K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

22 tháng 5 2021

Sau khi học xong văn bản "Chiếu dời đô", em đã cảm nhận được nhiều điều sâu sắc. Thật vậy, theo em, đây chính là văn kiện lịch sử có tính quan trọng đối với vận mệnh của VN. Đầu tiên, em thấy được vai trò của những người lãnh đạo anh minh như Lý Công Uẩn. Chao ôi , ông chính là người lo lắng cho vận mệnh của dân tộc! Vì yêu nước thương dân mà vua Lý Công Uẩn quyết định rời đô để có thể yên ổn đời sống cho nhân dân. Sự dời chuyển kinh đô này chính là để tạo tiền đề cho sự phát triển hùng mạnh của dân tộc, là ý chí khát vọng tự cường ngàn đời của đất nước. Ông là người lãnh đạo anh minh, đặt lợi ích của nhân dân và dân tộc lên ưu tiên hàng đầu. Phải chăng quyết định rời chuyển kinh đô của Lý Công Uẩn là do ông sớm nhận ra điều kiện ở cố đô Hoa Lư không còn thích hợp cho nhân dân phát triển? Thứ hai, điều mà em cảm nhận được đó là sự trường tồn vĩnh cửu lâu bền hơn 1000 năm nay nhờ quyết định dời đô về thành Đại La của vua Lý Công Uẩn. Là một học sinh thủ đô, em ý thức được vai trò của mình trong việc cố gắng học tập thật tốt để xây dựng đất nước, tiếp bước cha anh mình.

23 tháng 5 2021

Trong 215 năm trị vì (từ 1010 đến 1225) của nhà Lý, có thể nói vị vua được nhắc đến nhiều nhất là vua Lý Thái Tổ - người đã khởi dựng triều đại nhà Lý, người đã xác lập cho nước ta một thủ đô chính thức khá sớm (từ năm 1010). Việc chọn Đại La (Thăng Long – tức Hà Nội bây giờ) làm trái tim của đất nước của Lý Thái Tổ đã khởi đầu lịch sử thủ đô Thăng Long-Hà Nội và góp phần tạo dựng truyền thống văn hiến và anh hùng của đất kinh kỳ.

 

Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn), lên ngôi vua lấy niên hiệu là Thuận Thiên (nghĩa là “theo ý trời”)(1). Quê làng Cổ Pháp (Từ Sơn, Bắc Ninh), sinh năm Giáp Tuất (974), mẹ chết khi ông còn nhỏ tuổi, nhờ sự nuôi dạy của hai thiền sư nổi tiếng uyên bác lúc bấy giờ là Lý Khánh Văn và Lý Vạn Hạnh ngay từ thuở nhỏ nên Lý Công Uẩn đã trở thành người xuất chúng, văn võ kiêm toàn.

Chí lớn tỏ rõ khác thường

Theo truyền thuyết, trước khi mẹ Lý Công uẩn (lúc này đang mang thai) đến chùa Ứng Tâm để xin ngủ nhờ thì sư trụ trì chùa Ứng Tâm đêm trước nằm mơ thấy Long thần báo mộng rằng: “Ngày mai dọn chùa cho sạch có Hoàng đế đến”. Truyền thuyết đã diễn tả cảnh Lý Công Uẩn ra đời như sau: Một đêm khu tam quan của chùa sáng rực hẳn lên, hương thơm ngào ngạt lan toả. Nhà sư cùng bà hộ chùa ra xem thì thấy người đàn bà ấy đã sinh một con trai hai bàn tay có bốn chữ son “Sơn hà xã tắc”.

Lớn lên, Lý Công Uẩn rất khôi ngô tuấn tú, lại thêm thông minh, dần dần biểu lộ một tính cách, chí khí đặc biệt. Có nhiều truyền thuyết về ông rất kỳ bí, ví như: Có một lần, nhà sư họ Lý sai Công Uẩn đem oản đặt lên bàn thờ cúng Phật. Cậu bé đã khoét oản ăn trước. Không hiểu sao nhà sư lại phát hiện được, bèn trách mắng Công Uẩn. Cậu tức lắm, cho là bức tượng Hộ pháp nhìn thấy đã mách sư, bèn đánh tượng ba cái tát, rồi lấy son viết mấy chữ “Đồ tam thiên lí” (Đày ba ngàn dặm) vào sau lưng tượng. Đêm đó sư Khánh Vân nằm mơ, thấy Hộ pháp buồn rầu, đến ngỏ lời từ biệt: “Hoàng đế đã phạt đày tôi đi xa, xin chào ông ở lại”. Sáng sớm, sư Khánh Vân lên chùa xem hư thực thế nào, thì quả thấy sau lưng bức tượng Hộ pháp có dòng chữ viết kết án như ông đã nằm mơ. Nhà sư bèn sai mấy chú tiểu múc nước rửa đi, nhưng chùi thế nào cũng không sạch. Khi cho gọi Lý Công Uẩn đến rửa, thì cậu chỉ lấy tay xoa xoa thì chữ đã biến mất!Ngày càng lớn thì chí khí và tầm hiểu biết của Công Uẩn ngày càng nâng cao, học một biết mười, rất giỏi giang, nhưng vẫn tinh nghịch như một đứa trẻ.

Tương truyền một lần, Công Uẩn bị sư Vạn Hạnh phạt, trói suốt đêm nơi cửa chùa. Bị muỗi đốt không ngủ được, Công Uẩn tức cảnh đọc bốn câu thơ đầy khẩu khí, bằng tiếng Hán, dịch Nôm ra như sau:

“Màn có trời cao, chiếu đất liền
Cùng trăng thanh thả giấc thần tiên
Suốt đêm nào dám vung chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng!”

(Lê Văn Uông dịch)

Sư Vạn Hạnh nghe được tự nhủ thầm: “Đứa bé này không phải người thường, sau lớn lên ắt có thể giải nguy, gỡ rối, làm bậc minh chúa trong thiên hạ đây!”, bèn hết sức chăm sóc dạy bảo(2).

Công Uẩn có tính không màng của cải vật chất, chỉ chú tâm vào việc tìm hiểu chữ nghĩa của thánh hiền. Nhưng khi học cậu không câu nệ vào kinh sử và nhờ sáng dạ nên rất chóng hiểu, biết dùng những điều học được để suy ngẫm việc đời.

Nhờ có học vấn, tài cán và với chí lớn tỏ rõ khác thường nên Công Uẩn sớm được tiến cử vào triều làm quan nhà Tiền Lê từ đời vua Lê Đại Hành (941 – 1005), đến đời Lê Ngọa Triều (986 – 1009) tới chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ, là một chức quan võ cao cấp, chỉ huy quân đội bảo vệ kinh đô.

Khi vua Lê Đại Hành đã mất, các vua sau này chơi bời trụy lạc, tranh giành ngôi vị chém giết lẫn nhau. Nhân dân trong nước đã tỏ ra quá chán ghét. Nhưng mãi đến năm 1010, khi Lê Long Đĩnh mất, lúc này Lý Công Uẩn đã ngoài 35 tuổi. Vua kế tự Long Đĩnh còn nhỏ, Lý Công Uẩn đang là chỉ huy quân túc vệ trong coi cung cấm với tài học vấn uyên thâm và nhiều tài cán nên được quan Chi hậu nhà Tiền Lê là Đào Cam Mộc cùng các quan trong triều tôn lên ngôi vua. Và đó chính là Lý Thái Tổ, vị vua khai sinh ra triều Lý. Vua trị vì 19 năm thì mất, mất năm Mậu Thìn (1028), thọ 55 tuổi. Ông được táng ở Thọ Lăng, Thiên Đức phủ, miếu hiệu là Thái Tổ, thụy hiệu là Thần Vũ Hoàng đế(3).

Tầm nhìn xa, trông rộng

Lên ngôi vua, công việc đầu tiên của Lý Thái Tổ là dời đô. Mặc dù đất Hoa Lư vốn là kinh đô của nước ta hơn bốn chục năm trời suốt từ thời Đinh (968 – 979) đến thời Tiền Lê (980 – 1009)(4) nhưng Lý Thái Tổ nhận thấy vùng đất này rất chật hẹp không đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước thời bấy giờ, nên đã quyết định chọn vùng đất khác là Đại La, một trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, quân sự… làm thủ đô cả nước. Trong chiếu dời đô, Lý Công Uẩn đã lập luận một cách xác đáng như sau: “… Đại La… ở chính giữa bờ cõi đất nước, được cái thế rồng cuộn, hổ ngồi, vị trí chính phương Đông, Tây, Nam, Bắc – tiện cho chiều hướng thuận nghịch của núi sông. Ở đó, địa thế vừa rộng, vừa phẳng, vùng đất vừa cao vừa sáng, dân cư không lo nạn lụt lội đắm đuối, muôn vật cũng rất phong phú tốt tươi. Ngắm khắp nước Việt ta duy đó là thắng địa, thật là nơi then chốt của bốn phương hội lại và cũng là nơi đô thành bậc nhất của đế vương muôn đời…” (trích dịch theo Đại Việt Sử Kí Toàn Thư). Vị vua khởi xướng triều đại nhà Lý đã chọn cho nước ta một thủ đô mới, điều đó đã thể hiện tầm nhìn xa, trông rộng của ông rất đúng đắn.

Tháng 7 năm năm 1010 vua khởi sự dời đô từ thành Hoa Lư dời đô ra phủ thành Đại La. Tương truyền khi thuyền vua đang tạm đỗ dưới thành, có rồng vàng hiện lên ở thuyền ngự. Vua nhân đó gọi Đại La là Thăng Long nghĩa là “rồng bay lên”, đổi Hoa Lư thành phủ Tràng An và Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức. Từ đó, biết bao thế hệ cha ông ta đã gắn bó máu thịt để xây dựng, bảo vệ, mở mang liên tục vùng đất Thăng Long thiêng liêng ấy. Trãi qua thăng trầm của lịch sử, ngày nay Thăng Long đã trở thành thủ đô Hà Nội, trái tim của đất nước, là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam.

Trong những năm trị vị, vua đã chỉnh đốn việc cai trị chia nước làm 24 lộ, gọi Hoang Châu và Ái Châu là trại, các thế lực cát cứ địa phương bị dẹp yên. Nhà vua đặc biệt chăm lo đời sống chính trị, tư tưởng, kinh tế và xã hội cho nhân dân, được chính sử đánh giá là “khoan thứ, nhân từ, tinh tế, hoà nhã, có lượng đế vương”(5). Lý Thái Tổ đã xây dựng một nền móng vững chắc cho vương triều của mình, đem lại cho nhân dân cuộc sống an nhàn và thịnh vượng.

Lý Công Uẩn, với tất cả trí thông minh, chí khí lớn, sự hiểu biết và tầm nhìn xa trông rộng của mình thực sự là người con ưu tú của dân tộc. Ông đã cùng triều Lý làm rạng danh nước Đại Việt, viết nên những trang sử oanh liệt về dựng, giữ nước và để lại những dấu ấn đẹp đẽ trong kí ức và tình cảm của nhân dân. 

20 tháng 3 2022

đánh số câu ý là sao?

20 tháng 3 2022

1........ 2.......3.......

7 tháng 7 2021

Xưa nhà Thương nhà thương đến vua Bàn Canh năm lần dời đô; nhà Chu đến vua Thành Vương cũng ba lần dời đô. Phải đâu các vua thời Tam đại theo ý riêng mình mà tự tiện chuyển dời? Chỉ vì muốn đóng đô ở nơi trung tâm, mưu toan nghiệp lớn, tính kế muôn đời cho con cháu; trên vâng mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu thấy thuận tiện thì thay đổi. Cho nên vận nước lâu dài, phong tục phồn thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng mình, khinh thường mệnh trời, không noi theo dấu cũ của Thương, Chu, cứ đóng yên đô thành ở đây, khiến cho triều đại không được lâu bền, số phận ngắn ngủi, trăm họ phải hao tốn, muôn vật không được thích nghi. Trẫm rất đau xót về việc đó, không thể không dời đổi.

27 tháng 11 2021

địa hình màu mỡ, hiểm trở

7 tháng 9 2023

Tham khảo!

- Câu chuyện đã bồi đắp thêm cho em lòng yêu nước, yêu tiếng nói của dân tộc mình.

- Một lời nhắc nhở nhẹ nhàng hãy biết yêu quý tiếng nói dân tộc mình, yêu tiếng nói dân tộc cũng là yêu nước vì tiếng nói là tài sản quý báu của mỗi dân tộc, thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc. Đó là bài học em rút ra được sau khi học xong truyện.

13 tháng 12 2018

Giống nhau:

- Hai thể loại văn học này đều bắt nguồn từ Trung Quốc, do vua chúa ban hành. Cả hai loại văn này đều nhằm mục đích ban bố công khai, là lời của bề trên nói với kẻ dưới, có sức ảnh hưởng lớn với quốc gia, xã tắc.

- Về nghệ thuật, văn phong mang tính chính luận nên ngôn từ súc tích, ngắn gọn, mang sắc thái trang trọng, lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục với người nghe. Được viết bằng văn xuôi, văn vần hoặc văn biền ngẫu.

Khác nhau:

- Chiếu được dùng để kêu gọi mọi người nghe theo một chủ trương, chính sách nào đó. Chỉ vua mới có quyền viết chiếu.

- Hịch: thường do vua chúa hoặc thủ lĩnh viết với mục đích khích lệ tinh thần chiến đấu, tinh thần đoàn kết của nhân dân hoặc binh sĩ.

26 tháng 2 2022

Có cái con cặc

 

12 tháng 4 2023

Bài chiếu dời đô đã thể hiện khát vọng đất nước được tự do, độc lập và đánh đuổi được quân xâm lược của nhà vua và nhân dân ta. 

Qua đó, em thấy tác giả là người có tư tưởng to lớn cùng với sự thông minh và lòng nhân ái.

3 tháng 3 2019

Kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén, dẫn chứng minh xác, lí lẽ đầy sức thuyết phục.

27 tháng 5 2018

Bài chiếu cho thấy sự thấu tình đạt lí, thể hiện sự anh minh của nhà vua trong sự nghiệp gây dựng đất nước