc, con đường đi học... còn với Tế Hanh thì quê hương hiện lên là làng chài ven biển, con thuyền lướt sóng... Hai tiếng quê hương sao nghe xúc động đến thế.

Cùng một chủ đề là tình yêu quê hương mà mỗi tác giả lại có cách biểu lộ khác nhau. Để rồi khi bài thơ khép lại những ai chưa từng nhớ quê nhà cũng nao lòng tìm đọc những dòng thơ. Hai bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh của Lý Bạch và Ngẫu nhiên viết nhân buổi mới về quê của Hạ Tri Chương đã để lại trong lòng chúng ta bảo tình cảm thiêng liêng, trân trọng với gia đình và quê hương yêu dấu.

1 tháng 11 2018

len vietjack

1 tháng 11 2018

bn lên vietjack hoặc loigiaihay nhé

bn sẽ tìm ra câu trả lời 

hok tốt

4 tháng 12 2021

Em tham khảo:

Nếu như bài thơ Tĩnh dạ tứ của Lí Bạch là nỗi nhớ về quê cũ của người xa xứ thì bài thơ trên lại viêt về quê hương ngay cả khi tác giả đã trở về sau một thời gian khá dài xa quê. Nay trở về nỗi buồn đau dâng lên khi bản thân bị xem là “khách” trong ngày đầu tiên trở về quê hương. Khi đó, cảm xúc đã xuất hiện một cách ngẫu nhiên nhưng vì một điều bức xúc trong tình cảm mà trào dâng ra thành thơ.

4 tháng 12 2021

THam khảo !!!!

Qua tiêu đề bài thơ, có thể thấy sự biểu hiện tình quê hương ở bài thơ này tình yêu quê hương của tác giả được thể hiện; Tác giả đã xa quê từ lúc còn trẻ và trở về lúc già, giọng quê của tác giả vẫn thế nhưng tóc đã khác với xưa. Trẻ con trong làng không nhận ra tưởng khách ở nơi nào đến chơi.

3 tháng 11 2016

Quê hương hai tiếng gọi thân thương trìu mến mà mỗi ai đi xa đều đau đáu trong lòng. Quê hương trong mỗi người đã trở thành máu, thành thơ, thành một phần của tâm hồn. Đối với Lý Bạch - thi nhân suốt một đời xa quê thì tình yêu quê hương lại càng dâng trào mãnh liệt qua bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh:

Đầu giường ánh trăng rọi,

Ngỡ mặt,đất phủ sương

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Cúi đầu nhớ cố hương

Mở đầu bài thơ là một thế giới ảo diệu tràn ngập ánh trăng.

Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương

(Đầu giường ánh trăng rọi

Ngỡ mặt đất phủ sương)

Trăng không chỉ giới hạn ở nơi đầu giường, mà ánh trăng bao trùm cả không gian toả khắp căn phòng nơi tác giả nghỉ trọ. Trăng như dòng suối chảy miên man khắp đêm sâu. Cảnh vật như say dưới trăng, giữa khoảnh khắc đêm sâu như vậy, ánh trăng là chủ thế trong cuộc sống tĩnh lặng. Hơi thở của tạo vật đất trời cũng nhè nhẹ sợ làm vỡ tan cái êm dịu của đêm trăng.

Với Lý Bạch - một hiệp khách thì ánh trăng sáng trong quán trọ không phải là chuyện lạ. Nhưng với thi nhân thì ánh trăng đêm nay rất khác lạ. ánh trăng len lỏi vào tận đầu giường nơi tác giả nằm. Ánh trăng không phải là vô tri vô giác, nó như biết được nơi người hiệp khách dừng chân. Trăng chủ động tìm đếntrò chuyện, tâm sự cùng tác giả. Trong khoảnh khắc đêm

thâu tĩnh lặng, ánh trăng trong sáng và tinh khiết được tác giả chào đón nồng hậu. Trăng sáng quá, đẹp quá khiến tác giả:Nghi thị địa thượng sương

Ánh trăng rọi ngỡ là sương mặt đất, chỉ một hình ảnh thôi mà gợi cả một thế giới cảm xúc. Đây là một hiện tượng rất bình thường, nhưng với tác giả thì hiện tượng này tạo cảm hứng mãnh liệt. Sức liên tưởng kỳ lạ làm hình tượng thơ sống dậy. Trăng hay là sương bao phủ mặt đất? Trăng là thực mà lại không thực? Bằng chất lãng mạn, thi nhân đã nâng ánh trăng lên đến mức diệu kỳ. Vầng trăng trở nên như cõi thiên thai. Sương khói của ánh trăng làm cho câu thơ ngập trong không khí mơ màng, hư hư thực thực. Cả trăng và thi nhân đã giao hoà, giao cảm quyện làm một. Phải thật tĩnh lặng mới nghe được tiếng trò chuyện thầm thì của trăng và thi nhân. Một sự quan hệ qua lại như đền đáp ân huệ mà thiên nhiên ban tặng cho thi nhân cũng như lòng ngưỡng mộ của thi nhân với trăng. Rất tự nhiên, nhẹ nhàng thi nhân hướng về nàng tiên trong đêm sâu.

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương

(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương)

Tư thế nhìn trăng là một tư thế rất tự nhiên của thi nhân, trong giây phút ấy tác giả gửi trọn hồn mình cho trăng phút chốc tâm tư bỗng trĩu nặng rồi dồn nén vội quên đi cả vũ trụ đất trời đang mời gọi. Đê đầu nhớ về quê cũ yêu thương. Đêm nay trăng sáng nơi quê người, trong quán trọ trên bước đường lữ thứ, tâm hồn nhà thơ sau không khắc khoải bồn chồn. Ánh trăng đêm nay hay chính ánh trăng ngày nào trên núi Nga Mi hiện về. Bỗng chốc lòng tác giả nặng xuống với: quá khứ, hiện tại, tương lai đang trỗi dậy trong lòng. Phải chăng con người ấy đang muốn phủ nhận thực tại trở về quá khứ? Tình ở đây là tấm lòng thương nhớ quê hương, với Lý Bạch tấm lòng da diết khôn nguôi. Hơn nữa trong không gian vắng lặng ấy làm cho tác giả càng buồn hơn, nỗi nhớ sâu hơn, mãnh liệt hơn. Quê hương, nơi ông sinh ra và một thời gắn bó với nó, nhớ những kỷ niệm chăn trâu thổi sáo, những đêm hè gọi bạn ngắm trăng thâu. Tất cả giờ chỉ còn trong ký ức.

Quê hương là những gì thiêng liêng nhất, không chỉ Lý Bạch đêm nay nhìn trăng nhớ quê cũ. Ai ai cũng vậy, trong hoàn cảnh ấy quá khứ sao lại chẳng dội về. Có chăng trong những phút nao lòng ấy nhà thơ muốn thốt lên nỗi lòng kẻ xa quê bao năm chưa trở lại. Dẫu sao tình cảm của tác giả với quê hương cũng không bao giờ phai nhạt. Hạ Tri Chương cũng từng thốt lên tâm sự khi hồi hương.

Khi đi trẻ, lúc về già

Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao

Cái hồn quê, hương quê không thay đổi trong Hạ Tri Chương. Cũng như Lý Bạch quê hương đã trở thành máu, thành hồn.

Lý Bạch đã viết bài thơ bằng tình cảm chân thực, tình yêu cố hương được thể sống động trong ông. Ta bồi hồi trước chất lãng mạn cùa bài thơ, ta trân trọng nâng niu những tình cảm tự đáy lòng của nhà thơ. Điều này đã giúp ta hiểu, cảm được cái hay cái đẹp của nghệ thuật đích thực. Ai xa quê mà chẳng có tình cảm giống như ông. Tĩnh dạ tứ xứng đáng là một bản tình ca tâm hồn, là khúc nhạc chan chứa tình yêu quê hương của “thi tiên Lý Bạch”.



Chúc Bạn Học Tốt
 

6 tháng 11 2018

Quê hương hai tiếng gọi thân thương trìu mến mà mỗi ai đi xa đều đau đáu trong lòng. Quê hương trong mỗi người đã trở thành máu, thành thơ, thành một phần của tâm hồn. Đối với Lý Bạch - thi nhân suốt một đời xa quê thì tình yêu quê hương lại càng dâng trào mãnh liệt qua bài thơ Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh:

Đầu giường ánh trăng rọi,

Ngỡ mặt,đất phủ sương

Ngẩng đầu nhìn trăng sáng,

Cúi đầu nhớ cố hương

Mở đầu bài thơ là một thế giới ảo diệu tràn ngập ánh trăng.

Sàng tiền minh nguyệt quang

Nghi thị địa thượng sương

(Đầu giường ánh trăng rọi

Ngỡ mặt đất phủ sương)

Trăng không chỉ giới hạn ở nơi đầu giường, mà ánh trăng bao trùm cả không gian toả khắp căn phòng nơi tác giả nghỉ trọ. Trăng như dòng suối chảy miên man khắp đêm sâu. Cảnh vật như say dưới trăng, giữa khoảnh khắc đêm sâu như vậy, ánh trăng là chủ thế trong cuộc sống tĩnh lặng. Hơi thở của tạo vật đất trời cũng nhè nhẹ sợ làm vỡ tan cái êm dịu của đêm trăng.

Với Lý Bạch - một hiệp khách thì ánh trăng sáng trong quán trọ không phải là chuyện lạ. Nhưng với thi nhân thì ánh trăng đêm nay rất khác lạ. ánh trăng len lỏi vào tận đầu giường nơi tác giả nằm. Ánh trăng không phải là vô tri vô giác, nó như biết được nơi người hiệp khách dừng chân. Trăng chủ động tìm đếntrò chuyện, tâm sự cùng tác giả. Trong khoảnh khắc đêm

thâu tĩnh lặng, ánh trăng trong sáng và tinh khiết được tác giả chào đón nồng hậu. Trăng sáng quá, đẹp quá khiến tác giả:Nghi thị địa thượng sương

Ánh trăng rọi ngỡ là sương mặt đất, chỉ một hình ảnh thôi mà gợi cả một thế giới cảm xúc. Đây là một hiện tượng rất bình thường, nhưng với tác giả thì hiện tượng này tạo cảm hứng mãnh liệt. Sức liên tưởng kỳ lạ làm hình tượng thơ sống dậy. Trăng hay là sương bao phủ mặt đất? Trăng là thực mà lại không thực? Bằng chất lãng mạn, thi nhân đã nâng ánh trăng lên đến mức diệu kỳ. Vầng trăng trở nên như cõi thiên thai. Sương khói của ánh trăng làm cho câu thơ ngập trong không khí mơ màng, hư hư thực thực. Cả trăng và thi nhân đã giao hoà, giao cảm quyện làm một. Phải thật tĩnh lặng mới nghe được tiếng trò chuyện thầm thì của trăng và thi nhân. Một sự quan hệ qua lại như đền đáp ân huệ mà thiên nhiên ban tặng cho thi nhân cũng như lòng ngưỡng mộ của thi nhân với trăng. Rất tự nhiên, nhẹ nhàng thi nhân hướng về nàng tiên trong đêm sâu.

Cử đầu vọng minh nguyệt

Đê đầu tư cố hương

(Ngẩng đầu nhìn trăng sáng

Cúi đầu nhớ cố hương)

Tư thế nhìn trăng là một tư thế rất tự nhiên của thi nhân, trong giây phút ấy tác giả gửi trọn hồn mình cho trăng phút chốc tâm tư bỗng trĩu nặng rồi dồn nén vội quên đi cả vũ trụ đất trời đang mời gọi. Đê đầu nhớ về quê cũ yêu thương. Đêm nay trăng sáng nơi quê người, trong quán trọ trên bước đường lữ thứ, tâm hồn nhà thơ sau không khắc khoải bồn chồn. Ánh trăng đêm nay hay chính ánh trăng ngày nào trên núi Nga Mi hiện về. Bỗng chốc lòng tác giả nặng xuống với: quá khứ, hiện tại, tương lai đang trỗi dậy trong lòng. Phải chăng con người ấy đang muốn phủ nhận thực tại trở về quá khứ? Tình ở đây là tấm lòng thương nhớ quê hương, với Lý Bạch tấm lòng da diết khôn nguôi. Hơn nữa trong không gian vắng lặng ấy làm cho tác giả càng buồn hơn, nỗi nhớ sâu hơn, mãnh liệt hơn. Quê hương, nơi ông sinh ra và một thời gắn bó với nó, nhớ những kỷ niệm chăn trâu thổi sáo, những đêm hè gọi bạn ngắm trăng thâu. Tất cả giờ chỉ còn trong ký ức.

Quê hương là những gì thiêng liêng nhất, không chỉ Lý Bạch đêm nay nhìn trăng nhớ quê cũ. Ai ai cũng vậy, trong hoàn cảnh ấy quá khứ sao lại chẳng dội về. Có chăng trong những phút nao lòng ấy nhà thơ muốn thốt lên nỗi lòng kẻ xa quê bao năm chưa trở lại. Dẫu sao tình cảm của tác giả với quê hương cũng không bao giờ phai nhạt. Hạ Tri Chương cũng từng thốt lên tâm sự khi hồi hương.

Khi đi trẻ, lúc về già

Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác bao

Cái hồn quê, hương quê không thay đổi trong Hạ Tri Chương. Cũng như Lý Bạch quê hương đã trở thành máu, thành hồn.

Lý Bạch đã viết bài thơ bằng tình cảm chân thực, tình yêu cố hương được thể sống động trong ông. Ta bồi hồi trước chất lãng mạn cùa bài thơ, ta trân trọng nâng niu những tình cảm tự đáy lòng của nhà thơ. Điều này đã giúp ta hiểu, cảm được cái hay cái đẹp của nghệ thuật đích thực. Ai xa quê mà chẳng có tình cảm giống như ông. Tĩnh dạ tứ xứng đáng là một bản tình ca tâm hồn, là khúc nhạc chan chứa tình yêu quê hương của “thi tiên Lý Bạch”.

Tick đúng cho mình nha !
29 tháng 8 2017

Giá trị nội dung:

Bài thơ thể hiện một cách chân thực mà sâu sắc, hóm hỉnh mà ngậm ngùi tình yêu quê hương thắm thiết của một người sống xa quê lâu ngày, trong khoảnh khắc vừa mới đặt chân trở về quê cũ

Giá trị nghệ thuật:

   ●    Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt

   ●    Giọng thơ hóm hỉnh, ngậm ngùi

   ●    Phép đối

   ●    Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tự sự và biểu cảm