K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

17 tháng 2 2021

1. Về đề tài: Lần đầu tiên trong văn học phương Tây, tình yêu được đề cập một cách chân thực, có tính cách mẫu mực (classique) ở sự mở đầu, diễn biến và phát triển của nó; ở tính chất, cường độ, ý nghĩa của tình cảm. Lược qua mảng đề tài này trong văn học phương Tây trước Shakespeare, vấn đề thực sự sáng rõ.

Trong thần thoại Hy Lạp, tình yêu đã được nói đến cùng với sự xuất hiện của con người ở thời kỳ cổ đại. Nhưng tình yêu lúc đó chỉ là những mối tình đơn tuyến, hay đơn phương giữa các vị thần Hy Lạp và những con người trần tục, hay giữa các vị thần có quyền uy với những tiên nữ yếu đuối. Cho nên mới có huyền thoại về niềm say đắm của thần Apollon đã khiến cho tiên nữ Daphnée phải thoát trần biến thành cây nguyệt quế. Cho nên cũng lại có đầy rẫy những câu chuyện ngoại tình của ông tổ của những kẻ trăng hoa là Zeus... Và cũng lại có bấy nhiêu những kiếp người đoản mệnh phải trở thành nạn nhân của “Hoạn Thư cổ đại” là bà Héra...

Trong sử thi của Homère, tình yêu không có tầm quan trọng to lớn, không có một ý nghĩa đích thực vốn có. Có chăng, nó được thể hiện qua hình thức hôn nhân - gia đình của các nhân vật trần thế: Hector - Andromaque, Ulysse - Pénélope; hay có chăng nó bị lên án là vô luân lý (Paris - Héllène) vì nó gây ra một cuộc chiến đẫm máu giữa hai tộc người cổ đại (Hellas - Troie); hay có chăng nữa, nó không sâu sắc, nó cũng một chiều (Achille - Briséis),...

Trong thơ trữ tình cổ đại, với Sapho, tình yêu là ngọn lửa của dòng máu hơn là nhiệt huyết của con tim.

Trong bi kịch Hy Lạp cổ đại, nhân vật không biết đến tình yêu theo nghĩa lãng mạn. Hémon xuất hiện là để bày tỏ thái độ với cha, vì cha, chứ không phải vì Antigone mà chàng sẽ cưới và đã không bao giờ cưới được; Jason lại lợi dụng Médée; Phèdre thì yêu một cách tội lỗi và bệnh hoạn qua dục vọng xác thịt do thần Venus giật dây,...

Virgile của văn học La Mã cổ đại đã nói đến những rung động của tình yêu theo kiểu “một thoáng hôn mê dịu nhẹ xâm chiếm tâm hồn người dũng tướng Troie”, nhưng rồi nhân vật của ông, cả Énée, cả Didon, cuối cùng đều “đặt tình yêu xuống chân sự nghiệp”.

Tristant và Iseult của truyện tình hiệp sĩ thời Trung cổ gắn bó với nhau đến tận cuối đời vì cùng uống phải men Yêu.
Đầu thời Phục Hưng, tình yêu của Pétraque, của Dante mang tinh thần tôn giáo, còn Boccaccio mãnh liệt nhưng nhuốm màu tự nhiên chủ nghĩa.

Tóm lại, trước Shakespeare, tình yêu trong văn học phương Tây chưa phải là một tình yêu đích thực, đúng nghĩa của tình yêu. Chỉ đến Shakespeare, người ta mới có thể tìm thấy hình mẫu của một tình yêu đích thực (Í amour modèle).

Với Romeo and Juliet, tình yêu đã đi những bước khởi đầu hữu lý của nó từ sự rung động của hai con tim trên cơ sở triết lý tự nhiên của thời đại Phục Hưng. Để có được sự rung động thuyết phục, Shakespeare đã để cho hai nhân vật phải lòng nhau bởi hình thức tuyệt mĩ mà con người thời đại Phục Hưng được dịp phô bày sau đêm trường Trung cổ phải che đậy. Chàng Romeo ngơ ngẩn trước nhan sắc “tuyệt thế” của nàng Juliet mà chàng coi là “báu vật” và quyết định “khi bản đàn chấm dứt sẽ tìm đến chỗ nàng để bàn tay phàm tục này được diễm phúc nắm tay người đẹp” (Hồi I, Cảnh 1). Còn nàng Juliet cũng xiêu lòng trước vẻ hào hoa phong nhã của Romeo mà cha nàng đã từng khen là “đàng hoàng lịch sự”, “đức hạnh”, “mực thước”, và khi đổi trao đến nụ hôn thứ hai đã quyết định bất ngờ: “Nếu chàng đã có vợ rồi thì có lẽ nấm mộ kia sẽ là giường cưới của ta” (Hồi I, Cảnh 1).

Như vậy từ buổi dạ yến định mệnh ở nhà Capiulet, Romeo và Juliet đã thuộc về nhau cả tâm hồn lẫn thể phách bởi một tình yêu trong sáng, nồng nhiệt, say đắm và thủy chung, mặc dầu họ không được phép yêu nhau bởi họ là con cái của hai bên thù địch.

Nhưng nhờ yêu nhau say đắm và mãnh liệt, họ đã vượt qua được những trở ngại ban đầu: mối thù dòng họ.
Cũng nhờ say đắm nhưng lành mạnh và nghiêm túc, đôi bạn mà tuổi đời vừa chớm hoa niên này đã tính chuyện trăm năm khiến những kẻ thiếu thiện ý không khỏi nghi ngờ: “Chàng ơi, em muốn chẳng vượt vòng lễ giáo... Nhưng thôi, khách sáo làm gì?... Chàng Romeo phong nhã hỡi, nếu chàng yêu em thì xin cứ thẳng thắn nói lên... Nếu tình ai kia là của người chính nhân quân tử, nếu ý chàng là muốn cùng em kết tóc xe tơ, thì ngày mai em sẽ cho người đến gặp chàng; chàng sẽ cho biết chàng muốn hôn lễ cử hành ngày nào, chỗ nào. Lúc đó em xin trao thân gửi phận trong tay chàng và nguyện theo phu quân tới nơi chân trời góc biển” (Hồi II, Cảnh 2). Và Romeo đã hẹn nàng “chín giờ” “ngày mai” (Người ta sẽ còn nói nhiều về mối tình sét đánh chỉ vẻn vẹn 4 ngày này trong suốt hơn 4 thế kỷ sau).

Cũng nhờ say đắm, cô tiểu thư khuê các Juliet chưa đến độ trăng rằm đã có đủ nghị lực và lòng dũng cảm để bảo vệ tình yêu trước nghịch cảnh và tử thần, để chung thủy với người mà mình lựa chọn. Còn chàng Romeo tuấn tú? Nếu như trong tác phẩm, Shakespeare không một lần để ai đó nghi ngờ lòng chung thủy của nàng Juliet, thì ông lại để cho mọi người chỉ trích quá nhiều đến chàng Romeo “hay thay lòng đổi dạ”:

Mercutio: “... Romeo! con người hay thay đổi, con người điên rồ, con người yêu đương say đắm, con người si tình kia ơi!... (Hồi II, Cảnh 1)
Tu sĩ Lawrence : “Lạy thánh Franxit! Thay đổi nhanh chưa! Con yêu Rôdalin thiết tha như vậy mà đã vội quên người ta sao?... này chàng trai trẻ dễ thay dạ đổi lòng kia,...” (Hồi III, Cảnh 3)

Nhưng có cần phải minh oan cho chàng không, khi rõ ràng nàng Rosaline mà Romeo si mê trước đó đã không thể sánh tày nàng Juliet về nhan sắc: “Tim ta tới nay đã yêu ai chưa nhỉ? Không, không, hỡi đôi mắt ta ơi, hãy nói là chưa đi! Vì chỉ tới đêm nay ta mới được thấy một con người thật là tuyệt sắc!” (Hồi I, Cảnh 5). Và hơn nữa, Rosaline đã không xứng đáng với chàng, vì tình yêu cũng cần được nuôi dưỡng bởi sự đáp đền, bởi cho và nhận... Vậy mà, với Rosaline, Romeo chỉ nhận được... nỗi buồn “tôi chẳng được yêu đâu”, bởi cô gái này có “đức kiên trinh che chở như áo giáp, cung tên trò trẻ của thần Ái tình phạm sao tới được người nàng!” (Hồi I, Cảnh 1). Cho nên đáp lại sự chế giễu của cha Lawrence , Romeo đã khẳng định có cơ sở rằng: “Người yêu của con hiện giờ thì ân trả lại ân, tình đáp lại tình. Chẳng như cô ả kia đâu”.

Chính sự hòa hợp giữa hai tâm hồn mới là cơ sở cho một tình yêu đích thực vững bền. Romeo và Juliet là một đôi như thế. Hành động cùng chết bên nhau của họ đã là dấu ấn sau này mang “thương hiệu”: “Romeo-Juliet”. Một người dễ “thay lòng đổi dạ” sẽ không lao đến với cái chết khi quan niệm “thiên đường là nơi có nàng Juliet” như Romeo. Một người “hay thay đổi” không thể gấp gáp và tuyệt vọng như thế khi đi mua thuốc độc để tự tử bởi nhận được tin vợ mình đã chết. Và một người “hay thay đổi” sẽ không có được vẻ hài lòng như thế khi quyết “nâng chén vì em” (uống thuốc độc) và mãn nguyện như thế khi nói: “Thế là ta được hôn nàng mà chết” như Romeo.

Kể từ đó, những người lấy tình yêu làm lẽ sống không ai không trải qua những cung bậc thống thiết đó của tình yêu. Nhưng điều làm nên tầm vóc lý tưởng của mối tình Romeo-Juliet còn là ở chỗ nó khẳng định một giai đoạn đẹp đẽ nhất của tình yêu khi tình yêu chưa bị va chạm với những mặt trái như lòng ghen tuông và sự dung tục tầm thường của cuộc đời chồng- vợ.

2. Về nhân vật: Sự khẳng định tình yêu chân chính, tình yêu đích thực còn được Shakespeare thể hiện qua nghệ thuật xây dựng nhân vật. Ngoài ngoại hình lý tưởng, Shakespeare còn chú trọng mô tả nội tâm nhân vật sao cho phù hợp với cái logic khách quan của hành động. Ông đã đặt người con gái liễu yếu đào tơ Juliet trước những thử thách vô cùng khốc liệt để qua đó nhằm khẳng định lòng chung thủy của nàng. Với Juliet, những thử thách bên ngoài (mối thù dòng họ, lễ giáo phong kiến) đã được vượt qua không mấy khó khăn bởi vì cũng như Romeo, nàng cho thấy “Cái gì tình yêu dám làm là làm được”, nhưng khi phải đối diện với bản thân mình, vấn đề không còn đơn giản. Ở đây Shakespeare đã chuyển xung đột kịch từ bên ngoài (xung đột giữa nhân vật với môi trường sống) vào bên trong tâm hồn nhân vật, đem lại cho nghệ thuật văn chương bước trưởng thành đáng chú ý.

Trong tiến trình vở kịch, sau khi Romeo bị trục xuất khỏi Vérone vì phạm tôi giết người, Juliet bị cha mẹ ép phải kết hôn với chàng Paris mà nàng đã phản đối vì “chưa từng trò chuyện với người ta bao giờ”, nhưng vẫn không thuyết phục được mẹ cha. Điều khủng khiếp nhất có thể xảy ra - đó là phải làm vợ một người mà nàng không yêu và phải xa vĩnh viễn người nàng yêu say đắm - đã dẫn Juliet đến gặp cha Lawrence , nhờ cha giải thoát. Và cũng chính khát vọng được sống cùng Romeo đã cho nàng can đảm để đón nhận giải pháp của ông tu sĩ tốt bụng, uống thuốc ngủ vờ chết trong 42 giờ đồng hồ: “Cha đưa thuốc cho con! Xin cha cứ đưa, và đừng nói chuyện sợ hãi gì cả!... Ôi tình yêu, ngươi sẽ cho ta sức mạnh! Sức mạnh của tình yêu sẽ giúp ta thành công” (Hồi IV, Cảnh 1).

Những tưởng mọi chuyện sẽ diễn ra trôi chảy như quyết tâm của nhân vật chính. Nhưng nếu như mọi chuyện diễn ra trôi chảy, giá trị thẩm mĩ của tác phẩm sẽ mờ nhạt đi biết mấy. Shakespeare không tầm thường để kết cấu tác phẩm không giàu kịch tính. Có thể nói, đoạn độc thoại nội tâm của Juliet trước lúc uống thuốc ngủ ở Cảnh 3, Hồi IV là một ngữ cảnh vô song góp phần làm nên vẻ đẹp của kiệt tác mà ít người chú ý. Đoạn độc thoại nội tâm của Juliet với gần 500 từ nói lên tất cả lòng dũng cảm và nghị lực, lẫn những trở trăn dằn vặt và cả nỗi sợ hãi, sự thỏa hiệp rất đỗi Con người của nàng Juliet.

Khi còn lại một mình, thoạt đầu Juliet đã vô cùng sợ hãi, đến nỗi nàng đã định gọi mẹ và nhũ mẫu ở lại: “Một mối lo sợ không đâu đã thấm lạnh vào mạch máu ta, hình như làm ngưng đọng cả hơi nóng của đời sống” Phải gọi họ lại cho đỡ sợ...”. Nhưng rồi nhận thức rõ ý nghĩa hành động của mình, nàng trấn tĩnh lại và ra lệnh cho bản thân: “Cái màn kịch hãi hùng này ta phải diễn một mình. Nào, cầm lấy lọ này!”. Chỉ cần một ngụm thôi, nàng có thể trở thành người hạnh phúc nhất... Nhưng Juliet bỗng trở nên lưỡng lự: “... nhỡ thuốc không hiệu nghiệm thì sao?” và nghĩ đến điều xấu nhất: “Sáng mai ta sẽ phải làm vợ người ta chăng?”. Nếu thế nàng đã có phương án dự phòng chứ nhất quyết không chịu làm vợ chàng Paris : “Không, không. Vật này sẽ không cho phép việc đó xảy ra”, và nàng “đặt một lưỡi dao găm xuống cạnh giường”. Đến đây ta có thể yên tâm vì biết rằng Juliet sẽ không thay đổi thái độ. Vậy nhưng Shakespeare lại “trêu ghẹo cảm xúc của khán giả”, bắt chúng ta phải hồi hộp khi để cô bé Juliet đa nghi như một người từng trải: “Nhưng nhỡ thuốc đây là thuốc độc mà ông thầy tu đa mưu kia muốn dùng để giết ta thì sao? Có thể ông sợ rằng lễ thành hôn này sẽ làm ông mất danh dự, vì trước kia ông đã làm phép cưới cho ta và Romeo rồi chăng? Ta sợ ông ta làm thế mất”. Và như thế có nghĩa nàng sợ chết. Nhưng rồi nàng lại phủ nhận sự nghi ngờ đó và thấy mình không phải: “... không, không thể thế được. Từ trước đến nay ai cũng công nhận người là một thánh nhân... Ta không nên nghĩ bậy như vậy”.

Rõ ràng Juliet đã nghi ngờ lòng tốt của vị tu sĩ đáng kính, song lại chẳng hề nghi ngờ tình yêu của Romeo dành cho mình và của mình dành cho Romeo! Nhưng nàng vẫn không thể lấy tình yêu để trấn an mình khi tưởng tượng nỗi hãi hùng của hầm mộ mà mình sẽ nằm vào đấy: “Nhưng nếu một khi họ đã đặt ta vào trong hầm mộ, mà ta tỉnh dậy trước khi Romeo tới để đưa ta ra khỏi nơi đó thì sao? Ôi thật là kinh khủng! Phải chăng ta sẽ bị ngạt trong cái hầm ấy?... Phải chăng ta sẽ ngạt thở mà chết trước khi Romeo tới kịp?”. Nỗi sợ phải chết lại bám riết lấy nàng, dẫn nàng đi xa hơn: “Hay nếu có sống được chăng nữa, giữa cảnh chết chóc âm u, ở một nơi kinh khiếp như vậy, thì cũng đến... hóa điên mất!”. Ôi, Juliet đáng thương! Nàng bé bỏng, cô đơn, yếu đuối, nàng bấn loạn là lẽ thường tình. Ai ở vào tình cảnh đó mà ung dung tự tại mới là kẻ không bình thường, mới là giả dối. Do đó, đây là nỗi sợ hãi mang tính người nhiều nhất mà nhà hiện thực chủ nghĩa Shakespeare đã phanh phui ra được, như một nhược điểm trong tâm lý của người đời. Nỗi sợ hãi này còn khủng khiếp hơn cả cái chết. Bởi nếu chết đi, nàng sẽ không còn phải sợ, không còn phải buồn, không còn phải tuyệt vọng... Điều đáng chú ý là dù tuyệt vọng như thế nhưng không mảy may Juliet nghĩ mình phải làm ngược lại để trốn chạy nỗi sợ. Có thể người con gái mỏng manh này thay đổi thái độ được lắm chứ (dù chỉ trong suy nghĩ): Tại sao nàng phải tự hành hạ mình? Chỉ cần nỗi sợ này chiến thắng, chỉ cần dừng tay lại, vứt lọ thuốc đi, Juliet sẽ có tất cả: sự sống, danh vọng, địa vị, tiền tài, bởi chàng Paris sẽ cho nàng tất cả những thứ kia. Đúng, nàng sẽ có tất cả, duy chỉ không có tình yêu. Tình yêu mà vì nó cả thân thể và tâm hồn nàng bị vò xé như thế này đây. Tình yêu mà từ ba hôm trước, đã trở thành lẽ sống của cả cuộc đời nàng. Vậy thì làm sao mà người con gái kiên cường này lại có thể phản bội tình yêu dù chỉ trong ý nghĩ! Quả Juliet đã không hề hèn nhát. Thậm chí trong tột cùng nỗi sợ của riêng mình, nàng vẫn lo lắng cho người yêu, sợ rằng người anh họ đã chết của nàng có thể báo thù người mà nàng yêu dấu: “Ô kìa, hình như ta thấy bóng ma của biểu huynh bị gươm Romeo đâm thủng ngực đang đi tìm chàng...”. Và nàng cuống quít, như là để bảo vệ cho bằng được người yêu: “Đứng lại, Tibân! Hãy đứng lại!... Romeo hỡi, em đến đây!”. Thế rồi lọ thuốc được đưa lên, còn Juliet thì ngã xuống...

Ở cuối đoạn độc thoại nội tâm của Juliet, hình ảnh sau cùng mà nàng mang theo chính là hình ảnh chói lọi của Romeo. Chỉ nó thôi đã thiêu đốt nỗi sợ hãi của Juliet ra tro. Nếu tình yêu của Juliet dành cho Romeo chỉ là những tình cảm nhất thời, hẳn nàng sẽ chẳng đủ nghị lực để đương đầu với tất cả, những thử thách bên ngoài và cả những thử thách bên trong: mối thù dòng họ, lễ giáo phong kiến, xung đột anh em, sự trái ngang của duyên phận, sự tuyệt vọng trước chia ly, nỗi sợ hãi trong hầm mộ,... Chính tình yêu đã cho nàng sức mạnh, đặc biệt là khi nàng phải đối diện với nỗi sợ hãi lớn nhất - đó là nỗi sợ không chế ngự được bản thân mình.

Như thế tình yêu của Juliet dành cho Romeo thật đáng ao ước biết bao.

Cũng có lẽ từ đây, nhờ biện pháp khắc họa tâm lý nhân vật tài tình của Shakespeare mà người đời tìm thấy mình trong nhân vật của ông. Shakespeare đã khái quát được những trạng thái tình cảm chân thực của con người, đặc biệt là người con gái khi yêu. Có phải thế chăng mà Flaubert mới nói: “Virgile xây dựng người đàn bà yêu đương, Shakespeare thì xây dựng người con gái yêu đương, và tất cả những người phụ nữ yêu đương khác đều là bản sao ít nhiều xa gần so với Didon hoặc Juliet”.

3. Về thể loại: Nói đến bi kịch là nói đến kết cấu của sự trình bày, thắt nút và mở nút một xung đột kịch, mà kết thúc bao giờ cũng là sự hủy diệt, tiêu vong hay tổn thất lớn lao của nhân vật chính - người anh hùng chiến bại.
Romeo và Juliet là hiện thân của một tình yêu đẹp, một tình yêu đích thực và lý tưởng, có sức lôi cuốn diệu kỳ và đánh thức mọi trái tim khao khát yêu đương. Qua bao thăng trầm, tình yêu ấy vẫn tỏa sáng, vẹn nguyên trong lòng độc giả. Có được thành công đó của tác phẩm, Shakespeare tỏ ra tài hoa ở từng chi tiết nghệ thuật lẫn ở sự lựa chọn đầy bản lĩnh về mặt thể loại. Tại sao ông lại biến đổi một cách tàn nhẫn câu chuyện có thật về kết thúc đẹp đẽ của chuyện tình chàng Romeo và nàng Juliet Trung cổ thành thảm thương đến vậy? Tại sao ông lại rời xa cảm hứng hài kịch cũng đã đem lại cho ông bao vinh quang trước đó? Trả lời những câu hỏi này cũng là nhằm khẳng định thêm tài năng của tác giả và giá trị của tác phẩm.

Báo Phụ nữ Việt Nam số ra ngày 11/12/1991 cung cấp một thông tin về Romeo và Juliet: “Gần đây các nhà Sêchxpia học khi tìm nguyên mẫu của “bức tượng đài tình yêu” đã phát hiện thiên diễm tình đó chỉ là sáng tạo của thiên tài Sêchxpia. Trong đời thực, câu chuyện Rômêô và Giuliet được tiếp tục bởi cha Lôrân đã kịp thời ngăn chặn tai biến, hai người không chết, kết hôn, sống bình thường - tẻ nhạt như những đôi vợ chồng bất hạnh khác trên đời”. Nếu trung thành với tài liệu đó của cuộc sống, hẳn Shakespeare chỉ có thể viết nên một vở mélodrame thông tục mà sức sống không thể dài bằng một bi kịch (tragédie). Ở vào một thời điểm là thời đại Phục Hưng vốn đang thừa hưởng những thành quả rực rỡ của những kiệt tác bi kịch của người Hy Lạp cổ, không thể nói là Shakespeare không chịu ảnh hưởng từ di sản đó, trong khi đó bi kịch được đánh giá là một thể loại cao quí, một “bông hoa tuyệt đẹp” (chữ dùng của A.Camus), hẳn Shakespeare có đủ lý do để biến một vở drame - hôn - nhân thành một bi - kịch - tình - yêu.

Có thể hiểu có hai lý do để Shakespeare kết thúc cuộc tình của Romeo - Juliet bằng cái chết. Thứ nhất, dù tình yêu đồng nghĩa với những gì lãng mạn nhất, nhưng tình yêu Romeo và Juliet không tồn tại ở một thế giới siêu nhiên nào, nó là sản phẩm của thời đại Phục Hưng, thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa, Shakespeare đủ sáng suốt để không sa vào ảo tưởng, ông biết chủ nghĩa nhân văn chưa thể cắm cờ toàn thắng. Lý do thứ hai có cơ sở từ lý do đầu tiên: đó là hiện thực cuộc sống thời Phục Hưng tràn đầy những mâu thuẫn xã hội khốc liệt phù hợp với loại hình bi kịch.Cái chết của Romeo và Juliet là kết quả những mâu thuẫn không giải quyết được của thời đại, hay để giải quyết mâu thuẫn, Shakespeare đã đưa ra giải pháp hy sinh những đứa con lý tưởng của mình, bởi những tệ nạn xã hội đương thời như mối thù dòng họ, lễ giáo phong kiến không dễ gì xóa bỏ (bằng chứng là vương chủ bó tay, hai họ không kiềm chế được). Có thể Shakespeare cũng không ngăn nổi dòng lệ khi để cho Romeo và Juliet phải chết, nhưng với nhãn quan sáng suốt của mình, ông biết họ là những kẻ “tử vì đạo”. Ông buộc phải mượn cái chết của đôi trai gái để “giết” luôn một di sản đồi bại của chế độ phong kiến Trung cổ. Và ông đã làm được điều đó: “Trên xác con cha mẹ mới quên thù” (Tự ngôn, Hồi I). Cái chết của Romeo và Juliet đánh dấu sự thắng lợi của lý tưởng nhân văn: dù phải trả giá đắt, cái mới cần phải được xác lập. Tính chất chiến đấu của tác phẩm, vì thế càng trở nên mạnh mẽ. Từ đây nhân loại có thể bước vào kỷ nguyên của tình yêu tự do, hôn nhân tự nguyện, mà Romeo và Juliet là hai kẻ tiên phong.

Như vậy, bằng thiên tài nghệ thuật của mình, Shakespeare đã để lại dấu ấn không thể phai mờ trong lòng người đọc. Ông đã sinh thành nên những đứa con đẹp nhất cho cõi trần gian. Bức tranh văn học thế giới sẽ trống vắng biết chừng nào nếu thiếu vắng Shakespeare! Ai đó đã nói không thể đúng hơn rằng, nếu như có dịp quảng bá nền văn minh của Trái đất ra ngoài hành tinh thì tác phẩm của Shakespeare sẽ được lựa chọn (nó đã được ghi vào đĩa CD do các con tàu vũ trụ mang vào giải Ngân hà - Báo Tiền phong số 138, 11/1998). Ý kiến đó nhất định sẽ được biểu dương đồng tình, nhất là khi ta tự hào có Romeo and Juliet để mang theo.

17 tháng 2 2021

xin lỗi coppy mik ko k

19 tháng 10 2021

Em tham khảo:

“Thương vợ” – một trong những bài thơ chất chứa nồng nàn bao cảm xúc của một người chồng dành cho vợ mình giữa cuộc đời bao vất vả, lo toan. Người chồng ấy không phải ai khác mà chính là tác giả của bài thơ: Trần Tế Xương. Ông đã dành cho vợ mình những tình cảm rất chân thành qua lời thơ giản dị mà sâu sắc.
    Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ trẻ với những tác phẩm đã trở thành bất tử. Sáng tác của ông gồm hai mảng: trào phúng và trữ tình, đều bắt nguồn từ tâm huyết của nhà thơ với dân, với nước, với đời.    Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi đang còn sống lại càng hiếm hoi hơn. Thơ Trần Tế Xương lại khác. Trong sáng tác của ông, có hẳn một đề tài về bà Tú gồm cả thơ, văn tế, câu đối. Bà Tú từng chịu nhiều vất vả gian truân trong cuộc đời, nhưng bà lại có niềm hạnh phúc là ngay lúc còn sống đã được đi vào thơ ông Tú với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. “Thương vợ” là một trong những bài thơ hay và cảm động nhất của Tú Xương viết về bà Tú.      Trong những câu thơ đầu, ông miêu tả rất chân thực về cuộc sống và gánh vác nặng nhọ của vợ mình. Nghề của bà là buôn bán, quanh năm ngày tháng lặn lội ở “mom sông” – nơi có nhiều hiểm nguy rình rập. Ông Tú ngày đêm bận bịu với đèn sách, với thơ ca, vậy mà vẫn để tâm đến công việc của vợ mình, khác hẳn với những người đàn ông khác trong chế độ nam quyền cùng thời. Ông là người có tri thức, lại thấu hiểu sự đời. Vì thế, ông hiểu hơn ai hết những nỗi vất lo toàn mà vợ mình đang gánh.      Ông đã dành cho vợ những lời thơ rất giản dị với hình ảnh và từ ngữ chân thành, giàu cảm xúc. Ông hiểu rằng, vợ mình vất vả như vậy là vì phải “Nuôi đủ năm con với một chồng”. Đủ là đủ ăn đủ mặc, đủ ấm, đủ không thiếu thứ gì. Ông tự đặt mình cân xứng với “năm con” để khắc họa thêm trọng trách lớn lao mà bà Tú đang đảm đương. Không phải ông hạ mình trước vợ, càng không phải ông thấp hèn, kém cỏi mà vì cái nghiệp văn chương của ông lúc bấy giờ không phải là thời thịnh nên không thể dựa vào đó mà lo toan cuộc mưu sinh cơm áo gạo tiền được. Trong lời thơ của ông còn thầm có sự biết ơn, trân trọng sâu sắc đến người vợ đảm đang, tảo tần, giàu hi sinh. Bởi thế, ông mới hiểu những ngày bà “lặn lội”, “eo sèo” trong cuộc bán buôn, bon chen đầy vất vả, ganh đua.      Có người đặt ra câu hỏi, tại sao ông hiểu vợ mình vất vả như vậy mà lại không đứng lên làm giúp bà? Những vần thơ của ông có mang lại cơm áo gạo tiền cho bà đỡ vất vả? Ông hiểu biết, ông có tri thức sao lại để vợ mình phải vất vả vậy? Câu hỏi trái ngang thật khó trả lời. Bởi trong thời thế ấy, ông không thể bỏ cây bút mà lao vào làm lụng chân tay cùng bà được. Mình bà gánh vác cả năm con đã là một gánh nặng lắm rồi, lại thêm cả một ông chồng. Liệu rằng người phụ nữ ấy có gục ngã, có kêu than?     Một lần nữa, Tế Xương dành cho vợ mình những lời thơ rất đáng trân trọng, nâng niu. Ông cảm mến và cảm thông với nỗi niềm vất vả của vợ, ông thấu hiểu sự cam chịu của bà. Càng biết ơn vợ bao nhiêu, ông lại càng oán than bản thân mình bấy nhiêu. Ông tự chửi mình “Có chồng hờ hững cũng như không”. Ông không làm được gì giúp bà ngoài tình thương yêu và lòng thương cảm sâu sắc. Có lẽ đối với bà Tú như vậy cũng đã là đủ lắm rồi. Bởi thân phận người phụ nữ xưa ai cũng khổ, cũng chìm nổi long đong, nhưng chẳng mấy ai được chồng thương và thấu hiểu như bà. Chỉ là do thời thế nên ông không giúp được gì cho vợ.      Bên cạnh những tình cảm chân thành dành cho bà Tú, Tế Xương cũng thầm bày tỏ niềm đồng cảm, xót xa với những thân phận đồng cảnh với bà. Bởi thế, ông ví vợ mình với “thân cò” –  một hình ảnh quen thuộc trong ca dao Việt Nam khi nói về số phận vất vả của người nông dân. Dù họ có phải “lặn lội”, phải “eo sèo” hay dù thế nào đi chăng nữa, những “thân cò” vẫn ngày đêm miệt mài kiếm sống.      Vậy, vì mục đích gì mà họ lại cam chịu như vậy? Không phải vì bị ép buộc, mà vì tình yêu thương lớn lao và cao cả họ dành cho gia đình. Sự hi sinh ấy thật đáng trân trọng và đáng quý biết bao. Nhưng không phải ai cũng có nỗi lòng thấu hiểu như nhà thơ Tế Xương. Sống trong xã hội nam quyền nhưng ông không tự cho mình được quyền thong dong, được hưởng thụ thoải mái mọi thứ và được trà đạp lên người phụ nữ. Ở xã hội ấy, có những người vợ bị coi là nô lệ, là người ở, nhưng Tế Xương thì không. Bà Tú đã đi vào thơ ông với ý nghĩa là một người vợ đích thực, một người vợ đảm đang, giàu đức hi sinh. Ông thương vợ và ngược lại cũng trách mình làm chồng mà “hờ hững cũng như không”.      Đúng như cái tên mà tác giả đã đặt cho bài thơ “Thương vợ”, Tế Xương đã dành những tình cảm chân thành nhất dành cho vợ. Không giúp được vợ nhưng ông mong sao những tình cảm của mình sẽ làm bà vơi đi mệt mỏi sau bao ngày lặn lội vất vả mưu sinh.
16 tháng 9 2023

- Cách: nêu ra nghịch lí trong cuộc sống đó là một con mèo dạy con hải âu bay.

- Tác dụng: Gây sự tò mò, thích thú và thể hiện nội dung văn bản.

16 tháng 9 2023

- Cách: nêu ra nghịch lí trong cuộc sống đó là một con mèo dạy con hải âu bay.

- Tác dụng: Gây sự tò mò, thích thú và thể hiện nội dung văn bản.

22 tháng 4 2019

Nghệ thuật của truyện:

- Đặc sắc, đậm đà chất sử thi hùng tráng. Chất sử thi toát lên qua đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật, hình ảnh thiên nhiên, giọng điệu:

    + Đề tài gắn với lịch sử: cuộc đấu tranh của dân làng Xô Man chống Mỹ Diệm

    + Bức tranh thiên nhiên hùng vĩ, hoành tráng, rừng xà nu làm nền cho bức tranh về cuộc đấu tranh chống giặc

    + Các nhân vật tiêu biểu được miêu tả trong bối cảnh trang nghiêm, hùng vĩ, vừa mang phong cách Tây Nguyên với phẩm chất của anh hùng thời đại

- Kết cấu vòng tròn: Mở đầu, kết thúc hình ảnh của rừng xà nu, cùng với sự trở về của Tnú sau ba năm xa cách

- Cách trần thuật: kể câu chuyện theo lời trang trọng của cụ Mết, bên bếp lửa, như truyền cho con cháu biết những trang sử bi thương và người anh hùng của cộng đồng

- Ngôn ngữ, giọng điệu: đậm chất sử thi, hùng tráng

24 tháng 6 2019

Thi nhân đọc thơ trong sự hào hứng, có phần tự đắc:

Đương cơn tự đắc đọc đã thích

Trời nghe, trời cũng lấy làm hay

Chửa biết con in ra mấy mươi

- Giọng của thi nhân truyền cảm, hóm hỉnh, sảng khoái, cuốn hút

Thái độ của chư tiên khi nghe Tản Đà đọc thơ:

- Trời khen nhiệt thành: văn thật tuyệt, chắc có ít, đẹp như sao băng...

- Chư tiên xúc động, tán thưởng và hâm mộ: Tâm như nở dạ, Cơ lè lưỡi

   + Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày

   + Song Thành, Tiểu Ngọc lắng tai nghe

→ Tản Đà là người “ngông” khi lên lên Trời khẳng định tài năng thơ văn của mình.

- Nhà thơ ý thức về tài năng, thơ văn của mình, dám thể hiện cái tài đó

- Đó là phản ứng của người nghệ sĩ tài hoa, có cốt cách, tâm hồn không muốn chấp nhận sự bằng phẳng, sự đơn điệu, nên thường tự đề cao, phóng đại cá tính của mình

- Giọng thơ của Tản Đà cũng thể hiện niềm khát khao chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới rẻ như bèo, thân phận bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ

- Giọng kể của tác giả: đa dạng, hóm hỉnh có phần ngôn nghênh, tự đắc

Khác với thơ ca trung đại có tính phi ngã thì trong thơ của Tản Đà có tính phi ngã

15 tháng 3 2022

Sherlock Holmes ( / ˈ ʃ ɜːr l ɒ k ˈ h oʊ m z / ) là một thám tử hư cấu được tạo ra bởi tác giả người Anh Sir Arthur Conan Doyle . Tự giới thiệu mình là "thám tử tư vấn" trong các câu chuyện, Holmes được biết đến với khả năng quan sát, suy luận, khoa học pháp y và suy luận logic đến mức tuyệt vời, mà ông sử dụng khi điều tra các vụ án cho nhiều khách hàng, bao gồm cả Scotland Sân bãi .

Lần đầu tiên xuất hiện trên bản in trong cuốn A Study in Scarlet năm 1887 , nhân vật này trở nên nổi tiếng với loạt truyện ngắn đầu tiên trên Tạp chí The Strand , bắt đầu với " Một vụ bê bối ở Bohemia " năm 1891; những câu chuyện bổ sung xuất hiện từ đó cho đến năm 1927, cuối cùng tổng cộng có bốn tiểu thuyết và 56 truyện ngắn . Tất cả, trừ một [a] đều lấy bối cảnh thời đại Victoria hoặc Edward , giữa khoảng 1880 và 1914. Hầu hết được thuật lại bởi nhân vật của Holmes, bạn của Holmes và là người viết tiểu sử, Tiến sĩ John H. Watson , người thường đi cùng Holmes trong các cuộc điều tra và thường chia sẻ với nhau. với anh ấy tại địa chỉ 221B Baker Street, London, nơi nhiều câu chuyện bắt đầu.

Mặc dù không phải là thám tử hư cấu đầu tiên, Sherlock Holmes được cho là được biết đến nhiều nhất. [1] Đến những năm 1990, đã có hơn 25.000 tác phẩm chuyển thể sân khấu, phim, tác phẩm truyền hình và ấn phẩm có tên thám tử, [2] và Kỷ lục Guinness đã liệt kê ông là nhân vật văn học được khắc họa nhiều nhất trong lịch sử điện ảnh và truyền hình. [3] Sự nổi tiếng và nổi tiếng của Holmes đến mức nhiều người đã tin rằng anh ta không phải là một nhân vật hư cấu mà là một cá nhân có thật; [4] [5] [6] Nhiều hội văn học và người hâm mộ đã được thành lập dựa trên lý do này . Những độc giả cuồng nhiệt của các câu chuyện về Holmes đã giúp tạo ra một thực tiễn hiện đại của fandom .[7] Nhân vật và những câu chuyện đã có ảnh hưởng sâu sắc và lâu dài đến văn học bí ẩn và văn hóa đại chúng nói chung, với những câu chuyện gốc cũng như hàng nghìn tác giả khác ngoài Conan Doyle đã được chuyển thể thành sân khấu và kịch phát thanh, truyền hình, phim , trò chơi điện tử và các phương tiện khác trong hơn một trăm năm.

22 tháng 10 2023

"Bài thơ Mùa Xuân Chín" của Hàn Mạc Tử miêu tả cảnh xuân với một tâm trạng sâu lắng và lãng mạn. Tác giả sử dụng ngôn ngữ tươi đẹp và hình ảnh tinh tế để thể hiện vẻ đẹp của mùa xuân và cảm xúc của người thơ trong bài thơ.

 

Cảnh xuân được mô tả rất tươi mới, với cây cỏ, hoa lá nở rộ, chim hót vang, và gió nhẹ thổi qua. Tác giả sử dụng những hình ảnh như "hoa đào sớm mở rộ" và "rừng xanh nắng lớn" để tạo nên một hình ảnh tươi sáng và phấn khích của mùa xuân.

 

Tuy nhiên, bài thơ cũng mang trong mình một nỗi buồn sâu thẳm. Tác giả viết về sự phôi pha của mùa xuân với cuộc đời của mình, và cảm xúc của người thơ trước sự thay đổi của thời gian. Bài thơ thể hiện sự phản ánh về sự tạm thời của cuộc sống và vẻ đẹp của mùa xuân chín, đồng thời cũng làm nổi bật sự đau thương và những kỷ niệm về tuổi thanh xuân.

 

Tóm lại, "Mùa Xuân Chín" của Hàn Mạc Tử là một bài thơ đẹp và lôi cuốn, thể hiện tài năng văn chương của tác giả và sâu sắc cảm xúc về mùa xuân và cuộc sống.

27 tháng 9 2016

BÀI LÀM

Người phụ nữ đã đi vào văn học khá nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với tư cách là một người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất hiếm. Thương vợ của Tú Xương nằm trong số những trường hợp hiếm hoi đó. Bài thơ là chân dung bà Tú, người bạn đời của Tú Xướng, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người chóng dành cho vợ.

Hình ảnh bà Tú hiện lên trước hết gắn liền với bao nỗi gian truân khó nhọc. Thân đàn bà chân yếu tay mềm nhưng bà Tú vẫn phải một mình làm lụng buôn bán, một mình xông pha, lặn lội nơi đầu sông, bến chợ để lặn lội kiếm sống. Cái gian truân khó nhọc được  cụ thể hoá bằng thời gian quanh năm, bằng không gian mom song, quãng vắng, buổi đò đông. Nghĩa là triền miên suốt năm suốt tháng không ngơi không nghỉ, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối. Đặt trong những không gian, thời gian trên hình ảnh bà Tú dường như lại càng trở nên nhỏ bé, cô đơn,-tội nghiệp hơn. Cái vất vả nhọc nhằn còn được hiện rõ trong gánh nặng mà bà Tú phải gánh trên vai: một gia đình với năm còn và một chồng. Năm đứa con với biết bao nhu cầu, bao đòi hỏi hàng ngày, bên cạnh đó đức ông chồng giàu chữ nghĩa đã không giúp vợ được gì lại còn trờ thành một mối bận tấm lo lắng của vợ, mà nhu cầu của ông chồng ấy nào có ít ỏi gì, nó đù làm thành một phía để cân bằng với phía năm đứa con. Thế mới biết cuộc sông hằng ngày của bà Tú là như thế nào. Lo cho con, lo cho chồng, mà phải lo làm sao cho đủ tức là không thừa nhưng cũng không được thiếu. Bằng chừng ấy nỗi lo trĩu nặng trên đôi vai gầy của người vợ, người mẹ ấy. Chính vì vậy mà phải bươn chải nắng mưa khuya sớm, bất kể hiểm nguy hay đơn độc. Nói sao cho xiết những nhọc nhằn cơ cực mà bà Tú phải gánh trong suốt cuộc đời của mình. Hình ảnh bà Tú gợi cho ta nghĩ tới hình ảnh của những người đàn bà đảm đang, lam lũ, lặn lội kiếm sống nuôi chồng, nuôi con đã lặng lẽ đi qua trong cuộc sống dân tộc.

Cuộc đời nhiều gian truân vất vả đó là sự thiệt thòi của bà Tú. Thế nhưng cũng chính cuộc đời đó đã làm nổi bật bao vẻ đẹp đáng quý ở người phụ nữ này, vẻ đẹp đầu tiên là vẻ đẹp của sự tảo tần, chịu thương chịu khó. Gánh cả một gánh nặng gia đình trên vai với bao khó khăn cơ cực, lại cô đơn thui thủi một mình, không người sẻ chia giúp đỡ, ấy vậy mà vẫn cẩn mãn, không một chút chểnh mảng, bỏ bê công việc. Bà Tú cứ vậy, chăm chi, miệt mài, chịu thương, chịu khó, không nể hà khó khăn nguy hiểm, không quản ngại nắng mưa khuya sớm. Hình ảnh thơ không chí diễn tả bao nỗi vất vả mà còn làm nổi bật sự nhẫn nại, kiên trì kiếm sống chu tất cho chồng,: cho con của bà Tú. Diễn tả đầy đủ nhất điều này có lẽ không câu thơ nào hơn hai câu Lặn lội thân cò khi quãng  vắng ; Eo sèo mặt nước buổi dò đông. Con cò, thân cò là hình ảnh quen thuộc trong văn học truyền thống, là biểu tượng cho người nông dân nói chung và người phụ nữ Việt Nam nói riêng. Dùng hình ảnh Lặn lội thận cò, Tú Xương đã khái quát được bao phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ Việi Nam truyền thống mà đức tính nổi bật chính là sự tần tảo, chịu thương chịu khó.

Bà Tú còn đẹp ở sự đảm đang tháo vát, ở sự chu đáo với chồng, với con. Cảnh làm ăn kiếm sống của bà Tú thật không dễ dàng gì, nhưng không lúc nào ta thấy bà Tú bó tay chùn bước, lúc thì một mình lặn lội nơi quãng vắng, khi lại đua chen giành giật chốn đò đông. Tất cả đều để chu tất cho gia đình Nuôi đủ năm con với một chồng. Sức vóc một người đàn bà giữa thời buổi cơm cao gạo kém mà vẫn đảm bảo cho chồng cho con một cuộc sống dẫu chưa phải là sung túc nhưng không đến nỗi thiếu thôn như vậy thì qua là giỏi giang hiếm có. Đó là minh chứng cho cái tháo vát đảm đang ở bà Tú, cũng là biểu hiện thuyết phục về tấm lòng hết mực dành cho con cho chồng của người phụ nữ này .

Không chỉ có vậy, qua sự thể hiện của nhà thơ, bà Tú còn hiện lên với một đức hi sinh cao cả. Dẫu bao nhiêu khó khăn vất vả bà Tú vẫn không một lời kêu than phàn nàn, không một lời oán trách. Một mình bà âm thầm, lặng lẽ gánh trọn gánh nặng gia đình. Ngay cả khi ý thức một thực tế cay đắng trong quan hệ vợ chồng Một duyên hai nợ  thì bà Tú văn chấp nhận tất cả sự vất vả nhọc nhằn về phía mình Năm nắng mười mưa dám quân công. Đó là sự hi sinh quên mình, là tấm lòng vị tha hết mực của bà Tú dành cho ông Tú và những đứa con.

Được tái hiện bằng tấm lòng thương vợ chân thành, sâu sắc của Tú Xương, hình ảnh bà Tú trong bài thơ đã trở thành mội hình ảnh đẹp tiêu biểu, điển hình cho những người phụ nữ, những người vợ Việt Nam ngàn đời.



Mình quên bổ sung dẫn chứng bằng những câu thơ trong bài , bn bổ sung hộ mk nhé .

Chúc bn hok tốt haha

 

26 tháng 9 2020

Bằng những câu thơ chân thực, mộc mạc, giản dị giàu cảm xúc, đậm chất trữ tình mà Hồ Xuân Hương và Trần Tế Xương đã nói lên được số phận của người phụ nữ xưa. Đó là những con người phải chịu nhiều nỗi khổ đau. Qua hình ảnh bà Tú trong bài thơ "Thương vợ" mà Trần Tế Xương đã làm nổi bật nên được sự khổ cực vì vất vả, cực nhọc của người phụ nữ. Bà Tú hiện lên với cuộc sống vất vả, lam lũ, gian truân, bà làm công việc chợ búa, buôn bán vất vả "quanh năm".

"Quanh năm buôn bán ở mom sông".

Cái thời gian "quanh năm" ấy gợi cho ta một cảm giác của sự liên hoàn nối tiếp của thời gian, của ngày này qua ngày khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác. Một vòng tròn khép kín cuộc đời bà Tú. Tưởng chừng, công việc buôn bán của bà là dễ dàng và ai cũng làm được. Nhưng không, công việc của bà vất vả và nguy hiểm vì bà Tú buôn bán ở nơi "mom sông". Bà Tú còn hiện lên trong hình ảnh "thân cò", một hình ảnh đẹp trong ca dao để nói lên bà là một người phụ nữ đảm đang, vừa cho ta thấy nỗi vất vả, gian truân của bà. Đó là sự lo âu, hiểm nguy trước cái rợn ngợp của thời gian "quanh năm", và cái heo hút của không gian nơi "mom sông". "Thân cò" gợi một cảm giác nhỏ bé của bà Tú trước thời gian và không gian mênh mông, gợi nên một sự xót xa cho thân phận nhỏ bé của bà.

"Lặn lội thân cò khi quãng vắng,

Eo sèo mặt nước buổi đò đông".

Hình ảnh "lặn lội thân cò" gợi cho người đọc về một cuộc sống vất vả, tần tảo, lam lũ của bà Tú nơi "quãng vắng". Hình ảnh "đò đông" nói về sự nguy hiểm trong việc đi lại, buôn bán của bà. Đó là nơi ồn ào, xô bồ cuộc sống nơi chợ búa với những tiếng kì kèo, kêu ca "eo sèo" đã gợi một nỗi đau về mặt tinh thần của bà Tú. Tất cả những hình ảnh đó làm tăng thêm nỗi vất vả, gian truân, một cuộc sống lam lũ, khó khăn trong cuộc đời bà. Suốt cuộc đời bà chỉ là một con người nhỏ bé mà thôi !.

Đến với thơ Hồ Xuân Hương thì người phụ nữ phải gánh chịu nỗi khổ đau vì không làm chủ được số phận của mình qua bài thơ "Bánh trôi nước". Qua miêu tả chiếc bánh trôi mà tác giả đã nói lên được thân phận của người phụ nữ.

"Thân em vừa trắng lại vừa tròn,

Bảy nổi ba chìm với nước non".

Hình ảnh người phụ nữ ẩn chứa trong chiếc bánh trôi nước "vừa trắng lại vừa tròn" nhưng phải chịu một cuộc sống trôi nổi bấp bênh "bảy nổi ba chìm". Chiếc bánh ấy có đẹp hay chăng, rắn nát chăng đi nữa thì phải phụ thuộc vào người nặn ra chiếc bánh ấy. Một chiếc bánh được nặn đẹp. xinh xắn thì không có gì phải chê, nhưng mà bị làm cho nát hình dạng xấu xí thì sao nhỉ ? Đó là do bàn tay của kẻ nặn bánh mà thành.

"Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn".

Cũng như người phụ nữ, nếu gặp được bến đỗ tốt thì cuộc đời sẽ tươi đẹp, còn rơi vào tay kẻ xấu họ cũng sẽ như chiếc bánh trôi kia, bị vùi dập, tàn tạ trước sóng gió cuộc đời.

Vẫn thơ Hồ Xuân Hương, ta còn thấy người phụ nữ phải chịu khổ đau về tinh thần, vì cô quạnh, thiếu vắng tình yêu, không được yêu thương và sự đồng cảm qua bài thơ "Tự tình" (bài 2). Người nữ sĩ buồn tủi cô đơn một mình giữa cái "đêm khuya" lạnh lẽo.

"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non".

"Đêm khuya" một thời gian muộn trong đêm nhưng người nữ sĩ ấy vẫn thức, ẩn chứa trong lòng là sự thao thức, thấp thỏm không yên. Không gian đêm yên tĩnh, vắng lặng mà đâu đó đã nghe tiếng "văng vẳng" từ xa vọng lại, mập mờ không rõ làm cho người nữ sĩ càng thêm bối rối trong lòng. Tiếng "trống canh dồn" gợi sự dồn dập, gấp gáp, diễn tả được bước đi của thời gian trong đêm. Tác giả sử dụng một động từ "trơ", một động từ gây cảm giác mạnh với người đọc thể hiện sự lẻ loi, vô duyên của thân phận người phụ nữ. Trơ cái gì? Đó là "cái hồng nhan" gợi một cảm giác về sự rẻ rúng, mỉa mai, nhỏ bé với không gian toàn cảnh, có tầm vóc vũ trụ "nước non". Qua đó thể hiện sự cay đắng, xót xa về thân phận, sự cô đơn, lẻ loi của nữ sĩ. Nỗi niềm của tác giả còn thể hiện ở thực cảnh bế tắc, nhân duyên không trọn vẹn.

"Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn".

"Chén rượu hương đưa" diễn tả tâm trạng về nỗi đau thân phận, sự bế tắc quẩn quanh, tình duyên trở thành trò đùa của Tạo hóa. Rượu không thể làm cho ta vơi đi nỗi buồn vì "say" rồi lại "tỉnh". Thời gian " vầng trăng bóng xế" như gợi nhắc đến tháng năm, tuổi tác nhưng lại "khuyết chưa tròn" thể hiện sự thiếu vắng, không trọn vẹn, nỗi buồn tủi vì tuổi xuân sắp qua mà tình duyên chưa đến. Những hình ảnh buồn cô đơn nhuốm màu tâm trạng nữ thi sĩ.

Tiếp đến, họ là những con người đẹp, không chỉ đẹp ở vẻ bề ngoài mà họ là những phụ nữ đẹp ở phẩm chất, đức tính cao đẹp. Đó là tình yêu thương, lòng nhân hậu, một lòng một dạ vì chồng con. Bà Tú đã hi sinh hết mình vì chồng con, kiếm sống, lao động vất vả để "nuôi đủ năm con với một chồng". Bà cũng chính là chỗ dựa, là niềm tin cho chồng con. Bà cần cù chu đáo với chồng con mà không một lời ca thán, oán trách. Gánh nặng đè lên đôi vai bà là cả một trách nhiệm to lớn. Duyên số đã đưa đẩy bà gặp ông Tú nhưng đối với bà đó cũng là cái "nợ". Nợ là trách nhiệm mà bà phải trang trải, dẫu sao cũng là số phận của bà. Bà Tú cam chịu số phận, mà con Tạo đã trớ trêu trong cuộc đời bà. Bà chịu "năm nắng mười mưa" mà nào "dám quản công" để làm việc kiếm sống. Đó là sự hi sinh chịu đựng gian khổ và mất mát của bà Tú. Ở bà hiện lên một đức tính hi sinh cao cả, sự đảm đang, tần tảo, chịu thương chịu khó của người phụ nữ.

19 tháng 10 2017
  • Tạo ra cảnh “rừng xà nu” làm phông nền thiên nhiên hào hùng, tráng lệ cho câu chuyện kể.
  • Kết cấu truyện: câu chuyện một đời được kể trong một đêm.
  • Khắc họa nhân vật sống động, dẫn truyện khéo, nhiều chi tiết gợi cảm, gây ấn tượng mạnh.
  • Chất sử thi hào hùng và vẻ đẹp lãng mạn của truyện đã tạo ra sức cuốn hút và hấp dẫn người đọc