K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

27 tháng 6 2019

“Ba quân khí thế mạnh nuốt trôi trâu” có hai cách hiểu:

- Thứ nhất, có nghĩa ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu.

- Thứ hai, ba quân khí thế hùng mạnh át sao Ngưu

Tựu chung lại, câu thơ nói về sức mạnh của quân đội nhà Trần về trí, lực. Điều đó được minh chứng bằng lịch sử:

   + Các vị tướng trí dũng song toàn: Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão…

   + Khí thế thay đổi trời đất khi quân đội nhà Trần từng đánh bại Mông Nguyên và giặc phương Bắc…

15 tháng 9 2018

- Hoài Thanh trong nhận định về thơ Thế Lữ "Đọc đôi bài, nhất là bài Nhớ rừng… không thể cưỡng được" nói lên nghệ thuật sử dụng từ ngữ tinh tế, điêu luyện, đạt tới mức chính xác cao.

    + Thế Lữ sử dụng từ ngữ trong bài Nhớ rừng xuất phát từ sự thôi thúc của tâm trạng khinh ghét, căm phẫn cuộc sống hiện thời.

    + "chữ bị xô đẩy" bắt nguồn từ giọng điệu linh hoạt lúc dồn dập oai hùng, lúc trầm lắng suy tư.

    + "dằn vặt bởi sức mạnh phi thường" : khao khát tự do, vượt thoát khỏi thực tại tầm thường, tù túng.

    + Ngôn ngữ có chiều sâu: tạo dựng được ba hình tượng với nhiều ý nghĩa ( con hổ, vườn bách thú, núi rừng).

    + Thế Lữ cũng là cây bút tiên phong cho phong trào Thơ Mới vì thế sự thôi thúc vượt thoát khỏi những chuẩn mực cũ giúp ông chủ động khi sử dụng ngôn từ.

HQ
Hà Quang Minh
Giáo viên
7 tháng 12 2023

Chọn đáp án: C. So sánh 

Câu 41 :Thời Trần, quân đội được tuyển chọn theo chủ trương như thế nào?A. Quân phải đông nước mới mạnh                   B. Quân lính cốt tinh nhuệ không cốt đôngC. Quân lính vừa đông vừa tinh nhuệ                D. Quân đội phải văn võ song toànCâu 42: Thời Lý - Trần, bộ máy chính quyền được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Điều đó chứng tỏ :A. nhà nước phong kiến đạt đỉnh...
Đọc tiếp

Câu 41 :Thời Trần, quân đội được tuyển chọn theo chủ trương như thế nào?

A. Quân phải đông nước mới mạnh                   B. Quân lính cốt tinh nhuệ không cốt đông

C. Quân lính vừa đông vừa tinh nhuệ                D. Quân đội phải văn võ song toàn

Câu 42: Thời Lý - Trần, bộ máy chính quyền được tổ chức chặt chẽ từ trung ương đến địa phương. Điều đó chứng tỏ :

A. nhà nước phong kiến đạt đỉnh cao.                      

B. các vua quan tâm đến việc phát triển đất nước.

C. sự hoàn chỉnh của nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền.

D. nhà Vua muốn thâu tóm mọi quyền hành.

Câu 43: Cách đánh giặc xuyên suốt cả 3 lần kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên là:

A. Tránh thế mạnh của giặc lúc đầu.                            B. Lập "vườn không nhà trống".

C. Khi thời cơ đến thì phản công để giành thăng lợi.   D. Cả 3 cách đánh trên.

Câu 44: Ý nào dưới đây KHÔNG phải ý nghĩa lịch sử của thắng lợi ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên?

A. Đưa nước ta trở thành nước hùng mạnh nhất thế giới.

B. Đập tan tham vọng và ý chí xâm lược của quân Mông - Nguyên, bảo vệ nền độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ.

C. Nâng cao lòng tự hào, tự cường của dân tộc.

D. Để lại nhiều bài học kinh nghiệm quí giá trong nghệ thuật đánh giặc.

Câu 45: Một chế độ đặc biệt chỉ có trong triều đình nhà Trần, đó là chế độ gì?

A. Chế độ Thái thượng hoàng.            B. Chế độ lập Thái tử sớm.

C. Chế độ nhiều Hoàng hậu.               D. Chế độ Nhiếp chính vương.

Câu 46: Tình hình thương nghiệp nước ta dưới thời Trần như thế nào?

A. Nhà nước cấm buôn bán, họp chợ.

B. Buôn bán trong nước phát triển, buôn bán với nước ngoài chưa hình thành.

C. Buôn bán trong nước và với nước ngoài đều phát triển.

D. Nhà nước khuyến khích họp chợ nhưng hạn chế ngoại thương.

Câu 47. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của quân Mông – Nguyên trong ba lần tiến đánh Đại Việt, ngoại trừ việc

A. đường lối quân sự của Đại Việt rất độc đáo, linh hoạt.

B. lực lượng quân Nguyên – Mông ít, khí thế chiến đấu kém cỏi.

C. Đại Việt có đội ngũ tướng lĩnh giỏi với nhiều danh tướng kiệt xuất.

D. nhân dân Đại Việt có tinh thần yêu nước, đoàn kết chống ngoại xâm.

Câu 48: Tình hình Nho giáo thời Trần như thế nào?

   A. Nho giáo không phát triển.             B. Nho giáo trở thành quốc giáo.

   C. Nho giáo phát triển.                        D. Nho giáo bị hạn chế.

Câu 49: Tên Đại Việt ra đời thời vua nào ?

A. Lý‎‎ Thánh Tông       B. Lý Nhân Tông           C. Trần Thánh Tông           D. Lê Thánh Tông

Câu 50: Nguyên nhân quan trọng nhất làm cho nông nghiệp thời Trần phát triển mạnh sau chiến thắng chống xâm lược Mông Nguyên là:

   A. quý tộc nhà Trần tăng cường chiêu tập dân nghèo khai hoang, lập điền trang.

   B. đất nước hòa bình.

   C. nhà nước có chính sách khuyến khích sản xuất, mở rộng diện tích trồng trọt.

   D. nhân dân phấn khởi sau chiến thắng ngoại xâm.

1

Câu 41: B

Câu 42:C

Câu 43; D

Câu 50: C 

5 tháng 12 2019

Lời giải:

Trước sức mạnh của quân Mông Cổ, nhà Trần tỏ ra không hề run sợ:

- 3 lần tướng Mông Cổ cử sứ giả đưa thư dụ hàng nhà Trần nhưng đều bị bắt giam

- Nhà Trần ban lệnh cho cả nước sắm sửa vũ khí, các đội dân binh được thành lập, ngày đêm luyện tập võ nghệ để sẵn sàng chiến đấu

- Khi quân Mông Cổ vừa tiến vào nước ta, một đội quân do vua Trần Thái Tông trực tiếp chỉ huy đã đã nghênh chiến và chiến đấu quyết liệt ở Bình Lệ Nguyên

=> Loại trừ đáp án: D

Đáp án cần chọn là: D

1 tháng 3 2023

C

20 tháng 11 2017

Lời giải:

Nghệ thuật “tránh sức mạnh lúc ban mai, tranh thủ chiều tà” được quân dân nhà Trần vận dụng hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống Nguyên lần 2.

- Chủ động thực hiện kế vườn không nhà trống để tránh thế mạnh của giặc lúc ban đầu

- Chủ động tổ chức phản công chiến lược để tranh thủ suy yếu của giặc và giành thắng lợi

Đáp án cần chọn là: A

6 tháng 1 2019

- Quân đội nhà Trần gồm:
+ Cấm quân
+ Quân ở các lộ
- Ở các làng, xã có hương binh đề khi có chiến tranh còn có quân của các vương hầu.
- Quân đội nhà Trần được tuyển dụng tho chính sách ‘’ Ngụ binh ư nông ‘’ và theo chỉ trương ‘’ Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông ‘’
- Quân đội được học tập binh pháp và luyện tập võ nghệ thường xuyên.
- Nhà Trần cử các tướng giỏi càm quân đóng giữ các vị trí quan trọng, nhất là ở cá
c biên giới phái Bắc.

=> Tổ chức chặt chẽ; chủ trương, chính sách chính xác, thiết thực 

(Tham khảo nha em)

Chúc em học tốt!!!

6 tháng 1 2019

- Quân đội nhà Trần gồm:
+ Cấm quân
+ Quân ở các lộ
Ở các làng, xã có hương binh đề khi có chiến tranh còn có quân của các vương hầu.
Quân đội nhà Trần được tuyển dụng tho chính sách ‘’ Ngụ binh ư nông ‘’ và theo chỉ trương ‘’ Quân lính cốt tinh nhuệ, không cốt đông"

Quân đội được học tập binh pháp và luyện tập võ nghệ thường xuyên.
Nhà Trần cử các tướng giỏi càm quân đóng giữ các vị trí quan trọng, nhất là ở các biên giới phái Bắc.

3 tháng 1 2018

Đây là một bài thơ có giá trị của nhà thơ Thế Lữ - ngọn cờ đầu của thơ mới giai đoạn 1930 - 1945. Bài thơ được sáng tác năm 1934 vào thời điểm phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân ta vừa phải trải qua thời kì khủng bố hắng của thực dân Pháp. Bài thơ là lời độc thoại của con hổ bị nhốt ở vườn bách thú đã nói lên nỗi uất hận vì bị mất tự do, bị giam cầm và lòng nhớ tiếc quãng đời được tự do tung hoành và làm chúa tể chốn sơn lâm của nó.

Miêu tả tâm trạng của ‘chúa sơn lâm’ trong một tình huống đầy bi kịch, nhà văn Thế Lữ đã phải vận dụng ngôn ngữ một cách sinh động nhằm thể hiện cho được cái hình hài bề ngoài của con hổ bị nhốt trong cũi sắt - làm cái thú tiêu khiển cho thiên hạ - nhưng bên trong hồn vía nó vẫn là một ‘chúa tể của muôn loài’.

Vì vậy nhà phê bình Hoài Thanh đã nói: ‘Ta tưởng chừng thấy những chữ bị xô đẩy, bị dằn vặt bởi một sức mạnh phi thường. Thế Lữ như một viên tướng điều khiển đội quân Việt ngữ bằng những mệnh lệnh không thể cưỡng được’.

Thật vậy, tác giả đã sử dụng ngôn ngữ một cách sinh động, tài tình, thể loại nào cũng được vận dụng thật đắc địa nhằm khắc hoạ cho được, cho hay cái tầm trạng ngao ngán đầy bi kịch của con hổ.

Nổi bật lên trước hết trong tâm trạng con hể bị nhốt này là lòng căm hờn, niềm uất hận, nỗi chán chường và khinh ghét tất thảy mọi vật xung quanh nó: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’. Thậm chí mối căm hờn của nó như cũng được ‘vật chất hoá’ thành một vật cụ thể, một ‘khối’ cụ thể rắn chắc khó có thể tan đi được để nó phải nhẫn nhục mà ‘gậm’! Bởi vậy thái độ của nó là ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’: hình ảnh con hổ ‘nằm dài’ ở đây rõ ràng đã bộc lộ một tâm trạng chán chường của nó, chán đến mức nó không muốn hành động không thiết hoạt động gì nữa và chỉ ‘nằm dài’. Và ‘Nay ta ôm niềm uất hận ngàn thâu’: ‘niềm uất hận’ của con hổ cũng lại được ‘vật chất hoá’ cũng trở thành cụ thể, có hình, có khối, buộc nó phải ‘ôm’ lấy cho tới ‘ngàn thâu’! Để mà khinh ghét hết thảy:

‘Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm’.

rồi khinh cả ‘bọn gấu dở hơi’ cùng với ‘cặp báo vô tư lự’...

hàng xóm láng giềng, và nó ghét:

‘Ghét những cảnh không đời nào thay đổi,

Những cảnh sửa sang, tầm thường, giả dối:

Hoa chăm, cỏ xén, lối phẳng, cây trồng;

Giải nước đen giả dối, chẳng thông dòng

Len dưới nách những mô gò thấp kém... ‘

Tóm lại, nó ghét toàn bộ những cái cảnh vườn bách thú quá tầm thường này! Đúng vậy, cảnh núi rừng hùng vĩ của ông ‘chúa sơn lâm’ xưa kia đem so sánh với cảnh vườn bách thú trước mắt, thì cảnh trước mắt này quả thật là thảm hại, tầm thường và giả dối!

Bởi vậy, nó mới da diết nhớ đến cái ‘thuở tung hoành hống hách những ngày xưa’ và da diết nhớ đến ‘cảnh sơn lâm bóng cả, cây già với tiếng gió gào ngàn, với giọng buồn hét núi’ của nó. Nó bỗng tự ngắm mình trong ‘giấc mộng ngàn to lớn’ để hồi tưởng lại cái thời nó còn được tự do ‘vùng vẫy ngày xưa’. Và lúc này, hình ảnh con hổ chợt hiện lên trang thơ thật là đẹp:

‘Với khí thét khúc trường ca dữ dội,

Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,

Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc’ và cũng thật là oai phong lẫm liệt:

‘Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,

Là khiến cho mọi vật đều im hơi,

Ta biết ta chúa tể cả muôn loài,

Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi’

Với cảnh núi rừng tươi đẹp, hùng vĩ, nó đã tự do tận hưởng mọi lạc thú ở địa vị một vị chúa tể:

- '... Những đêm vàng bên bờ suối,

Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan’

- '... Những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn,

Ta lặng ngắm giang san ta đổi mới’

- '... Những bình minh cây xanh nắng gội,

Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng’.

- '... Những chiều lênh láng máu sau rừng Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật’...

Quả thực trong hồi ức của con hổ, cảnh núi rừng, thiên nhiên hùng vĩ đầy vẻ hoang sơ và thơ mộng! Song, ngoài nỗi nhớ và niềm kiêu hãnh, ta còn thấy cả nỗi thất vọng với tiếng thở dài chua xót của nó:

‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Câu hỏi tu từ này vừa nói lên sự nuối tiếc day dứt vừa nói lên nỗi thất vọng lớn lao. Chúng ta cảm nhận được nỗi nhớ tiếc này ở nó thật là da diết (‘Ta sông mãi trong tình thương nỗi nhớ’) và nỗi nhớ tiếc đó đã trở thành ‘giấc mộng ngàn to lớn’ của nó:

‘Có biết chăng trong những ngày ngao ngán,

Ta đương theo giấc mộng ngàn to lớn Để hồn ta phảng phất được gần ngươi,

-Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Như vậy, rõ ràng Thế Lữ xứng đáng là vị tướng giỏi, tài hoa điều khiển đội quân Việt ngữ tung hoành trong bài thơ Nhớ rừng. Chính nhờ sự sắp xếp các từ ngữ phù hợp mà chúng phát huy được sức mạnh và không thể cưỡng được, vì nhiệm vụ được giao mỗi loại từ ngữ đều phù hợp với vị trí thể hiện trong câu trong cụm từ. Một hệ thống hình ảnh thơ rất giàu chất tạo hình, với đường nét hình khối, màu sắc rực rỡ, tác giả đã tạo nên những bức tranh đẹp một cách tráng lệ, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc. Có những hình ảnh thơ thể hiện sự sáng tạo nghệ thuật độc đáo, bất ngờ (‘Đêm vàng bên bờ suối’, ‘uống ánh trăng tan’, ‘lênh láng máu sau rừng’, ‘đợi chết mảnh mặt trời gay gắt’... )

Và ngôn ngữ, nhạc điệu, tiết tấu cực kỳ phong phú, gợi cảm... thể hiện thành công ý tưởng, cảm xúc của nhà thơ.

Ta có thể đọc lại một loạt động từ, tính từ rất mạnh và gợi cảm, thể hiện cảnh rừng thiêng liêng hùng vĩ và sức mạnh chế ngự của mãnh hổ: (‘bóng cả’, ‘cây già’, ‘tiếng gió gào’..., ‘giọng nguồn hét’, ‘thét khúc trường ca’, ‘dõng dạc’, ‘đường hoàng’, ‘lượn tấm thân’, ‘sóng cuộn nhịp nhàng’, ‘vờn bóng âm thầm’, ‘mắt thần khi đã quắc’... )

Nhạc điệu, tiết tấu rất linh hoạt ở mỗi câu thơ.

Câu thơ thứ nhất nhiều vần trắc, diễn tả nỗi dằn vặt, âm điệu dồn vào hai chữ ‘căm hờn’ như dồn nén u uất: ‘Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt’.

Câu thơ thứ hai nhiều vần bằng làm giọng thơ trầm hẳn xuống diễn tả tâm trạng buồn bã, ngao ngán: ‘Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua’.

Câu cảm thán như tiếng thở dài não ruột, đầy tiếc nhớ: ‘Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu? ‘

Cái âm vang trong giọng thơ ở câu kết như một tiếng vang vọng của lời nhắn gửi thống thiết: ‘Hỡi cảnh rừng ghê ghớm của ta ơi! ‘

Từ hình ảnh và tâm trạng con hổ được biểu hiện trong bài thơ, ta có thể liên tưởng tới tâm trạng của những lớp người trong xã hội Việt Nam thời bấy giờ đang bị giam cầm trong vồng nô lệ nghiệt ngã của thực dân Pháp. Bởi vậy, bài thơ đã nói lên nỗi nhục nhằn của người nô lệ bị mất tự do và biểu hiện được mong ước và khát vọng tự do của họ.