K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2 tháng 5

TK:

Mỗi khi đặt chân đến bờ biển, tôi không thể khỏi bị cuốn hút bởi vẻ đẹp tuyệt vời của thiên nhiên. Biển xanh ngát như một tấm gương lớn mà trời xanh không màng chút gì che phủ, tạo nên một bức tranh sống động và huyền diệu. Những con sóng trắng xóa cuồn cuộn tung tóe, như những vũ điệu của tự nhiên, mang lại sự yên bình và cảm giác tự do không gì sánh bằng. Cảm giác chạm vào làn nước mát lạnh, nghe tiếng sóng vỗ nhẹ nhàng vào bờ cát trắng, tôi như lạc vào một thế giới riêng, nơi mà mọi lo âu và muộn phiền đều tan biến trong hơi thở của gió biển. Đó là lúc tôi thực sự cảm nhận được sức mạnh và vẻ đẹp bao la của thiên nhiên, một tác phẩm tuyệt vời của vũ trụ mà chúng ta được chứng kiến mỗi ngày.

1 tháng 5

Bạn tk:

Những giọt mưa rơi nhẹ nhàng, kèm theo là những hơi gió nhè nhẹ vuốt ve qua những cành cây. Trước hiên nhà, một người phụ nữ già đang ngồi đợi, với đôi mắt sâu thẳm nhìn ra xa xăm. Đó là dì Bảy, người luôn ở bên nhà, chăm sóc mọi việc một cách thầm lặng và hiền lành.

Cuộc sống của dì Bảy không phải là một cuộc sống nhiều ồn ào hay những thành tựu rực rỡ, nhưng sự hi sinh và đóng góp của bà trong gia đình lại không thể phủ nhận. Trong bài tản văn "Người Ngồi Đợi Trước Hiên Nhà", tác giả Huỳnh Như Phương đã tường thuật về cuộc sống của dì Bảy một cách diệu kỳ và đầy cảm xúc.

Dì Bảy không chỉ là người phụ nữ của gia đình, mà còn là tâm hồn và trụ cột vững chắc của mọi người xung quanh. Mỗi ngày, bà tỏ ra quan tâm và chu đáo với mọi người, không màng đến việc mệt mỏi hay khó khăn của bản thân. Bà là người luôn sẵn sàng hy sinh cho hạnh phúc và an lành của những người thân yêu.

Dì Bảy không cần nhận được sự công nhận hay sự chú ý đặc biệt từ mọi người. Bà chỉ muốn đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào cuộc sống, và biết rằng những điều nhỏ nhặt đó lại mang lại niềm vui và hạnh phúc lớn lao. Sự hi sinh thầm lặng của dì Bảy chính là nguồn động viên và cảm hứng cho mọi người xung quanh.

Trước hiên nhà, dì Bảy ngồi đợi, đợi chờ một điều gì đó mà chính bà cũng không thể đặt tên. Nhưng có lẽ, điều đó không quan trọng bằng sự hi sinh và tình yêu thương mà dì Bảy dành cho mọi người trong gia đình. Dì Bảy, một người phụ nữ bình dị nhưng ấm áp và đầy ý nghĩa, đã để lại trong lòng mỗi người một dấu ấn sâu sắc và không thể nào phai mờ.

#hoctot

1 tháng 5

TK:

Mỗi trận chiến đi qua, bên cạnh sự xót thương dành cho những người lính ra trận, những chiến sĩ mãi mãi nằm lại nơi chiến trường, người ta còn nhớ và cảm thương về nơi hậu phương, trong những năm tháng chiến tranh, cũng có biết bao là sự hi sinh thầm lặng của người phụ nữ. Một trong số đó phải kể đến nhân vật dì Bảy trong bài tản văn “Người ngồi đợi trước hiên nhà” của Huỳnh Như Phương.

Dì Bảy là một nhân vật đã để lại trong tôi nhiều sự thương mến và cảm phục. Dì lấy chồng khi mới 20 tuổi. Dượng Bảy lại phải đi tập kết và chiến đấu. Vậy là từ ngày cưới, cả hai vợ chồng dì chưa được ở cạnh nhau bao lâu. Họ gặp nhau chỉ qua những cánh thư. 20 năm sau, Dượng Bảy mới có thể nhờ người gửi chiếc nón bài thơ cho dì làm quà và để chứng tỏ tình cảm của mình, để an ủi những người đang chờ mong. Thế nhưng, trước khi chiến tranh kết thúc khoảng mươi ngày, dì Bảy đã chở thành người phụ nữ góa chồng. Vậy là suốt hơn 20 năm chờ đợi, biết bao thương nhớ, biết bao buồn tủi, biết bao là những nỗi lo lắng, bồn chồn, cuối cùng dượng Bảy đã không thể cho dì được một hạnh phúc trọn vẹn.

Mất chồng, dì Bảy vẫn cứ lầm lũi ngồi bên bậc thềm, nhìn ra xa như trông đợi điều gì. Dì Bảy đã phải hi sinh hạnh phúc cá nhân mình vì nghĩa lớn. Tôi biết, không chỉ có dì Bảy, mà còn có rất nhiều người phụ nữ trên dải đất hình chữ S này cũng chung cảnh ngộ như dì. Họ đều đã hi sinh thầm lặng, cao cả cho cuộc kháng chiến, để đất nước được thống nhất và phát triển. Chúng ta, những thế hệ hôm nay phải biết ơn và làm được điều gì để đền đáp được công ơn đó.

Dì Bảy đã cho tôi hiểu về đức hi sinh của con người. Tôi tin rằng thế hệ tôi và những thế hệ mai sau sẽ đều ghi nhớ công ơn của các thế hệ trước. Nhưng tôi cũng mong sẽ không còn ai phải chịu cảnh ngộ, phải hi sinh như dì Bảy.

1 tháng 5

mạng nha bn :))

 

1 tháng 5

TK:

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ

“Ai bảo chăn trâu là khổ?”

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Những ngày trốn học

Đuổi bướm cầu ao

Mẹ bắt được

Chưa đánh roi nào đã khóc

Có cô bé nhà bên

Nhìn tôi cười khúc khích…

Mở đầu bài thơ, bức tranh thiên nhiên mang bóng hình quê hương hiện ra thật nhẹ nhàng mà đầy sâu sắc. Quê hương là những điều gần gũi, thân quen nhất. Tác giả yêu quê hương “qua từng trang sách nhỏ”, đó là nơi nuôi dưỡng tâm hồn và vun đắp cho những ước mơ. Trong mắt tác giả, quê hương luôn là điều hạnh phúc nhất. “Ai bảo chăn trâu là khổ” có lẽ là câu hỏi đặt ra cho người và cũng là cho chính mình. Chăn trâu, cắt cỏ chính là những điều gần gũi, thân thuộc nhất với quê hương. 

Thế rồi, những hình ảnh trữ tình cứ thế xuất hiện. Cậu bé chăn trâu ấy “mơ màng nghe chim hót trên cao”, quê hương lúc ấy sao lại bình yên đến vậy. Không chỉ là không gian gần gũi, thân thuộc, quê hương trong lòng Giang Nam còn là những ngày trốn học “đuổi bướm cầu ao”. Dường như đây là kỷ niệm mà bất cứ đứa trẻ con vùng quê nào cũng từng trải qua. Bằng một câu thơ, Giang Nam đã làm ký ức ùa về trong bao người. Ấy rồi những trận đòn của mẹ trong ký ức của tác giả lại trở nên thân thương đến lạ.

Hình ảnh cô bé nhà bên “nhìn tôi cười khúc khích” càng làm cho sự gần gũi của quê hương trở nên thân thuộc. Tuổi thơ ai chẳng có một cô bé nhà bên chuyên để chọc ghẹo, cùng làm những điều nghịch ngợm của tuổi thơ. Cô bé nhà bên ấy có lẽ là nhân vật trữ tình gắn bó thân thuộc với tác giả từ trong ký ức tuổi thơ đến khi trưởng thành.  

30 tháng 4

Tham khảo: 

Bài thơ "Tiếng hát mùa gặt" của Nguyễn Duy là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc với nội dung sâu sắc và tinh tế. Dưới đây là phân tích và đánh giá nội dung nghệ thuật của bài thơ này.
Bài thơ "Tiếng hát mùa gặt" được chia thành 4 phần, mỗi phần tả lại một khung cảnh khác nhau nhưng đều xoay quanh chủ đề mùa gặt và cuộc sống nông thôn. Từng phần được xây dựng một cách tỉ mỉ và tạo nên một hình ảnh sống động trong tâm trí người đọc.
Phần đầu tiên của bài thơ tả cảnh một ngôi làng nông thôn vào mùa gặt. Nguyễn Duy sử dụng những hình ảnh mô tả chi tiết như "cánh đồng mênh mông", "bông lúa vàng rực", "ngôi làng nhỏ bé" để tạo nên một bức tranh sinh động về cuộc sống nông thôn. Bên cạnh đó, ông cũng sử dụng những từ ngữ như "sắc màu", "hương thơm" để tạo nên một không gian thơ mộng và tươi vui.
Phần thứ hai của bài thơ tả lại hình ảnh của những người nông dân đang làm việc trong cánh đồng. Nguyễn Duy sử dụng những từ ngữ như "đồng ruộng", "cánh đồng", "người nông dân" để tạo nên một bức tranh về sự lao động và khổ hạnh của người dân nông thôn. Ông cũng sử dụng những hình ảnh mô tả chi tiết như "bàn tay gầy guộc", "mồ hôi nhễ nhại" để tạo nên một cảm giác sống động và chân thực.
Phần thứ ba của bài thơ tả lại tiếng hát của người nông dân trong lúc làm việc. Nguyễn Duy sử dụng những từ ngữ như "tiếng hát", "tiếng cười", "tiếng hò reo" để tạo nên một không gian vui tươi và hân hoan. Ông cũng sử dụng những hình ảnh mô tả chi tiết như "tiếng hát vang lên từng ngõ ngách", "tiếng hò reo vang lên từng cánh đồng" để tạo nên một cảm giác sống động và phấn khích.
Phần cuối cùng của bài thơ tả lại hình ảnh của một cô gái đang hát trong cánh đồng. Nguyễn Duy sử dụng những từ ngữ như "cô gái", "tiếng hát", "màu áo trắng" để tạo nên một bức tranh tươi sáng và đẹp đẽ. Ông cũng sử dụng những hình ảnh mô tả chi tiết như "tiếng hát bay lên như chim trời", "màu áo trắng như cánh diều" để tạo nên một cảm giác mộng mơ và lãng mạn.
Tổng thể, bài thơ "Tiếng hát mùa gặt" của Nguyễn Duy là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc với nội dung sâu sắc và tinh tế. Từng phần của bài thơ được xây dựng một cách tỉ mỉ và tạo nên những hình ảnh sống động trong tâm trí người đọc. Nguyễn Duy sử dụng những từ ngữ và hình ảnh mô tả chi tiết để tạo nên một không gian thơ mộng và tươi vui. Bài thơ mang đến cho người đọc một trải nghiệm tuyệt vời về cuộc sống nông thôn và giá trị của lao động nông dân.