K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Ai giúp mình tóm tắt gấp đoạn 1 và đoạn 2 trước ngày thứ 7 !! Tks !!!a. Đoạn 1:   9 câu đầu  :                                     “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi                                       ………………………………….                                       Đất Nước có từ ngày đó.”- Ba câu đầu: diễn tả về sự ra đời của ĐN.+ Câu thơ thứ nhất:  ………………………………………………………………………………………………..+ Từ “có trong” kết hợp cụm từ “ngày xửa...
Đọc tiếp

Ai giúp mình tóm tắt gấp đoạn 1 và đoạn 2 trước ngày thứ 7 !! Tks !!!

a. Đoạn 1:   9 câu đầu  :

                                     “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

                                       ………………………………….

                                       Đất Nước có từ ngày đó.”

- Ba câu đầu: diễn tả về sự ra đời của ĐN.

+ Câu thơ thứ nhất:  ………………………………………………………………………………………………..

+ Từ “có trong” kết hợp cụm từ “ngày xửa ngà xưa” ……………………………………………………………..

………………………………………………………………………………………………………………………

+ Hình ảnh “miếng trầu” …………………………………………………………………………………………..

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

- Câu 4: diễn tả quá trình phát triển của ĐN

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

- Bốn câu tiếp: tiếp tực nói về sự phát triển của ĐN

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………

- Câu cuối: Khẳng  định……………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………

- Cả đoạn thơ: (Đánh giá chung)

 

 

 

 

b. Đoạn 2: 20 câu tiếp:

                         “ Đất là nơi anh đến trường

                           ……………………………..

                          Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

- 4 câu đầu: giải thích về đất nước

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

- Hai câu tiếp   ………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

- Câu 7,8,9 từ phương diện lịch sử tác giả nhận định:   (trích 3 câu)

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

- 4 câu tiếp: tiếp tục giải thích về đất nước

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

- 7 câu còn lại: cảm nhận đất nước ở phương diện chiều dài thời gian, từ quá khứ đến hiện tại

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………………

- Cả đoạn thơ: (Đánh giá chung)

0
23 tháng 3 2019

Nội dung chính của đoạn thơ dưới đây là: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.                  Phải biết gắn bó và san sẻ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Phần 1: Từ đầu đến Làm nên đất nước muôn đời…: Cảm nhận độc đáo về quá trình hình thành, phát triển đất nước; từ đó khơi dậy ý thức về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, với đất nước.

Đáp án cần chọn là: B

18 tháng 3 2016

“Có mối tình nào cao hơn là Tổ quốc?” - Trần Mai Ninh. Bằng tình cảm yêu thương sâu nặng ấy, các nhà thơ - chiến sĩ đã có biét bao bài thơ rất hay về Tổ quốc, đất nước Việt Nam thương yêu. Nếu như các nhà thơ khác thường dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ mang tính biểu tượng, tạo ra một khoảng cách để cảm nhận, chiêm ngưỡng về đất nước thì Nguyễn Khoa Điềm, trong phần đầu chương “Đất nước” – trích từ trường ca “Mặt đường khát vọng”, lại cảm nhận về đất nước qua những gì hết sức gần gũi, đơn sơ, bình dị.

"Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có từ trong những cái "Ngày xửa ngày xưa" mẹ thường hay kểĐất Nước có từ miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặcTóc mẹ thì búi sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, dã, dần ,sàngĐất Nước có từ ngày đó..." Nguyễn Khoa điềm sinh năm 1943 tại thôn Ưu Điềm, xã Phong Hoà, huyện Phong Điền tỉnh Thừa Thiên Huế, quê gốc ở thành phố Huế. Ông sinh trưởng trong một gia đình trí thức Cách mạng, cha là Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều) nhà lý luận phê bình văn học theo quan điểm Mác xít trong giai đoạn 1930 – 1945. Sau khi tốt nghiệp khoa văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, Nguyễn Khoa Điềm vào miền Nam tham gia cuộc chiến đấu chống đế quốc Mỹ. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ những năm kháng chiến chống Mỹ như Phạm Tiến Duật, Lê Anh Xuân. Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, xúc cảm lắng đọng, dồn nén thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân.  Sau năm 1975, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục hoạt động văn nghệ và công tác chính trị ở thành phố Huế, rồi làm Tổng thư kí hội nhà văn Việt Nam (khóa V), Bộ trưởng Bộ văn hoá thông tin. Từ năm 2001 đến năm 2006, ông là Uỷ viên Bộ chính trị, Bí thư trung ương Đảng, Trưởng ban tư tưởng văn hóa trung ương. Ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật năm 2000. Tác phẩm chính: “Đất ngoại ô” (tập thơ - 1972), “Mặt đường khát vọng” (trường ca – 1974), “Ngôi nhà có ngọn lửa ấm” (1986), “Cõi lặng” (2007). Đoạn trích dưới đây thuộc phần đầu chương V, có tên “Đất nước” của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ các thành thị vùng bị tạm chiếm ở miền Nam trước năm 1975. Nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế quốc Mỹ, đứng về nhân dân, đất nước; ý thức được xứ mệnh của thế hệ mình, họ đứng dậy xuống đường đấu tranh hoà nhập với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.  Trường ca “Mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974. Đất nước có từ đâu? Đất nước là gì?  “Đất nước”, hai chữ thiêng liêng cao cả ấy chẳng phải ở đâu xa mà ở ngay trong mỗi gia đình chúng ta: từ lời kể chuyện của mẹ, miếng trầu của bà, đến phong tục tập quán quen thuộc, tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột trong nhà: “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”  Bằng giọng tâm tình, dịu ngọt như lời kể truyện cổ tích, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những cảm nhận, suy tưởng của mình về cội nguồn đất nước. Lịch sử sâu thẳm của đất nước ta được tác giả cắt nghĩa không phải bằng sự nối tiếp của các vương triều hay các sự kiện lịch sử trọng đại như Nguyễn Trãi đã từng viết trong “Bình Ngô Đại Cáo”:  “Như nước Đại Việt ta từ thuở trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc – Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên hùng cứ một phương”  Mà bằng những hình ảnh gần gũi, thân quen, bằng những câu thơ gợi nhớ đến truyền thuyết xa xưa, đến nền văn minh lúa nước sông Hồng, cùng những phong tục tập quán độc đáo có từ lâu đời. Đó cũng chính là đất nước được cảm nhận trong chiều sâu tâm hồn nhân dân, văn hoá và lịch sử:  “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”  Hình ảnh thơ phải chăng đã gợi cho ta về sự tích “Trầu cau” từ đời vua Hùng dựng nước xa xưa, ngợi ca tình nghĩa vợ chồng, anh em đằm thắm, sắt son; về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân, trở thành bài ca giữ nước hào hùng của nhân dân đã trở thành lịch sử đất nước: “Ta như thuở xưa thần Phù Đổng Vụt lớn lên đánh đuổi giặc Ân Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt Chí căm thù ta rèn thép làm roi Lửa chiến đấu ta phun vào mặt Lũ sát nhân cướp nước hại nòi” (Tố Hữu)  Nghĩa là, lịch sử lâu đời của đất nước được kết tinh trong từng câu chuyện kể, trong miếng trầu bà ăn thường ngày, trong “cây tre đánh giặc” thân quen quanh ta. Đúng như Nguyễn Duy đã viết:  “Tre xanh, xanh tự bao giờ Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”  Với cái nhìn độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi chúng ta, mỗi người dân; trong đời sống tâm hồn của nhân dân từ thế hệ này qua thế hệ khác. Đất nước còn là phong tục búi tóc thành cuộn sau gáy rất quen thuộc của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay:  “Tóc ngang lưng vừa chừng em búi Để chi dài bối rối lòng anh” (ca dao cổ)  Đất nước Việt Nam mang vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam: tình nghĩa đậm đà, thuỷ chung son sắt của cha mẹ “cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:  “Tay bưng đĩa muối chén gừng Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”  Hay:  “Muối ba năm muối đang còn mặn Gừng chín tháng gừng hãy còn cay Đôi ta tình nặng nghĩa đầy Dù ba vạn sáu ngàn ngày cũng chẳng xa”  Với người Việt Nam vốn gắn bó lâu đời với nền văn minh lúa nước, hạt gạo trở thành gia bảo vô cùng cần thiết cho cuộc sống. Cho nên ngay khi còn là đứa trẻ mới lớn, cảm nhận về vật chất đầu tiên phải là hạt gạo trải qua một quá trình lam lũ, vất vả kết tinh mồ hôi, nước mắt của người lao động một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng, phải suốt ngày “bán mặt cho đất bán lưng cho trời”, “dầm mưa dãi nắng” nhân dân ta mới làm ra được hạt ngọc quý giá ấy. Hình ảnh thơ của Nguyễn Khoa điềm làm ta gợi nhớ tới câu ca dao mẹ ru thuở nào:  “Cày đồng đang buổi ban trưa Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”  Cha ông ta xưa gắn liền với những miền quê thuần phác của nền nông nghiệp thóc gạo với mái lá nhà tranh nên thường coi việc đặt tên cho con cũng chỉ bằng cái tên nôm na, dân dã; có khi lấy từ tên những bộ phận của ngôi nhà tre gỗ của chính mình đang ở “cái kèo, cái cột”… Cách cảm nhận cội nguồn đất nước của Nguyễn Khoa Điềm thật gần gũi, thân quen mà cũng không kém phần thi vị, độc đáo, dễ làm lay động trái tim hàng triệu độc giả.  Trong đoạn thơ trên, tác giả sử dụng khéo léo các kiểu cấu trúc thơ “Đất nước đã có”, “Đất nước bắt đầu”, “Đất nước lớn lên”, “Đất nước có từ” đã giúp cho ta hình dung được cả quá trình hình thành và phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử nằm sâu trong tâm thức của con người Việt Nam qua bao thế hệ.  Trường từ vựng: ông, bà, cha, me gợi về tình cảm gia đình ruột thịt thân thương. Đó cũng là khởi nguồn cho đất nước. Bởi nói như chú Năm “con sông gia đình cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm, rộng bằng nước ta” (Những đứa con trong gia đình).  Tóm lại, bằng những hình ảnh gần gũi, quen thuộc thường ngày, bằng chất liệu văn hoá dân gian, truyền thuyết, cổ tích, chỉ qua một đoạn thơ ngắn, Nguyễn Khoa điềm đã trình bày được một ý niệm về đất nước thật độc đáo, hấp dẫn; vừa thiêng liêng, vừa hiện hữu rõ ràng, vừa có chiều sâu văn hoá lịch sử, vừa bình dị thân quen với cuộc sống nhân dân hàng ngày. Đó là một đóng góp quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu thêm ý niệm về đất nước của nhân dân cho thơ ca hiện đại.
18 tháng 3 2016

              Nguyễn Khoa Điềm viết  trường ca “ Mặt đường khát vọng” 1971.  Đoạn trích  Đất Nước có thể coi là chương hay nhất trình bày cảm nhận và lí giải của tác giả về đất nước, đồng thời thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi “Đất nước của nhân dân”. Đoạn trích  trên thuộc phần đầu của   bài thơ.  tác giả đã định nghĩa rất gần gũi về Đất Nước.  Đất Nước có từ lâu đời, gần gũi, thân thương đối với mỗi con người.

               Với hình thức trữ tình – chính luận, nhà thơ đã tìm cách định nghĩa thật giản dị mà sâu sắc về Đất Nước:

                           Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi 

                           Đất Nước có trong những cái” ngày xửa ngày xưa. . . ” mẹ thường hay kể

             Như vậy Đất Nước có tự lâu rồi.  Thế hệ này sinh ra thì đất nước đã có “ Tự ngày xửa ngày xưa”.  và Đất Nước hiện lên qua mỗi câu chuyện kể của mẹ.  thật gần gũi thân thuộc! bằng  lời thơ, bằng chất liệu từ cổ tích ca dao, tác giả không định nghĩa Đất Nước một cách khô khan trừu tượng mà như một lời tâm tình thân mật, nhẹ nhàng, tha thiết:

                                        Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

                                        Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

              Hình ảnh Đất Nước hiện lên qua miếng trầu “ bà ăn”.  Gần gũi và thân thương.  Và điều đáng nhớ sâu sắc về đất nước là “ dân mình biết trông tre và đánh giặc.  Đọc câu này, mỗi người Việt Nam lại nhớ đến câu chuyện “Thánh Gióng”  nhổ tre đánh giặc, phản ánh lịch sử chống giặc ngoại xâm từ khi dân ta bắt đầu dựng nước.  ta tự hào về người dân nước Việt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước anh hùng.  Câu thơ giản dị mà sâu sắc là vậy! Chỉ qua mấy dòng đầu, đoạn thơ đã làm mờ đi khái niệm Đất Nước là của các vương triều.  Trái lại Đất Nước này là của nhân dân từ buổi sơ khai.  Nguyễn Khoa Điềm  định nghĩa Đất Nước bằng cách chọn các chất liệu của văn hóa dân gian là một ẩn ý sâu sắc.  Bởi văn hóa dân gian là của nhân dân.  Đất Nước hình thành từ những thuần phong mĩ tục giản dị mà thân thương vừa thiêng liêng vừa trìu mến:

                                                 Tóc mẹ thì bới sau đầu

                                                 Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

                                                Cái kèo, cái cột thành tên

               Đất Nước được tạo nên bằng thuần phong, tập quán lâu đời, tạo nên bằng tình yêu “ Muối mặn gừng cay”.   của cha mẹ gợi gian khó, cần cù mà chung thủy thiêng liêng, thắm đượm hồn quê, đậm đà bản chất đạo đức nhân dân.  Nhân dân đó chính là ông bà cha mẹ. .  Những con người sinh ra trong Đất Nước ấy gắn liền với mỗi sự vật gần gũi thân thương “ cái kèo, cái cột thành tên”.  Đất Nước bắt đầu từ hạt gạo. Nhân dân làm ra hạt gạo phải chịu bao khó khăn mới có:

                                             Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

                                            Đất Nước có từ ngày đó. . . .

             Hạt gạo có được phải đổ bao mồ hôi, nước mắt,phải “xay, giã, giần, sàng” mới có được.  Nguyễn Khoa Điềm đã có một định nghĩa thật mới mẻ về Đất Nước.  Chính ông đã  chạm vào những gì thiêng liêng nhất, lớn lao nhưng cũng thật gần gũi và thân thiết nhất với mỗi chúng ta.  Nó gợi cho ta hiểu về quá khứ lịch sử của cha ông, gợi cho ta tự hào về nhân dân, về ông bà cha mẹ đã sinh ra đất nước này.

             Bằng sự chọn lọc chất liệu dân gian, văn hóa dân gian, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến cho chúng ta một định nghĩa thật dễ hiểu về Đất Nước.  Đất nước có tự ngày xưa.  Đất Nước của nhân dân.  Cách định nghĩa ấy xuất phát từ một lòng tự hào  về Đất Nước, nhân dân.

 

Trăng lên Ngày chưa tắt hẳn , trăng đã lên rồi . Mặt trăng tròn , to và đỏ , từ từ lên ở chân trời , sau rặng tre đen của làng xa . Mấy sợi mây con vắt ngang qua , mỗi lúc mảnh dần rồi đứt hẳn . Trên quãng đồng rộng , cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại , thoang thoảng những hương thơm ngát . Sau tiếng chuông của ngôi chùa cổ một lúc lâu , thật là sáng trăng hẳn : trời bây giờ trong vắt ,...
Đọc tiếp

Trăng lên
Ngày chưa tắt hẳn , trăng đã lên rồi .
Mặt trăng tròn , to và đỏ , từ từ lên ở chân trời , sau rặng tre đen của làng xa . Mấy sợi mây con vắt ngang qua , mỗi lúc mảnh dần rồi đứt hẳn . Trên quãng đồng rộng , cơn gió nhẹ hiu hiu đưa lại , thoang thoảng những hương thơm ngát .
Sau tiếng chuông của ngôi chùa cổ một lúc lâu , thật là sáng trăng hẳn : trời bây giờ trong vắt , thăm thẳm và cao , mặt trăng nhỏ lại , sáng vằng vặc ở trên không . Ánh trăng trong chảy khắp trên cành cây , kẽ lá , tràn ngập trên con đường trắng xóa .
Bức tường hoa giữa vườn sáng trắng lên , là lựu dày và nhỏ , lấp lánh như thủy tinh . Một cành cây cong xuống rồi vụt lên , lá rung động lấp lánh ánh trăng như ánh nước .
Theo Thạch Lam
1 ) Bài văn có bao nhiêu hình ảnh so sánh :
a ) 1 hình ảnh so sánh , là : ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
b ) 2 hình ảnh so sánh , là : ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
c ) 3 hình ảnh so sánh , là : ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
2 ) Xác định các đoạn của phần thân bài " Trăng lên " . Tóm tắt nội dung mỗi đoạn bằng 1 câu :
- Đoạn 1 : ( từ ........................................................... đến ....................................................... )
Tóm tắt : ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
- Đoạn 2 : ( từ ........................................................... đến ......................................................... )
Tóm tắt : ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
- Đoạn 3 : ( từ .................................................................... đến hết )
Tóm tắt : ..................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................................
3 ) Dòng nào chỉ gồm các từ ghép ?
a ) cầu cứu , mỉ mệt , rối loạn , khiêu chiến .
b ) chắc chắn , chế ngự , khiêu chiến , hãi hùng .
c ) lừng danh , chắc chắn , hãi hùng , thừa thắng .

0
Bài 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:     " Lần này ta ra, thân hành cầm quân,, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn.Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có...
Đọc tiếp

Bài 1: Đọc đoạn trích sau và trả lời câu hỏi:

     " Lần này ta ra, thân hành cầm quân,, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn.Chẳng qua mươi ngày có thể đuổi được người Thanh. Nhưng nghĩ chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bị thua một trận, ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế thì việc binh đao không bao giờ dứt, không phải là phúc cho dân, nỡ nào mà làm như vậy. Đến lúc ấy chỉ có người khéo lời lẽ mới dẹp nổi việc binh đao, không phải Ngô Thì Nhậm thì không ai làm được. Chờ mười năm nữa, cho ta được yên ổn mà nuôi dưỡng lực lượng, bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?"

 Hãy viết một đoạn văn 10 câu theo cách diễn dịch trình bày cảm nhận của em về vẻ đẹp của nhân vật "ta" được thể hiện trong đoạn trích trên. Trong đoạn văn có sử dụng một câu bị động và phép nối để liên kết câu.

1
11 tháng 10 2021

Tham khảo:

Hồi thứ 14 của tác phẩm Hoàng Lê Nhất Thống Chí đã tái hiện chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ. Hình ảnh vua Quang Trung hiện lên với những vẻ đẹp phi thường của một bậc đại tướng. Thông qua ngòi bút sinh động của nhóm tác giả họ Ngô , hình tượng người anh hùng dân tộc Quang Trung hiện lên vô cùng đẹp đẽ, phi thường. Đó là (phép nối) con người có hành động mạnh mẽ ,quyết đoán và có trí tuệ sáng suốt, sâu xa ,nhạy bén. Khi nghe được tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long ông không hề nao núng mà quyết định thân chinh cầm quân đi ngay (câu bị động). Trong vòng một tháng ông đã liên tiếp làm nên nhiều chiến công, ông thu phục lòng dân và có danh nghĩa ra Bắc dẹp giặc. Bên cạnh đó, Quang Trung - Nguyễn Huệ còn là một người có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng.Mới khởi binh nhưng ông đã khẳng định được sự chiến thắng.Điều này Nguyễn Huệ đã khẳng định rằng ông thật sự là một tài năng quân sự ,một nhà mưu lược tài ba.Trong những cuộc chiến tranh phong kiến ở Việt Nam hiếm có một vị tướng nào tính toán thần tình và sâu xa đến vậy.Trong trận chiến với quân Thanh hình ảnh nhà vua hiện lên vô cùng oai phong, lẫm liệt! ông thân chinh cầm quân đóng vai trò là tổng chỉ huy chiến dịch thực sự "cưỡi voi đi đốc thúc" ,xông pha tên đạn.Dưới sự lãnh đạo tài tình của vị tổng chỉ huy áo vải quân Tây Sơn đã đánh trận thật lẫy lừng. Những chiến công lẫy lừng của Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc. 

11 tháng 10 2021

camon bạn!

 

Tham khảo:

Đối với em ,cứ nhắc đến quê hương là lòng em lại dâng trào biết bao niềm tự hào. Quê hương em là nơi chôn rau cắt rốn ,là nơi đã nuôi nấng em thành người. Nơi đây đã ghi lại bao kỷ niệm ngọt ngào ,vui buồn của tuổi thơ em. đó là những ngày em được sống bên bố mẹ được bố mẹ yêu thương. Ngày nắng chói chang mẹ vừa quạt vừa ru em ngủ. Mùa đông lạnh già bố ủ ấm cho em bằng tình yêu thương của người. Quê hương cũng là nơi cho em những người bạn hiền ,bạn tốt. Những người bạn cùng em học tập. cùng em chăn trâu cắt cỏ trên bờ đê. Những người bạn đã cùng em sẻ chia bao nỗi buồn vui. Em còn nhớ những thầy cô đã dạy dỗ em. Nhưng lời giảng ,những nét bút ,tiềng nói ,đã khắc sâu trong trái tim em. Làm sao em có thể quên được những con người đáng yêu đáng quý ở nơi yêu dấu của mình ? Quê hương còn cho em những hàng cây xanh mướt ,những bãi nương dâu ,màu xanh tươi của đồng lúa. Chao ôi! biết ơn và tự hào biết mấy quê hương yêu dấu của em.

À mà phần từ đồng âm, đã nghĩa gì đó bạn tự thêm vào nha

 

14 tháng 9 2023

Chọn B

8 tháng 10 2018
Trả lời hộ mình
3 tháng 12 2023

 1 .câu chuyện kể việc làm của Bác trên con tàu Đô Đốc Latútsơ Tơrêvin :
Mang tên mới: Văn Ba, anh xin được chân người phụ bếp trên một chiếc tàu biển của Pháp Latusơ Tơrêvin. Từ đây, hoà mình trong đời sống của thợ thuyền, người thanh niên Văn Ba bắt đầu cuộc hành trình tìm đường cứu nước thoát khỏi ách nô lệ của chế độ thực dân.
Cuộc hành trình 30 năm ròng, đi qua 28 quốc gia, làm nên sự nghiệp lớn, xuất phát từ một anh phụ bếp Văn Ba trên một chiếc tàu vận tải hàng hải. Tuy lao động vất vả suốt ngày, suốt tháng không có ngày nghỉ, ông chủ chỉ trả cho anh mỗi tháng không quá 50 phrăng, là thứ tiền công rẻ mạt nhất cho một lao động, nhưng anh không nản lòng, chê trách. Mà trái lại, với thái độ cởi mở, lễ phép với mọi người; từ người lao động đến những du khách thượng hạng đi trên tàu, ai cũng quý mến anh, sẵn sàng giúp đỡ mỗi lần anh muốn biết về một điều gì đó. Xong việc, anh tranh thủ học thêm hoặc đọc sách hay tự học ngoại ngữ. Tàu cập bến một số nước, anh Ba lên bờ, không phải như những người khác, bao nhiêu tiền dồn vđo việc ăn chơi phung phí; anh dành thời gian đi sâu tìm hiểu hiện trạng thực tế xã hội. Anh chợt nhận ra rằng, mỗi quốc gia mỗi vẻ khác nhau về phong cảnh và con người; nhưng về xã hội thì đâu đâu cũng có người nghèo, người giàu, đâu cũng có các tệ nạn xã hội, đâu cũng có người tốt và kẻ xấu.

2. Đó là bài "Người đi tìm hình của nước"
Đất nước đẹp vô cùng. Nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu đưa tiễn Bác!
Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất,
Bốn phía nhìn không một bóng hàng tre.
Đêm xa nước đầu tiên, ai nỡ ngủ ?
Sóng vỗ dưới thân tàu đâu phải sóng quê hương!
Trời từ đây chẳng xanh màu xứ sở,
Xa nước rồi, càng hiểu nước đau thương!
Lũ chúng ta ngủ trong giường chiếu hẹp
Giấc mơ con đè nát cuộc đời con!
Hạnh phúc đựng trong một tà áo đẹp!
Một mái nhà yêu rủ bóng xuống tâm hồn.
Trǎm cơn mơ không chống nổi một đêm dày
Ta lại mặc cho mưa tuôn và gió thổi
Lòng ta thành con rối,
Cho cuộc đời giật dây!
Quanh hồ Gươm không ai bàn chuyện vua Lê
Lòng ta đã thành rêu phong chuyện cũ
Hiểu sao hết những tấm lòng lãnh tụ
Tìm đường đi cho dân tộc theo đi.
Hiểu sao hết Người đi tìm hình của Nước
Không phải hình một bài thơ đá tạc nên người
Một góc quê hương, nửa đời quen thuộc,
Hay một đấng vô hình sương khói xa xôi...
Mà hình đất nước hoặc còn hoặc mất
Sắc vàng nghìn xưa, sắc đỏ tương lai
Thế đi đứng của toàn dân tộc
Một cách vinh hoa cho hai mươi lǎm triệu con người.
Có nhớ chǎng, hỡi gió rét thành Ba Lê ?
Một viên gạch hồng, Bác chống lại cả một mùa bǎng giá
Và sương mù thành Luân Đôn, ngươi có nhớ
Giọt mồ hôi Người nhỏ giữa đêm khuya ?
Đời bồi tàu lênh đênh theo sóng bể
Người đi hỏi khắp bóng cờ châu Mỹ, châu Phi,
Những đất tự do, những trời nô lệ,
Những con đường cách mạng đang tìm đi.
Đêm mơ nước, ngày thấy hình của nước
Cây cỏ trong chiêm bao xanh sắc biếc quê nhà
Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc
Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa.
Ngày mai dân ta sẽ sống sao đây?
Sông Hồng chảy về đâu? Và lịch sử?
Bao giờ dải Trường Sơn bừng giấc ngủ
Cánh tay thần Phù Đổng sẽ vươn mây?
Rồi cờ sẽ ra sao? Tiếng hát sẽ ra sao?
Nụ cười sẽ ra sao?
Ơi, độc lập!
Xanh biếc mấy là trời xanh Tổ quốc
Khi tự do về chói ở trên đầu.
Kìa mặt trời Nga bừng chói ở phương Đông
Cây cay đắng đã ra mùa quả ngọt
Người cay đắng đã chia phần hạnh phúc
Sao vàng bay theo liềm búa công nông.
Luận cương đến với Bác Hồ. Và Người đã khóc
Lệ Bác Hồ rơi trên chữ Lênin.
Bốn bức tường im nghe Bác lật từng trang sách gấp
Tưởng bên ngoài, đất nước đợi mong tin.
Bác reo lên một mình như nói cùng dân tộc:
"Cơm áo là đây! Hạnh phúc đây rồi!"
Hình của Đảng lồng trong hình của Nước.
Phút khóc đầu tiên là phút Bác Hồ cười,
Bác thấy:
Dân ta bưng bát cơm mồ hôi nước mắt
Ruộng theo trâu về lại với người cày
Mỏ thiếc, hầm than, rừng vàng, biển bạc...
Không còn người bỏ xác bên đường ray.
Giặc đuổi xong rồi. Trời xanh thành tiếng hát
Điện theo trǎng vào phòng ngủ công nhân
Những kẻ quê mùa đã thành trí thức
Tǎm tối cần lao nay hóa những anh hùng.
Nước Việt Nam nghìn nǎm Đinh, Lý, Trần, Lê
Thành nước Việt nhân dân trong mát suối
Mái rạ nghìn nǎm hồng thay sắc ngói
Những đời thường cũng có bóng hoa che.
Ôi! Đường đến với Lênin là đường về Tổ quốc
Tuyết Matxcơva sáng ấy lạnh trǎm lần
Trong tuyết trắng như đọng nhiều nước mắt
Lênin mất rồi! Nhưng Bác chẳng dừng chân.
Luận cương của Lênin theo Người về quê Việt
Biên giới còn xa. Nhưng Bác thấy đã đến rồi
Kìa! Bóng Bác đang hôn lên hòn đất
Lắng nghe trong màu hồng, hình đất nước phôi thai.