K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

23 tháng 6 2019

Đoạn văn :

Quê hương có một vị trí quan trọng trong lòng mỗi người. Mỗi người dân Việt Nam đều có tình cảm thiêng liêng gắn bó với quê hương xứ sở của mình. Đối với những con người lao động, nhất là người nông dân, họ đã gắn bó mật thiết với quê hương. Từ lúc cất tiếng khóc chào đời, rồi tuổi thơ đẹp đẽ, những công việc lao động, rồi cuộc sống gia đình, cho tới lúc chết họ đã sống gắn liền với làng quê. Tình cảm yêu quê hương đất nước là một truyền thống tốt đẹp và đáng quý của dân tộc Việt Nam. Cho dù có ở nơi xa nhưng mỗi người vẫn luôn nhớ về quê nhà của mình. Quê hương như một người mẹ hiền ôm ta vào lòng và dành cho ta những gì tốt đẹp nhất. Quê mẹ là nơi ấp ủ tình yêu thương, nơi nuôi ta lớn, dạy dỗ, an ủi che chở cho ta. Quê hương - hai tiếng thân thương mỗi lần nghe thấy chúng ta không khỏi xúc động bồi hồi. Tình yêu quê hương đã ăn sâu vào máu thịt, đi sâu vào lòng mỗi con người. Vì vậy nếu ai chưa nhận thức chưa có tình cảm gắn bó với xứ sở của mình thì hẳn họ chưa được coi là trưởng thành. Quê hương đi vào lòng con người một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nhớ tới quê hương đất nước của mình chỉ qua một món ăn bình dị hay một địa danh đã gắn liền với những kỷ niệm đẹp...
 

Quê hương có một vị trí quan trọng trong lòng mỗi người. Mỗi người dân Việt Nam đều có tình cảm thiêng liêng gắn bó với quê hương xứ sở của mình. Đối với những con người lao động, nhất là người nông dân, họ đã gắn bó mật thiết với quê hương. Từ lúc cất tiếng khóc chào đời, rồi tuổi thơ đẹp đẽ, những công việc lao động, rồi cuộc sống gia đình, cho tới lúc chết họ đã sống gắn liền với làng quê. Tình cảm yêu quê hương đất nước là một truyền thống tốt đẹp và đáng quý của dân tộc Việt Nam. Cho dù có ở nơi xa nhưng mỗi người vẫn luôn nhớ về quê nhà của mình. Quê hương như một người mẹ hiền ôm ta vào lòng và dành cho ta những gì tốt đẹp nhất. Quê mẹ là nơi ấp ủ tình yêu thương, nơi nuôi ta lớn, dạy dỗ, an ủi che chở cho ta. Quê hương - hai tiếng thân thương mỗi lần nghe thấy chúng ta không khỏi xúc động bồi hồi. Tình yêu quê hương đã ăn sâu vào máu thịt, đi sâu vào lòng mỗi con người. Vì vậy nếu ai chưa nhận thức chưa có tình cảm gắn bó với xứ sở của mình thì hẳn họ chưa được coi là trưởng thành. Quê hương đi vào lòng con người một cách rất tự nhiên. Người ta có thể nhớ tới quê hương đất nước của mình chỉ qua một món ăn bình dị hay một địa danh đã gắn liền với những kỷ niệm đẹp...

Hồ Chí Minh là một lãnh tụ cách mạng, một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Trong những di sản mà Người để lại cho đời thì thi ca chiếm vị trí quan trọng. Thơ Hồ Chí Minh thể hiện tình yêu đời, yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước thắm thiết, thể hiện một nghệ thuật thơ mang đậm màu sắc cổ điển và hiện đại. "Ngắm trăng" là bài thơ số 20, được rút ra trong tập "Nhật kí trong tù". Tác phẩm được viết theo thể thơ tứ tuyệt ngắn gọn, giản dị nhưng hàm súc, mở ra thế giới tâm hồn, tình cảm phong phú của Bác trong hoàn cảnh tối tăm gian khổ của ngục tù.

Tháng 8 năm 1942, Hồ Chí Minh từ Pác Pó (Cao Bằng) bí mật lên đường sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế cho cách mạng Việt Nam nhưng khôn ngờ đến Quảng Tây, Người bị chính quyền tàu Tưởng bắt giam vô cowsvaf giải qua 30 mươi nhà giam của 13 huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, bị đày đọa trong hơn một năm trời. Người viết tập thơ "Nhật kí trong tù" để nhằm múc đích giải khuây nhưng qua tập thơ, người đọc vẫn thấy được chân dung tâm hồn con người Hồ Chí Minh - một tinh thần lạc quan, một phong thái ung dung thanh thản, một bản lĩnh thép cứng cỏi phi thường của người chiến sĩ cộng sản và một tâm hồn tinh tế, nhạy cảm yêu thương con người, yêu thiên nhiên tha thiết của Bác. Bài thơ "Ngắm trăng" được Bác viết vào trong hoàn cảnh ngục tù nhưng trước vẻ đẹp của ánh trăng đêm, Bác đã thoát khỏi xiềng xích gông cùm của cảnh tù mà vượt ngục bằng tinh thần đến với thiên nhiên tự do mênh mông khoáng đạt. Có thể nói, bài thơ là minh chứng tiêu biểu cho tâm thế: "Thân thể ở trong lao/ Tinh thần ở ngoài lao" của Người.

Trước hết hai câu thơ mở đầu là lời giới thiệu về hoàn cảnh trong chốn ngục tù và nỗi niềm băn khoăn mộng mơ của người nghệ sĩ:

Ngục trung vô tửu diệc vô hoa

Đối thử lương tiêu nại nhược hà?

dịch thơ:

Trong tù không rượu cũng không hoa

Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ

Điệp từ "vô" (không) được nhắc lại hai lần có tác dụng nhấn mạnh đến những cái không có đáng lẽ ra không thể thiếu trong lúc này: không rượu, không hoa. Và đối lập với cái không bên trên là "cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ". Câu hỏi tu từ ở câu thơ thứ hai "nại nhược hà?" (như thế nào) thể hiện sự băn khoăn, bồn chồn, bối rối của người nghệ sĩ khi đứng trước "cảnh đẹp": không có rượu, cũng chẳng có trăng để thưởng ngoạn trăng đêm cho trọn vẹn thì biết làm sao?. Sự tiếc nuối, băn khoăn là biểu hiện của một tấm lòng thành thực, của tâm hồn yêu thiên nhiên đắm say, ngây ngất và khát khao được đằm mình cùng với ánh trăng. Vượt thoát ra khỏi khuôn khổ câu chữ, câu thơ vừa cho thấy một tâm hồn nghệ sĩ của Hồ Chí Minh, lại vừa cho thấy một bản lĩnh thép của ngừoi chiến sĩ cộng sản. Dù đối diện với khó khăn, với gông cùm xiềng xích nơi ngục tù, Bác vẫn mở lòng ra mà đón nhận tất cả vẻ đẹp của thiên nhiên, của ánh trăng đêm nơi nhà giam lạnh lẽo.Lời thơ đã cho thấy một tâm hồn thanh cao, yêu cái đẹp vượt lên trên hoàn cảnh nghiệt ngã của người tù Hồ Chí Minh.

Và khi phải đứng trước cảnh đẹp mà không biết phải ứng xử làm sao vì thiếu thốn đủ điều, Bác đã tìm đến cách giải quyết hoàn cảnh đó thật khéo léo, chân tình: lấy tấm lòng để đáp lại tấm lòng, lấy tình yêu với trăng mà đối lại với vầng trăng - người bạn tri kỉ của mình. Đó là cách ứng xử đầy nghĩa tình, đầy lãng mạn, mộng mơ:

Nhân hướng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia.

Qủa là một cuộc kì duyên hội ngộ!. Bất chấp cả không gian xung quanh, của chiếc "song sắt" chắn ngang trước mặt, người và trăng, trăng và người cứ hướng về nhau bằng một tấm lòng đối đãi người tri kỉ. Người thì hướng ra ngoài song để ngắm nhìn vẻ đẹp của trăng, còn trăng cũng vượt qua song sắt để đến bên người. Một không gian hoàn toàn tĩnh lặng trong những phút giây giao hòa mãnh liệt nồng nàn giữa người và trăng. Nghệ thuật nhân hóa ở câu thơ cuối đã làm cho vầng trăng trở nên có tâm hồn, có ánh mắt, có dáng hình cụ thể và cũng biết đồng cảm, sẻ chia để trở thành kẻ tâm giao, người tri kỉ, bạn bè của người tù. Thật là một khoảnh khắc lãng mạn, giàu chất thơ, chất họa, ánh trăng đã xoa tan đi cảnh ngục tù tăm tối, làm cho hồn người trở nên sáng trong, thanh bạch. Câu thơ dựng lên một bức tranh đêm với cảnh người tù ngắm trăng thật đẹp, thật ấm áp, tươi vui, thể hiện sự giao cảm đặc biệt của người với trăng.

"Ngắm trăng" mang đậm màu sắc cổ điển và tinh thần hiện đại. Màu sắc cổ điển được thể hiện ở đề tài (Vọng nguyệt), thi liệu (rượu, hoa, trăng), thể thơ tứ tuyệt, cấu trúc đăng đối (hai câu cuối). Còn vẻ đẹp hiện đại thể hiện ở tâm hồn lạc quan, luôn ngập tình yêu thiên nhiên, tình yêu cuộc sống và bản lĩnh phi thường luôn hướng về ánh sáng của người chiến sĩ cộng sản...

Bài thơ được viết theo thể tứ tuyệt, chỉ có 28 chữ cái rất ngắn gọn, cô đúc nhưng đã khắc họa thành công một bức chân dung tâm hồn của người chiến sĩ cộng sản: yêu thiên nhiên với tinh thần lạc quan, manh mẽ, vượt lên trên hoàn cảnh tù đầy khắc nghiệt. Đó là chất thép trong bài thơ hay chính là chất thép trong bản lĩnh nghị lực phi thường của người chiến sĩ vĩ đại - Hồ Chí Minh.

Nói về con người và tâm hồn Bác, chúng ta biết Bác là nơi hội tụ những gì tốt đẹp nhất lưu lại từ quá khứ và những mơ ước tương lai, là kết tinh những phẩm chất quí giá của lịch sử và thời đại. Cho nên ở “Nhật kí trong tù” có bài hồn hậu, trong trẻo như thơ dân gian, nhưng cũng có bài trang trọng, bát ngát như thơ Đường, thơ Tống, cốt cách á đông mà vẫn hiện đại : Bài “Ngắm trăng” tiêu biểu về đặc sắc nghệ thuật này của thơ “Nhật kí trong tù” : Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ. Không biết tự bao giờ, ánh trăng đã toả sáng bàng bạc trong hầu hết những bài thơ phương Đông. Vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm, sâu xa của vầng trăng trở thành một “mô típ trữ tình”, bởi sự gần gũi với tâm hồn con người á đông - một sự hoà quện, đồng cảm tự bên trong giữa con người và thiên nhiên. Trong cái bát ngát lung linh của vầng trăng - khoảng trời, phải chăng con người lắng nghe và phát hiện ra cái chất người vĩnh cửu trong chính bản thân mình, trong sự im lặng mênh mang và huyền diệu của ánh trăng ? ... Bác Hồ của chúng ta rất yêu thiên nhiên, tâm hồn và thơ của Người tràn đầy ánh trăng, ánh trăng rất sáng, rất trong, rất đẹp. Trong tù không rượu cũng không hoa Cảnh đẹp đêm nay khó hững hờ Trăng, hoa, rượu là những thú vui thanh cao của các thi nhân Đường, Tống ngày xưa. Nhưng trong hoàn cảnh nhà tù “không rượu cũng không hoa” mà Bác vẫn đến với trăng, thật là nghệ sĩ ! Câu thơ thứ hai nói lên cái bồn chồn, náo nức của Bác trước ánh trăng, cái tha thiết tình yêu của tâm hồn Người với trăng. Hai câu thơ đầu cũng gợi lên một mâu thuẫn giữa tình yêu thiên nhiên của Bác và hoàn cảnh trong tù, giữa cảm hứng dạt dào, bay bổng, tràn đầy và thực tại xích xiềng, thiếu thốn. Nếu đầu tiên, bài thơ mở ra một hình ảnh thi nhân ngày xưa, một không khí thơ Đường, thơ Tống : ánh trăng, rượu, hoa một thi nhân biết bao nồng nàn tha thiết, say sưa với ánh trăng, thì bài thơ khép lại một cách bất ngờ và độc đáo trong tư thế vọng nguyệt của một người chiến sĩ. Chất thép và chất tình hoà quyện làm một. Bài thơ đậm đà chất phương Đông, cốt cách á đông, bỗng chốc rất hiện đại. Hình ảnh chiến sĩ lồng trong hình ảnh một thi sĩ đắm say thiên nhiên. Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ Trăng và người trong mối giao cảm tri âm, tri kỉ. Người hướng ra ngoài song sắt để đến với trăng, và trăng theo người toả sáng vào trong tù. Con người và ánh trăng này rõ ràng là hết sức mới mẻ, hiện đại. Trăng và người như hai người bạn cùng yêu nhau, vượt qua các song sắt tàn bạo, cái hoàn cảnh khổ đau, ngăn trở của nhà tù. Nhất là trong hoàn cảnh cụ thể của người làm thơ, ánh trăng và tư thế vọng nguyệt kia biểu hiện chất thép của một người chiến sĩ cách mạng, đứng ở trên mọi gian khổ tù đày. Có thể nói rằng, Bác đã đưa ánh trăng toả sáng vào trong nhà tù hay chính tâm hồn người đã toả sáng trên vầng trăng của bài thơ này. Cùng một vầng trăng, mà biết bao mặc cảm, buông xuôi, chán chường trong thơ Nguyễn Khuyến “song thưa để mặc bóng trăng vào”, hay cái ngậm ngùi, thoát li của Tản Đà với “trần thế em nay chán nữa rồi”. Trong cái bát ngát của vầng trăng thơ Bác, chúng ta lắng nghe và phát hiện ra cái chất người vĩnh cửu : một tình yêu phóng khoáng, nồng nàn, say đắm thiên nhiên, cuộc sống ; một ý chí, một tinh thần cách mạng kiên cường luôn luôn hướng ra ánh sáng cuộc đời. ánh trăng của Người không chỉ bàng bạc những nỗi niềm, tấc lòng con người như thơ xưa, ánh trăng của Người gắn bó thiết tha với con người và toả ánh sáng ra cuộc đời, trong sự hoà nhập vẻ đẹp của con người và thiên nhiên. Con người yêu thiên nhiên, đón nhận thiên nhiên và mang vẻ đẹp thiên nhiên tô điểm cho cuộc sống của mình, từ tình yêu thiên nhiên thêm nguồn sức sống để chiến đấu cho hạnh phúc, vẻ đẹp của con người. Bài thơ ngân lên một chất thơ mới, rất hiện đại, chỉ có thể có được từ tâm hồn, từ nhân sinh quan cộng sản. Bài thơ là một sự vang hưởng giữa tâm hồn con người với thiên nhiên, sự vang hưởng làm tươi thắm và nảy nở những điều cao đẹp hơn, những hạt giống của hạnh phúc trong cuộc sống con người. Nói một cách khác, tình yêu này, sự rung cảm này, chất thơ này trở thành một nguồn năng lượng vô tận cho hành động, sức sống, đi suốt cuộc đời mỗi người.
23 tháng 6 2019

Toàn bọn bug điểm, spam câu trả lời để kiếm lời, đa số bài thì cop mạng, chả ra gì. MCU là bọn phá olm

Trong gia đình, người mà em yêu quý nhất đó là bà của em. Bà là người gần gũi với em, chăm lo cho em từ thuở em mới lọt lòng. Bà ru em bằng những lời ru êm dịu.

Bà em năm nay đã già rồi, mái tóc đã bạc phơ vì bươn chải với thời gian. Khuôn mặt bà đầy đặn, đẹp lão trông thật hiền từ và phúc hậu. Vầng trán cao đã có nhiều nếp nhăn. Em nghĩ rằng, mỗi nếp nhăn trên gương mặt bà là một chuỗi ngày dài vất vả. Đôi mắt bà không còn tinh anh nữa nhưng đôi mắt ấy thật dịu hiền khó tả. Đôi mắt đầy yêu thương, trìu mến.

Tuy lưng hơi còng nhưng bà đi lại rất nhanh nhẹn. Đáng chú ý nhất là đôi tay khéo léo của bà. Đôi bàn tay ấy đã chai sần, những ngón tay gầy gầy, xương xương nhưng bà làm biết bao nhiêu là việc. Bà rất thích lao động, ít nghỉ ngơi. Bà thích làm bánh, nấu ăn, dọn dẹp đồ dùng gọn gàng, ngăn nắp.

Những ngày thơ ấu, em được sống trong tình yêu bao la của bà. Bà bao giờ cũng yêu quý và chăm sóc em. Bằng những câu ca dao ru hò êm ái, những câu chuyện cổ tích li kì, bà đã đưa em vào giấc ngủ say nồng. Bà yêu thương tất cả mọi người, hay giúp đỡ người nghèo khó. 

Bà mong em học giỏi, thành tài. Bà dạy em những điều hay, lẽ phải. Bà nhắc nhở em phải biết đạo lí, kính trên nhường dưới, vâng lời thầy cô giáo, hòa nhã với bạn bè. Bà thường lấy những câu chuyện đời thường thể hiện điều nhân nghĩa qua đó giáo dục em.

Tấm lòng nhân hậu của bà đã làm tâm hồn em thêm phong phú, đã truyền thêm sức mạnh cho em để vững bước đi lên. Gia đình em ai cũng kính yêu bà và làm theo điều bà khuyên răn, dạy bảo. Em vẫn thường tha thẩn theo bà, lúc quét nhà, khi nhặt rau, múc nước giúp bà. Em thầm mong sao cho bà em đừng già thêm nữa.

Trong gia đình, người mà em yêu quý nhất đó là bà của em. Bà là người gần gũi với em, chăm lo cho em từ thuở em mới lọt lòng. Bà ru em bằng những lời ru êm dịu.

Bà em năm nay đã già rồi, mái tóc đã bạc phơ vì bươn chải với thời gian. Khuôn mặt bà đầy đặn, đẹp lão trông thật hiền từ và phúc hậu. Vầng trán cao đã có nhiều nếp nhăn. Em nghĩ rằng, mỗi nếp nhăn trên gương mặt bà là một chuỗi ngày dài vất vả. Đôi mắt bà không còn tinh anh nữa nhưng đôi mắt ấy thật dịu hiền khó tả. Đôi mắt đầy yêu thương, trìu mến.

Tuy lưng hơi còng nhưng bà đi lại rất nhanh nhẹn. Đáng chú ý nhất là đôi tay khéo léo của bà. Đôi bàn tay ấy đã chai sần, những ngón tay gầy gầy, xương xương nhưng bà làm biết bao nhiêu là việc. Bà rất thích lao động, ít nghỉ ngơi. Bà thích làm bánh, nấu ăn, dọn dẹp đồ dùng gọn gàng, ngăn nắp.

Những ngày thơ ấu, em được sống trong tình yêu bao la của bà. Bà bao giờ cũng yêu quý và chăm sóc em. Bằng những câu ca dao ru hò êm ái, những câu chuyện cổ tích li kì, bà đã đưa em vào giấc ngủ say nồng. Bà yêu thương tất cả mọi người, hay giúp đỡ người nghèo khó. 

Bà mong em học giỏi, thành tài. Bà dạy em những điều hay, lẽ phải. Bà nhắc nhở em phải biết đạo lí, kính trên nhường dưới, vâng lời thầy cô giáo, hòa nhã với bạn bè. Bà thường lấy những câu chuyện đời thường thể hiện điều nhân nghĩa qua đó giáo dục em.

Tấm lòng nhân hậu của bà đã làm tâm hồn em thêm phong phú, đã truyền thêm sức mạnh cho em để vững bước đi lên. Gia đình em ai cũng kính yêu bà và làm theo điều bà khuyên răn, dạy bảo. Em vẫn thường tha thẩn theo bà, lúc quét nhà, khi nhặt rau, múc nước giúp bà. Em thầm mong sao cho bà em đừng già thêm nữa.

Trong gia đình, tôi yêu quý tất cả mọi người, nhưng người mà tôi yêu mến nhất, kính trọng nhất vẫn là ông ngoại. Bất cứ lúc nào, hình ảnh của ông cũng thật ngọt ngào trong trái tim tôi.

Ông tôi chưa già lắm đâu, chỉ khoảng bảy mươi thôi. Dáng ông tầm thước như bao cụ già khác. Khuôn mặt sắt lại với nhiều nếp nhăn của những ngày tháng khó khăn, vất vả. Gian khổ nhất là những năm tháng trong chiến trường miền Đông Nam Bộ xưa kia. Khuôn mặt vuông vuông chữ điền, nước da sạm lại với nhiều chấm đồi mồi, đuôi mắt lại đầy những vết chân chim; vậy mà ông tôi trông vẫn đẹp lão lắm. Đặc biệt là với tôi, ông quả thật đẹp. Hạnh phúc nhất là được nằm trong lòng ông, tay vuốt ve chòm râu điểm bạc, ngước nhìn đôi mắt ấm áp, hiền từ của ông. Lúc đó tôi có cảm giác như đang ở trong truyện cổ tích, như có ông Bụt ở bên với bao phép màu tốt lành và đẹp đẽ.

Tôi rất thích nắm tay ông, được thấy hơi ấm nóng từ tay ông truyền sang, thật là khoan khoái. Bố mẹ đi làm suốt ngày, ông với tôi sao mà thân thiết thế. Giọng nói của ông trầm trầm và rất truyền cảm, bởi hồi trẻ ông đã là một cây” kịch nói nghiệp dư nổi tiếng của trung đoàn. Chính vì thế, ông ru hoặc kể chuyện, lũ cháu chúng tôi nghe, chỉ được một lúc là dip cả mắt lại. Ông tôi nhiều con cho nên cũng lắm cháu. Tôi chưa thấy ai yêu và quyến luyến với lũ cháu như ông. Ông thường thẳng thắn bộc bạch: Khi có cháu, lại thấy yêu cháu hơn con rất nhiều!”. Lũ chúng tôi cũng yêu quý và gắn bó với ông lắm. Nhất là tôi, thằng cháu “đích tôn” như ông vẫn trìu mến gọi vậy.

Lại một bất ngờ nữa khiến các bạn khó tin, chính ông tôi chứ không phải ai khác trong gia đình này là người ngoại trợ chính. Đứng cạnh Ông, bà tôi trờ nên vụng về, lúng túng, như bà thường tự nhận “Bà của cháu mồ côi sớm nên việc bếp núc, nội trợ đoảng vị quá!”. Cứ sáng sớm, sau khi tập thể dục, luyện vài bài dưỡng sinh là ông lại xách giỏ đi chợ. Ong đâm nghiện những tiếng chào mời, lời kì kèo qua lại của cái chợ nhỏ nằm tại khu chung cư của chúng tôi. Những thứ ông mua đều tươi rói, vừa ngon lại vừa đẹp mắt bởi nhiều màu sắc. Ông nấu nướng ngon lắm, mời các bạn đến nhà tôi mà xem, ông tôi sẽ trổ tài nghệ tuyệt vời của mình để các bạn thưởng thức. Đố có mà chê nổi.

Tôi còn quên chưa nói tới sự quan tâm đặc biệt nữa của ông mình về tình hình thời sự trong và ngoài nước. Không có chương trình thời sự nào của Truyền hình, của Đài Tiếng nói Việt Nam, của báo chí nào mà ông bỏ qua. Đã thế ông còn năng trao đổi với bạn bè, không gặp gỡ, không họp hành thì ông lại gọi điện thoại. Có lẽ, điện thoại của ông tôi chỉ để làm hai việc, hỏi thăm con cháu và bàn bạc về thời sự nóng hổi. Khi nói, ông tỏ ra say sưa, nhiệt tình như có bạn mình ở trước mặt vậy. Hầu hết các thông tin về thời sự, tôi được biết qua ông mình. Mĩ đánh I-rắc cũng khiến ông tôi buồn bực, phiền muộn vô cùng, làm cả nhà xót cả ruột.

Trong nhà tôi, ông thường coi vườn cây xanh trên tầng thượng là tài sản của mình. Trên đó có bao nhiêu là cây, là hoa. Thứ nào ngoài tên ra cũng đều có lí lịch riêng của nó. Nào là kỉ niệm ngày ở chiến trường về, ngày thăm Điện Biên Phủ, ngày sinh đứa cháu đầu,… Công ông tưới bón, chăm chút, băt sâu, tạo nên vườn cây này.

Sinh nhật vừa rồi của tôi, ông tặng một chiếc kèn nhỏ xinh. Tôi tự mày mò và bây giờ đã thổi được bài “Nhạc rừng” mà ông yêu thích. Ỏng tôi tự hào lắm, cứ khoe khắp khu nhà về tài của cháu mình. Nhưng tôi hiểu không phải vậy, chẳng qua ông yêu tôi quá thôi!

Tôi yêu quý yà kính mến ông rất nhiều và cũng biết ông yêu lại tôi như vậy. Ông là người hay là ông Bụt, tôi cũng không biết nữa.

“Cháu sẽ phải cố gắng nhiều đề làm vui lòng ông, ông ơi!”. Tôi vẫn nhủ thầm như vậy.

23 tháng 6 2019

Bài văn tả ông số 1

Trong gia đình, tôi yêu quý tất cả mọi người, nhưng người mà tôi yêu mến nhất, kính trọng nhất vẫn là ông ngoại. Bất cứ lúc nào, hình ảnh của ông cũng thật ngọt ngào trong trái tim tôi.

Ông tôi chưa già lắm đâu, chỉ khoảng bảy mươi thôi. Dáng ông tầm thước như bao cụ già khác. Khuôn mặt sắt lại với nhiều nếp nhăn của những ngày tháng khó khăn, vất vả mà gian khổ nhất là những năm tháng trong chiến trường miền Đông Nam Bộ xưa kia. Khuôn mặt vuông vuông chữ điền, nước da sạm lại với nhiều chấm đồi mồi, đuôi mắt lại đầy những vết chân chim; vậy mà ông tôi trông vẫn đẹp lão lắm. Đặc biệt là với tôi, ông quả thật đẹp. 

Hạnh phúc nhất là được nằm trong lòng ông, tay vuốt ve chòm râu điểm bạc, ngước nhìn đôi mắt ấm áp, hiền từ của ông. Lúc đó tôi có cảm giác như đang ở trong truyện cổ tích, như có ông Bụt ở bên với bao phép màu tốt lành và đẹp đẽ. Tôi rất thích nắm tay ông, được thấy hơi ấm nóng từ tay ông truyền sang, thật là khoan khoái. 

Bố mẹ đi làm suốt ngày, ông với tôi sao mà thân thiết thế. Giọng nói của ông trầm trầm và rất truyền cảm, bởi hồi trẻ ông đã là một "cây” kịch nói nghiệp dư nổi tiếng của trung đoàn. Chính vì thế, ông ru hoặc kể chuyện cho lũ cháu chúng tôi nghe, chỉ được một lúc là đứa nào đứa nấy díp cả mắt lại. 

Ông tôi nhiều con cho nên cũng lắm cháu. Tôi chưa thấy ai yêu và quyến luyến với lũ cháu như ông. Ông thường thẳng thắn bộc bạch: Khi có cháu, lại thấy yêu cháu hơn con rất nhiều!”. Lũ chúng tôi cũng yêu quý và gắn bó với ông lắm. Nhất là tôi, thằng cháu “đích tôn” như ông vẫn trìu mến gọi vậy.

Lại một bất ngờ nữa khiến các bạn khó tin, chính ông tôi chứ không phải ai khác trong gia đình này là người ngoại trợ chính. Đứng cạnh Ông, bà tôi trở nên vụng về, lúng túng, như bà thường tự nhận “Bà của cháu mồ côi sớm nên việc bếp núc, nội trợ đoảng vị quá!”. Cứ sáng sớm, sau khi tập thể dục, luyện vài bài dưỡng sinh là ông lại xách giỏ đi chợ. 

Ông đâm nghiện những tiếng chào mời, lời kì kèo qua lại của cái chợ nhỏ nằm tại khu chung cư của chúng tôi. Những thứ ông mua đều tươi rói, vừa ngon lại vừa đẹp mắt bởi nhiều màu sắc. Ông nấu nướng ngon lắm, mời các bạn đến nhà tôi mà xem, ông tôi sẽ trổ tài nghệ tuyệt vời của mình để các bạn thưởng thức, đố có mà chê nổi.

Tôi còn quên chưa nói tới sự quan tâm đặc biệt nữa của ông mình về tình hình thời sự trong và ngoài nước. Không có chương trình thời sự nào của Truyền hình, của Đài Tiếng nói Việt Nam, của báo chí nào mà ông bỏ qua. Đã thế ông còn năng trao đổi với bạn bè, không gặp gỡ, không họp hành thì ông lại gọi điện thoại. Có lẽ, điện thoại của ông tôi chỉ để làm hai việc, hỏi thăm con cháu và bàn bạc về thời sự nóng hổi. 

Khi nói, ông tỏ ra say sưa, nhiệt tình như có bạn mình ở trước mặt vậy. Hầu hết các thông tin về thời sự, tôi được biết qua ông mình. Mỹ đánh I-rắc cũng khiến ông tôi buồn bực, phiền muộn vô cùng, làm cả nhà xót cả ruột. Trong nhà tôi, ông thường coi vườn cây xanh trên tầng thượng là tài sản của mình. Trên đó có bao nhiêu là cây, là hoa. Thứ cây nào ngoài tên ra cũng đều có lí lịch riêng của nó. Nào là kỉ niệm ngày ở chiến trường về, ngày thăm Điện Biên Phủ, ngày sinh đứa cháu đầu,… Công ông tưới bón, chăm chút, bắt sâu, tạo nên vườn cây này.

Sinh nhật vừa rồi của tôi, ông tặng một chiếc kèn nhỏ xinh. Tôi tự mày mò và bây giờ đã thổi được bài “Nhạc rừng” mà ông yêu thích. Ông tôi tự hào lắm, cứ khoe khắp khu nhà về tài của cháu mình. Nhưng tôi hiểu không phải vậy, chẳng qua ông yêu tôi quá thôi!

Tôi yêu quý và kính mến ông rất nhiều và cũng biết ông yêu lại tôi như vậy. Ông là người hay là ông Bụt, tôi cũng không biết nữa.“Cháu sẽ phải cố gắng nhiều để làm vui lòng ông, ông ơi!”. Tôi vẫn nhủ thầm như vậy.

Hè năm ngoái em về quê ngoại chơi và thấy cây mít ông bà trồng từ lâu đã bắt đầu sai trĩu quả trông rất thích mắt.

Em đứng lặng ngắm cây mít. Thân cây khá to cỡ hơn một vòng tay em ôm lận. Thân màu nâu sẫm, khi đứng cạnh trông em trở nên bé nhỏ so với nó. Cành lá sum suê, vươn rộng tỏa bóng mát cả một góc vườn. Dưới gốc cây ông em còn đóng một cái xích đu be bé để dành riêng cho hai chị em em ngồi. Những ngày hè nóng nực, chỉ cần ra vườn ngồi nghỉ dưới gốc cây sẽ thấy rất mát mẻ và dễ chịu. 

Lá mít rất to, dày, xanh đậm. Mặt trước của lá sáng bóng còn mặt đằng sau thì ngược lại, xanh nhạt hơn. Từ thân cây, nảy ra những trái mít non. Lúc đầu chúng be bé màu xanh cỡ cái cốc rồi lớn dần lên đến khi có thể ăn được thì to hơn cái ấm tích của bà. Khi chín, vỏ mít chuyển màu sáng màu sậm. Nhìn bên ngoài vỏ mít sần sùi nhiều gai là thế nhưng bên trong thì vô cùng thơm ngon.

Khi mít chín thì thơm lan tỏa khắp vườn. Mùi thơm ấy ngọt ngào len lỏi từ vườn vào trong nhà. Em háo hức lắm nên cứ giục ông ra thăm cây liền. Ông nở nụ cười thân thương rồi đến cây mít, nhẹ nhàng cắt bỏ cuống rồi ôm quả vào lòng. Ông vui lắm đấy vì cây mít ông trồng từ lâu đã có thể hái cho các cháu ăn. Bổ quả mít ra, những múi mít vàng ươm nằm xen kẽ với xơ mít trông rất hấp dẫn. Mùi thơm khi bổ tăng lên gấp bội. 

Cả nhà quây quần dưới hiên ngồi ăn mít và trò chuyện thật vui vẻ. Những múi mít ngọt đậm, thơm lừng khiến ai ăn cũng phải tấm tắc khen. Hạt mít có thể luộc hoặc rang ăn rất bùi và ngon. Vào những trưa hè đầy nắng, em rất thích nằm dưới gốc mít nghe bà kể chuyện và xem ông tỉa lá vì đã có tán lá rợp rộng tỏa bóng mát dễ chịu. Mong rằng mỗi năm em đều được về quê và được thu hoạch hoa quả trong vườn cùng ông bà.

Cây ổi ở đầu vườn

Vườn nhà em có rất nhiều loại cây nhưng em thích nhất là cây ổi trồng ở đầu vườn.

Nhìn từ xa cây ổi như một chiếc ô khổng lồ. Thân cây to, chắc khoẻ mọc thẳng. Cái gốc của cây to hơn thân, sần sùi. Cái rễ của cây như những con giun cắm sâu xuống đất để hút chất dinh dưỡng, vận chuyển ngược lên nuôi cây. Cái lá của cây to, mượt, những đường gân nổi rõ nét. Lá ổi mùa xuân có màu tươi dịu, khi sang mùa đông thì có màu xanh đậm. Khi có gió thổi qua, tiếng lá xào xạc như muốn nói với em điều gì đó. 

Quả ổi tròn, to mọc ra từng chùm. Hạt của nó bé và tập trung vào giữa quả. Quả ổi có mùi thơm, khi ăn vào có vị ngọt, rất nhiều vitamin. Thỉnh thoảng, có vài chú chim sơn ca hay đến để bắt những con sâu và cất tiếng hót líu lo. Cây ổi chẳng những cho chúng em bóng mát để vui chơi mà còn cho chúng em quả để ăn. 

Em rất thích cây ổi, hằng ngày em sẽ chăm sóc nó cẩn thận. Cây ổi là người bạn thân thiết nhất của em

“Công cha như núi Thái Sơn,

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”

Mỗi khi nghe thấy đâu đó vọng lên câu ca dao ấy, lòng tôi lại xao xuyến nhớ về người mẹ thân yêu của mình. Mẹ tôi đã chịu bao nhiêu đớn đau, khổ cực để sinh ra tôi. Và mẹ cũng đã dành cả cuộc đời để săn sóc, dõi theo tôi từng bước trưởng thành. Với tôi, hình ảnh mẹ mãi là hình ảnh đẹp đẽ nhất, thiêng liêng nhất.

Năm nay, mẹ tôi đã bước qua tuổi 40. Tuy vậy, trông mẹ vẫn còn rất tươi trẻ. Trong mỗi khoảnh khắc quan trọng của cuộc đời, dù buồn dù vui, tôi đều nhớ đến bóng dáng của mẹ. Dáng người mẹ thanh mảnh, làn da trắng đã điểm những nếp nhăn. Mẹ là một người phụ nữ trẻ trung, năng động, nhiệt huyết nhưng đằng sau vẻ tươi tắn đó là sự hi sinh to lớn để nuôi nấng tôi. Cũng chính vị vậy mà đôi bàn tay mẹ chai sạn, gầy gầy, xương xương. Nhưng không hiểu sao tôi lại muốn được ôm ấp, vỗ về trong đôi bàn tay ấm áp đó. Có lẽ, vì đôi bàn tay đó đã chịu bao nhiêu sự vất vả vì tôi chăng? Sự vất vả của mẹ còn thể hiện rất rõ qua những nếp nhăn, vết chân chim trên gương mặt mẹ. Khuôn mặt trái xoan cùng vầng trán cao và đôi lông mày ngang tạo nên nét thanh thoát riêng biệt của mẹ. Mẹ tôi có đôi mắt bồ câu đen láy, ánh lên sự hiền dịu, trìu mến. Nhưng khi tôi chưa vâng lời, đôi mắt ấy lại đượm buồn khó tả. Chiếc mũi mẹ cao dọc dừa, trông hài hòa với những nét vốn có của mẹ. Hình ảnh trên gương mặt mẹ để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc nhất chính là nụ cười. Nụ cười của mẹ rạng rỡ chính nhờ khóe miệng nhỏ nhắn, đôi môi trái tim và hàm răng trắng đều tăm tắp. Nụ cười ấy như ánh mặt trời ban mai, ấm áp, thân thiện, chan hòa và đầy tình thương yêu. Khi nào buồn, chỉ cần nhìn vào nụ cười động viên của mẹ, tôi lại có thêm động lực. Đôi lúc, nụ cười ấy lại tan biến, thay vào đó là những giọt nước mắt. Lúc đó, trông mẹ như một bông hoa đang úa dần, buồn đến lạ…! Nên tôi luôn thầm nhủ phải học thật chăm, thật giỏi để giữ mãi nụ cười trên đôi môi mẹ.

Là một người phụ nữ của gia đình nên tính cách mẹ tôi vừa hiền hậu vừa rất nghiêm khắc. Mẹ thức khuya, dậy sớm để chăm lo cho gia đình từng bữa ăn, giấc ngủ. Mỗi sớm thức dậy, tôi luôn cảm thấy thật hạnh phúc khi được ăn những món ăn mẹ nấu. Mẹ nhanh tay đảo thức ăn trong chảo. Mẹ nêm, nếm cẩn thận rồi múc ra bát, ra đĩa cho tôi. Ngày trước, tôi thường biếng ăn. Mẹ luôn bắt tôi ăn hết. Giờ thì tôi hiểu, mẹ cũng chỉ muốn tôi có sức khỏe tốt mà thôi. Mẹ thường dặn dò, hướng dẫn tôi trong việc học tập.

Có lẽ, ai trong chúng ta cũng yêu thương nhất người mẹ của mình. Người đã dành một đời để hi sinh vì con cái. Chính vì vậy, dù xưa hay nay, người ta vẫn luôn ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng. Tôi cũng rất yêu, rất thương mẹ và rất tự hào vì là con của mẹ.

Trong gia đình, ai cũng thương yêu em hết mực, nhưng mẹ là người gần gũi, chăm sóc em nhiều nhất.

Năm nay, mẹ em bốn mươi tuổi. Với thân hình mảnh mai, thon thả đã tôn thêm vẻ đẹp sang trọng của người mẹ hiền từ. Mái tóc đen óng mượt mà dài ngang lưng được mẹ thắt lên gọn gàng. Đôi mắt mẹ đen láy luôn nhìn em với ánh mắt trìu mến thương yêu. Khuôn mặt mẹ hình trái xoan với làn da trắng. Đôi môi thắm hồng nằm dưới chiếc mũi cao thanh tú càng nhìn càng thấy đẹp. Khi cười, nhìn mẹ tươi như đóa hoa hồng vừa nở ban mai. Đôi bàn tay mẹ rám nắng các ngón tay gầy gầy xương xương vì mẹ phải tảo tần để nuôi nấng, dìu dắt em từ thuở em vừa lọt lòng. Mẹ làm nghề nông nhưng mẹ may và thêu rất đẹp. Đặc biệt mẹ may bộ đồ trông thật duyên dáng, sang trọng. Ở nhà, mẹ là người đảm nhiệm công việc nội trợ. Mẹ dạy cho em các công việc nhẹ nhàng như: quét nhà, gấp quần áo... Còn bố thì giúp mẹ giặt đồ, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ. Thỉnh thoảng, mẹ mua hoa về chưng ở phòng khách cho đẹp nhà. Mỗi khi khách đến, mẹ luôn đón tiếp niềm nở, nồng hậu, mời khách đĩa trái cây và nước mát. Mẹ luôn dậy sớm để chuẩn bị bữa ăn sáng cho cả nhà, để hai anh em cùng cắp sách đến trường kịp giờ học. Khi em ốm đau mẹ phải thức suốt đêm để chăm sóc. Mẹ lo thuốc cho em uống kịp thời. Mẹ nấu cháo và bón cho em từng thìa. Tuy công việc đồng áng bận rộn nhưng buổi tối mẹ thường dành khoảng ba mươi phút để giảng bài cho em. Sau đó mẹ chuẩn bị đồ để sáng mai dậy sớm lo buổi sáng cho gia đình. Mẹ rất nhân hậu, hiền từ. Mẹ chưa bao giờ mắng em một lời. Mỗi khi em mắc lỗi, mẹ dịu dàng nhắc nhở em sửa lỗi. Chính vì mẹ âm thầm lặng lẽ dạy cho em những điều hay lẽ phải mà em rất kính phục mẹ. Mẹ em là vậy. Mẹ ơi, con yêu mẹ lắm! Mỗi khi được mẹ ôm ấp trong vòng tay ấm áp của mẹ, con thấy mình thật hạnh phúc vì có mẹ. Mẹ ơi! Có mẹ, con thấy sướng vui. Có mẹ, con thấy ấm lòng. Trong trái tim con, mẹ là tất cả, mẹ là cô tiên tuyệt vời nhất trong cuộc đời con. Con luôn yêu thương mẹ và tự hào vì được làm con của mẹ.

Tấm lòng của mẹ bao la như biển cả đối với con và con hiểu rằng không ai thương con hơn mẹ. Ôi, mẹ kính yêu của con! Con yêu mẹ hơn tất cả mọi thứ trên cõi đời này vì mẹ chính là mẹ của con. "Đi khắp thế gian không ai tốt bằng mẹ...." Con mong sao cho mình mau lớn để có thể giúp cho mẹ đỡ vất vả hơn. Con hứa sẽ chăm học và cố gắng học thật giỏi để báo đáp công ơn sinh thành nuôi nấng con nên người, mẹ ơi.

ình tượng “Thanh gươm của Damocles” (sword of Damocles) nổi tiếng có nguồn gốc từ một câu chuyện ngụ ngôn cổ xưa được phổ biến bởi triết gia Roman Cicero trong một cuốn sách vào năm 45 TCN của ông mang tên Tusculanae Disputationes (Tạm dịch: Những cuộc thảo luận của người Tusculan). Phiên bản câu chuyện của Cicero tập trung vào Dionysius II, một vị vua độc tài một thời từng cai trị thành phố Sicily thuộc Syracuse ở thế kỷ thứ tư và thứ năm TCN. Mặc dù giàu có và quyền lực, Dionysius vẫn vô cùng bất an. Những luật lệ tàn bạo đã gây ra cho ông nhiều kẻ thù, và ông bị dày vò bởi nỗi lo sợ bị ám sát – đến nỗi ông phải ngủ trong một phòng ngủ được bao quanh bởi một con hào và chỉ tin cậy cho con gái giúp mình cạo râu bằng một lưỡi dao cạo.

Theo như Cicero kể, một ngày, sự bức bối của nhà vua lên đến đỉnh điểm khi một nịnh thần tên là Damocles đã tuôn ra hàng lời khen ngợi và nhận xét rằng cuộc sống của Dionysius phải hạnh phúc đến nhường nào. “Vì cuộc sống của ta làm ngươi vui thích”, Dionysius khó chịu trả lời, “ngươi có muốn tự mình nếm trải thử và xem ta may mắn đến chừng nào không?” Khi Damocles đồng ý, Dionysius đặt y lên một chiếc ngai vàng và ra lệnh cho một toán người hầu phục vụ y. Y được thiết đãi bằng những miếng thịt ngon và được tắm đẫm với nước hoa và dầu xức.

Damocles không thể tin được vận may của mình, nhưng ngay khi y bắt đầu tận hưởng cuộc sống của một vị vua, y nhận ra Dionysius đã treo một thanh gươm sắc như dao cạo trên trần nhà. Thanh gươm trỏ vào đầu Damocles, treo lơ lửng chỉ bằng một sợi lông ngựa. Từ đó về sau, sự lo sợ của viên nịnh thần về sự sống của mình khiến cho y không thể tận hưởng được sự xa hoa của các bữa tiệc hoặc sự phục dịch của đám người hầu. Sau nhiều lần lo lắng liếc nhìn về lưỡi gươm treo lủng lẳng trên đầu mình, y cầu xin được miễn thứ, nói rằng không còn muốn được may mắn như vậy nữa.

Đối với Cicero, câu chuyện của Dionysius và Damocles hàm ý rằng những người cầm quyền luôn luôn bị giày vò bởi bóng ma của sự lo lắng và cái chết, và rằng “không thể có hạnh phúc cho một người luôn phải lo sợ.” Truyện ngụ ngôn này sau này trở thành một mô típ quen thuộc trong văn học thời trung cổ, và cụm từ “thanh gươm của Damocles” hiện thường được sử dụng rộng rãi như một cách nói ẩn dụ để mô tả một mối nguy hiểm hiển hiện. Tương tự như vậy, câu nói “treo đầu sợi chỉ” (hanging by a thread) đã trở thành cách nói để chỉ một tình huống đầy nguy hiểm hoặc bấp bênh.

Một trong những trường hợp nổi tiếng mà thành ngữ này được sử dụng là vào năm 1961 trong Chiến tranh Lạnh, khi Tổng thống John F. Kennedy phát biểu trước Liên Hợp Quốc, trong đó ông nói rằng “Mọi đàn ông, phụ nữ và trẻ em đang sống dưới một thanh gươm Damocles của vũ khí hạt nhân, treo trên đầu những sợi chỉ mỏng manh nhất, có thể bị cắt đứt bất kỳ lúc nào do tai nạn, tính toán sai, hoặc sự điên rồ.” (“Every man, woman and child lives under a nuclear sword of Damocles, hanging by the slenderest of threads, capable of being cut at any moment by accident or miscalculation or by madness.”)

 

Ngày xưa, có một vị vua tên là Dionysius cai trị vùng Syracuse, thành phố giàu nhất ở đảo Sicil. Ông sống trong một cung điện đẹp với rất nhiều đồ đạc sang trọng và đắt tiền. Trong cung điện, lúc nào cũng có rất nhiều người hầu, sẵn sàng làm theo lệnh của ông.

Vì ông có biết bao của cải và quyền lực tối cao nên rất nhiều người ghen tị. Damocles là một người như vậy. Ông là một trong những người bạn thân của vua Dionysius và ông luôn nói với nhà vua rằng:

- Đức vua mới may mắn làm sao. Ngài có tất cả những thứ mà bất kỳ người nào cũng mong muốn. Chắc hẳn ngài phải là người hạnh phúc nhất thế giới này.

Một ngày vua Dionysius cảm thấy mệt mỏi khi nghe những lời như vậy. Ông nói:

- Ngươi thực sự nghĩ rằng ta hạnh phúc hơn bất cứ người nào sao?

- Chắc chắn là như vậy. - Damocles trả lời. - Hãy nhìn vào khối tài sản vĩ đại mà ngài sở hữu và quyền lực mà ngài nắm. Ngài chẳng có một chút mảy may lo lắng gì. Cuộc sống còn gì tuyệt hơn thế.

- Vậy ngươi có muốn đổi vị trí với ta không? - Vua Dionysius nói.

- Ồ, thần không bao giờ mơ đến điều ấy. - Damocles nói. Nhưng giá mà thần có được sự giàu có và niềm vui của ngài dù chỉ một ngày, thần sẽ hạnh phúc biết bao.

- Được, vậy thì hãy đổi vị trí cho ta một ngày.

Và ngày hôm sau, Damocles được đưa đến cung điện. Những người hầu đối xử với ông như thể ông là ông chủ của họ. Họ mặc cho ông hoàng bào và đội cho ông vương miện vàng. Ông ngồi xuống bàn tiệc và rất nhiều sơn hào hải vị được đặt trước mặt. Người ta cũng phục vụ ông những ly rượu đắt tiền, xung quanh là những loài hoa rực rỡ và âm nhạc du dương. Ông ngồi trên đệm êm và cảm thấy mình là người hạnh phúc nhất thế giới.

- Ồ, thế mới là cuộc sống chứ. - Ông nói với nhà vua. - Thần chưa bao giờ cảm thấy hạnh phúc đến như vậy.

Và khi nâng cốc, ông nhìn về phía trần nhà. Một thanh gươm đang treo bằng một sợi lông đuôi ngựa và chĩa mũi nhọn vào đầu ông. Damocles cứng người lại. Nụ cười tắt trên môi và gương mặt trở nên xanh lét. Tay ông run lập cập. Ông không muốn thức ăn, rượu và âm nhạc nữa. Ông chỉ muốn rời khỏi cung điện. Ông ngồi như đóng băng trên ghế.

- Có chuyện gì vậy, bạn của ta? - Vua Dionysius hỏi. - Có vẻ như ngươi không thấy ngon miệng nữa?

- Thanh gươm. Thanh gươm. - Damocles thì thầm. - Ngài có nhìn thấy nó không?

- Tất nhiên là ta nhìn thấy. - Vua Dionysius nói. - Ta thấy nó hằng ngày. Nó luôn được treo trên đầu ta và luôn có khả năng một người nào đó cắt sợi lông đuôi ngựa. Có thể một trong những tể tướng ghen tị với quyền lực của ta và cố gắng giết ta. Hoặc có thể một người nào đó làm lan truyền những tin đồn nhảm về ta để khiến mọi người chống lại ta. Cũng có thể vương quốc bên cạnh sẽ điều quân đội cướp ngôi vua của ta. Hoặc ta có thể ra một quyết định không sáng suốt dẫn đến việc ta bị hạ bệ. Tóm lại, cuộc sống của ta không phải hoàn toàn một màu hồng.

- Vâng, thần thấy rồi. - Damocles nói. - Thần nhận thấy rằng thần đã mắc sai lầm và đức vua có rất nhiều điều phải lo lắng bên cạnh sự giàu có và nổi tiếng. Xin hãy giữ ngôi vua và cho thần trở về nhà của mình.

Và từ đó, Damocles không bao giờ muốn đổi vị trí với nhà vua nữa, dù chỉ một lát.

Ý nghĩa câu chuyện thanh gươm Damocles

Câu chuyện cực kỳ hay và ý nghĩa, nó mang nhiều góc nhìn từ cuộc sống. Có thể, khi đọc xong câu chuyện, mỗi người có một bài học khác nhau dành riêng cho mình vì đâu ai có suy nghĩ giống nhau

Trong này, có các bài học qua câu chuyện:

Thứ nhất, hãy luôn đặt mình vào vị trí người khác, đừng chỉ nhìn vào góc nhìn của bản thân mà quên đi suy nghĩ của người khác.

Thứ 2, dù trong thành công, cũng đừng quên những nguy cơ có thể xảy ra với mình. Mình vẫn còn nhớ đợt mình làm ăn được, giống như kiểu nhà giàu mới nói, ráng xài cho hết tiền và cuối cùng những ngày khó khăn lại đến. Những bầm dập và những sự việc xảy ra khiến mình nhớ mãi, nhưng những kinh nghiệm đó tuy đau khổ nhưng khiến mình nhớ mãi. Đúng là càng đau lại càng nhớ lâu.

Thứ 3:  Hãy hài lòng với những gì mình có và đừng bao giờ ghen tị với người khác.

Thứ 4: “Thanh gươm Damocles” bây giờ vẫn được sử dụng trong văn hóa phương Tây như một ẩn dụ để nói lên thông điệp quen thuộc: quyền lực càng cao, trách nhiệm càng lớn.

Những thanh kiếm làm nên huyền thoại thế giới

Harpē

Thanh kiếm Harpē lừng danh này xuất hiện trong thần thoại Hy Lạp, nơi Cronus - con trai của Uranus sử dụng nó để thiến cha mình. Món “hàng nóng” này có thể được dễ dàng nhận ra bởi lưỡi liềm cong nhô ở gần đầu lưỡi kiếm, chưa hết Perseus cũng đã sử dụng nó để chặt đầu của Medusa, một con quỷ có khả năng hóa đá người khác nếu ai đó nhìn vào những con rắn trên đầu ả.

Gram

Thanh kiếm Gram trong truyền thuyết vốn dĩ bị găm chặt vào cây Barnstokkr bởi thần Odin, một trong những vị thần có sức mạnh khủng khiếp nhất trong thần thoại Bắc Âu. Völsung đã lấy được thứ công cụ có khả năng sát thương cao này và dùng nó để đánh bại con rồng Fafnir.

Carnwennan

Carnwennan hoặc Carnwenhau (tạm dịch là “chuôi trắng”), là con dao găm của vua Arthur trong truyện kể về huyền thoại Arthur xứ sở Wales. Nó được cho là có sức mạnh ma thuật để giúp người sử dụng có thể ẩn mình trong bóng tối, ngoài ra cũng có giai thoại kể rằng vị vua này đã dùng nó để cắt đôi đầu của phù thủy Orddu.

Excalibur

Bên cạnh việc sở hữu một con dao găm vô cùng bá đạo thì vua Arthur cũng sở hữu một thanh kiếm đặc biệt không kém, đó chính là thanh Excalibur mà theo “tin đồn” là có ẩn chứa sức mạnh huyền bí bên trong, những ai sở hữu thứ công cụ tấn công người khác này sẽ có chủ quyền hợp pháp đối với Vương quốc Anh.

Tương truyền, thanh gươm này vốn được găm vào một phiến đá, chỉ những ai thực sự là vua của nước Anh mới có thể rút nó lên được và sẽ được tất cả mọi người công nhận.

Thanh kiếm của Attila

Chuyện kể rằng, chiến binh Hun huyền thoại Attila đã được ban tặng một thứ khí giới do đích thân các vị thần tạo nên, nó còn gọi là “Thanh kiếm của Attila” và sử dụng bởi các chỉ huy quân sự cấp cao trong các trận chiến. Đây cũng được xem như một biểu tượng cho sự ưu ái của Thiên Chúa.

Một trong những thanh gươm cổ xưa nhất đang được trưng bày tại Bảo tàng Kunsthistorisches (Vienna), và cũng theo truyền thuyết thì có lời đồn đại rằng nó được làm ra sau khi Attila mất đến 1.500 năm.

Pasha

Trong đạo Hindu, chúng ta dễ dàng nhìn thấy hình ảnh của Pasha, loại công cụ phòng thân đã đi vào thần thoại và được sử dụng bởi rất nhiều vị thần với hình dáng như chiếc thòng lọng. Ganesha là một trong số đó, ngài đã dùng nó để ràng buộc và loại bỏ những kẻ cản trở, còn Yama thì trích xuất một linh hồn khỏi cơ thể sau khi chết.

Varunastra

Được tạo ra bởi Varuna, vị thần của nước và biển cả, Varunastra là một loại vũ khí trong truyền thuyết có thể xoay chuyển thành bất cứ hình dạng nào. Được làm từ nước và có khả năng sát thương cao, nó có thể giết chết ngay lập tức bất kỳ người chiến binh nào nếu không biết sử dụng đúng cách.Có lẽ những ai may mắn sở hữu nó thì cũng phải vừa mừng vừa lo cho tính mạng của mình đấy nhỉ?

Thanh gươm của Thánh Joan xứ Arc

Sử học có ghi lại rằng, người nữ anh hùng trong Chiến tranh trăm năm giữa Anh và Pháp, Joan xứ Arc đã lãnh đạo quân đội Pháp chống lại sự xâm lược của người Anh khi chỉ mới 19 tuổi. Cô tin rằng mình là người được Chúa giao trọng trách giải phóng dân tộc mình khỏi xiềng xích bóc lột, và người dân Pháp lúc bấy giờ cũng rất tin tưởng vào điều đó.

Joan nói rằng Tổng lãnh thiên thần Michael đã chỉ cho cô vị trí để tìm thấy một thanh kiếm thánh, nó nằm ở phía sau bàn thờ của nhà thờ Saint Catherine ở Fierbois. Khi cô tìm thấy, những lớp rỉ sét đã nhanh chóng biến mất và Joan đã sử dụng thanh gươm trong cuộc chiến nhưng việc cô có dùng nó để giết chết ai không vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi.

Thời gian sau đó cô bị bắt và bị hỏa thiêu, nhưng sự hy sinh của Joan đã góp phần làm thay đổi cục diện cuộc chiến, cô đã trở thành biểu tượng cho sự kiên cường, bất khuất và được Giáo hội Công giáo phong Thánh khi tử vì đạo.

Fragarach

Thanh gươm Fragarach được sử dụng bởi Manannán mac Lir, người giám hộ của Otherworld và người lái chiếc thuyền chở linh hồn sang thế giới bên kia. Loại khí giới này có khả năng chém xuyên qua bất kỳ loại áo giáp nào, mang đến khả năng điều khiển gió cho trí nhân sở hữu và buộc bất cứ ai cũng phải nói ra sự thật khi kề nó vào cổ.

Taming Sari

Trong huyền thoại cổ xưa kể lại thì bất kỳ người nào sở hữu Taming Sari sẽ có được sự bất tử, chính vì vậy nó đã trở thành mục tiêu săn lùng của con người trong suốt hàng nghìn năm. Thanh dao găm có hình lượn sóng này đóng một vai trò quan trọng trong thần thoại Malaysia, điều ly kỳ hơn nữa là nó có thể tự phóng ra khỏi bao để bảo vệ chủ nhân của mình.

Tất nhiên, đó vẫn chỉ là một giai thoại từ thời xa xưa và ở thời kỳ hiện đại, con người đã không còn tin vào những điều viển vông ấy nữa.

Đoản kiếm Muramasa

Thanh đoản kiếm Muramasa Sengo là một loại khí giới rất nổi tiếng ở Nhật Bản. Trong ký ức của người dân xứ sở hoa anh đào là lưỡi kiếm sẽ mang những phẩm chất từ chính người thợ tạo nên nó, và nếu đó là một người đàn ông điên rồ và bạo lực, Murasama sẽ trở thành một loại vũ khí có khả năng sát thương cực mạnh, một thứ công cụ giết người thực sự.

Thanh Long đao

Thanh Long đao là loại gươm được Quan Vân Trường sử dụng trong “Tam quốc diễn nghĩa”, hình dáng, kích thước cũng như cân nặng của nó đã đủ để khiến đối phương phải e dè khiếp sợ, chứ chưa nói đến nó có khả năng sát thương cực khủng. Để cầm được thanh đao này, người sử dụng hẳn phải có một sức khỏe phi thường cùng tài nghệ võ thuật thuộc hàng tuyệt đỉnh công phu.

Đây cũng là một trong những thứ huyền thoại đã tạo nên cuộc cách mạng lịch sử nhân loại, chí ít là ở những câu chuyện của La Quán Trung trong tác phẩm “Tam quốc diễn nghĩa”.

Thanh kiếm lửa

Thanh kiếm lửa đã xuất hiện rất nhiều trong câu chuyện thần thoại trên khắp thế giới, điển hình là Kinh Thánh của Thiên Chúa giáo. Các nhà thờ đã tuyên bố rằng một thanh gươm lửa đã được đặt ở lối vào Vườn Địa Đàng khi Adam và Eva bị trục xuất nhằm ngăn chặn họ quay trở lại.

Sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá, thứ vũ khí này đã được gỡ bỏ, nhưng tại sao khi không còn vật trấn giữ nữa, nhân loại vẫn không thể quay trở về khu vườn tuyệt vời ấy? Đây là điều không ai biết cả!

Mjolnir

Chắc hẳn trong chúng ta không mấy ai xa lạ với vị thần sét – Thor, trong thần thoại Bắc Âu cùng cây búa đầy uy quyền của mình: Mjolnir. Quả thật, Hollywood đã rất tài tình trong việc đưa “thương hiệu” của Thor đến gần với công chúng hơn, nhưng công cụ giết người của ông thì chẳng mấy ai có thể nhớ tên của nó.

Món đồ này đã được tạo ra khi Loki thách thức hai người lùn Brokkr và Eitri, để họ có thể tạo ra những thứ vũ khí đẹp hơn những gì con trai của Ivaldi đã làm. Kết quả thật tuyệt vời, bất chấp sự can thiệp của Loki, mặc dù tay cầm ngắn hơn so với dự kiến ban đầu nhưng nó đã đi vào huyền thoại với tư cách là một thứ khí giới không thể bị phá hủy, và sẽ quay trở lại với Thor khi ông ném nó đi.

Gan Jiang và Mo Ye

Hoàng đế đã ra lệnh cho vợ chồng thợ rèn Gan Jiang và Mo Ye tạo ra một cặp kiếm “song sinh” trong vòng 3 tháng, tuy nhiên họ đã phải mất đến 3 năm để hoàn thành chúng. Theo một câu chuyện được đồn đại, hai vợ chồng đã phải cắt tóc và móng tay ném vào lửa, đồng thời 300 đứa trẻ phải thổi liên tục vào ống để lò cao có thể nung chảy kim loại.

Tiếp theo, Gan Jiang đã giữ thanh kiếm nam mang tên ông, và trao một thanh kiếm nữ mang tên Mo Ye cho nhà vua. Điều này khiến đấng tối cao nổi giận và ra lệnh giết ông ta. Jiang đã dự đoán trước được điều này nên đã để lại cho vợ và con trai một mảnh giấy rằng: hãy lấy thanh kiếm và thích sát Thiên hoàng để báo thù.

Trên đường đi, một sát thủ được nhà vua gửi đến đã bắt được con trai của Gan Jiang, hắn ta đã chặt đầu chàng trai và lấy thanh kiếm về cho nhà vua, nhưng sau đó vì cảm thương cho cậu bé, gã đã hạ sát đức vua trước khi tự sát.

joyeuse

Đây là thanh gươm của vị vua vĩ đại nhất nước Pháp – Frank Charlemagne (hay còn gọi là Charles Đại đế), trong quá khứ nó từng được sử dụng bởi những nhân vật nổi tiếng nhất của cố sử Tây Âu, còn hiện tại sau khi trải qua thời kỳ vinh quang của mình và tạo nên những cuộc cách mạng ở đất nước này, nó đang được trưng bày tại bảo tàng Louvre.

Durendal

Những kỵ binh (paladin) hùng dũng Charlemagne của Roland đã sử dụng thanh kiếm Durendal trong các cuộc chiến và tạo nên nỗi khiếp sợ vô hình đối với binh lính đối phương. Chuyện kể rằng thứ vũ khí này được tạo thành từ một chiếc răng của Thánh Peter, tóc của Thánh Denis, một mẫu y phục của Đức Trinh nữ Maria và máu của Thánh Basil.

Nhờ “công thức chế tạo” đặc biệt này, thanh gươm đã sở hữu một sức mạnh vô cùng bá đạo, được cho là thanh kiếm sắc bén nhất từng tồn tại, thậm chí nó đã giúp Roland tiêu diệt 100.000 binh sĩ đối phương chỉ với đội quân bé nhỏ của mình.

Cũng có tin đồn ở miền Nam nước Pháp cho rằng, Roland đã ném thanh kiếm vào một vách đá ở Rocamadour, mặc dù vậy các đơn vị cung cấp tour du lịch lại nói rằng đó chỉ đơn giản là một bản sao mà thôi.

Caladbolg

Thanh kiếm huyền thoại trong lịch sử Ireland - Caladbolg thuộc sở hữu của Fergus mac Róich. Đây là loại công cụ giết người được sử dụng bằng 2 tay có khả năng sát thương rất lớn và góp phần không nhỏ vào việc xoay chuyển cục diện trên chiến trường xa xưa.

Shamshir-e Zomorrodnegār

Chúng ta sẽ bắt gặp thanh gươm Shamshir-e Zomorrodnegār trong thần thoại Ba Tư, thực chất ban đầu nó thuộc về vua Solomon. Thứ công cụ tấn công người khác này được bảo vệ bởi Fulad-zereh, một mụ phù thủy và là mẹ của một con quỷ có sừng hung dữ, mụ ta đã bảo vệ nó vô cùng cẩn thận vì chỉ có thanh kiếm này mới có thể giết chết con trai của mình.

Trong thần thoại, nếu một người nào đó bị thương bởi Shamshir-e Zomorrodnegār, vết thương chỉ có thể được điều trị bằng thuốc làm từ não của Fulad-zereh cùng với một số thứ khác.

Thuận Thiên kiếm

Người anh hùng Đất Việt lúc bấy giờ là Lê Lợi đã đánh đuổi quân Minh ra khỏi bờ cõi đất nước vào năm 1418 – 1428, và thứ vũ khí mà ông sử dụng – Thuận Thiên kiếm (nghĩa là thuận theo ý trời), đã đi vào huyền thoại của dân tộc.

Tương truyền, khi sử dụng thanh kiếm này để chiến đấu, nó đã ban cho nhà vua sức mạnh của một ngàn người, và tất nhiên là nó đã làm xoay chuyển hoàn toàn cục diện của cuộc chiến. Bên cạnh tài đánh giặc giỏi, Lê Lợi còn nổi tiếng là một vị vua anh minh, người đã mang đến rất nhiều sự cách tân trong quá trình trị vì đất nước.

Sharur

Sharur có thể tạm dịch là “ngàn lần tan vỡ”, nó là công cụ tấn công người khác của thần Lưỡng Hà Ninurta và nổi tiếng với khả năng có thể bay đến bất cứ nơi nào nó muốn, ngoài ra thứ khí giới này còn có thể giao tiếp để truyền tải ý chí của thần Enlil (một vị thần đứng đầu trong tôn giáo Sumerian) đến Ninurta.

Tizona

Cùng với La Colada, Tizona là một trong hai thanh gươm huyền thoại đã đồng hành cùng người anh hùng vĩ đại nhất của Tây Ban Nha – El Cid trong rất nhiều cuộc chiến lớn nhỏ khác nhau. Và tất nhiên, vinh quang mà cây kiếm mang lại cho nhà quân sự tài ba lỗi lạc này đã mang đến cho nó một vị trí xứng đáng trong Bảo tàng Quân sự Madrid ngày nay.

Ruyi Jingu Bang

Với những ai đã từng xem bộ phim Tây Du Ký chắc chắn sẽ không thể nào quên được con khỉ Tôn Ngộ Không cùng cây Thiết Bảng của nó, đó là một loại thần khí có tên đầy đủ là Ruyi Jingu Bang.

Trong quá trình tìm kiếm cho mình một công cụ phòng thân hiệu quả, Tề Thiên Đại Thánh đã đến gặp Long Vương dưới Thủy Cung và hỏi “xin” một món vũ khí phù hợp với mình. Ông vua của đại dương vốn dĩ không ưa gì tên yêu hầu đáng ghét này nên đã “chơi đểu” khi dẫn Tôn Ngộ Không đến chỗ một cây gậy có cân nặng 7.960 kg.

Lúc đó Long Vương đã nghĩ chắc trong đầu rằng yêu hầu không thể nào nhấc nổi thứ khí giới siêu nặng này, nhưng không may là nó vẫn còn quá “nhẹ” đối với Tề Thiên Đại Thánh. Đặc biệt, khi không sử dụng, “vua khỉ” có thể biến nó nhỏ lại và cất gọn trong tai của mình.

Thanh gươm của Damocles

Damocles là một cận thần của vua Dionysius vùng Syracuse, sự giàu có của nhà vua khiến ông ta cảm thấy ghen tị, và hầu như ngày nào Damocles cũng dùng những lời lẽ hoa mỹ để ca ngợi về khối tài sản kếch xù của người đứng đầu đất nước.

Cho đến một ngày, vua Dionysius cảm thấy chán nản với những lời ca tụng đó và đề nghị cho Damocles ngồi lên ngai vàng trong một ngày, tất nhiên ông ta đồng ý ngay lập tức. Ngay hôm sau, khi đang tận hưởng quyền lực và sự giàu có, Damocles chợt nhìn lên trần và thấy một thanh gươm được treo bằng sợi lông đuôi ngựa ngay trên đỉnh đầu mình.

Cảm giác sung sướng lập tức chuyển thành sự sợ hãi tột độ, lúc này Damocles mới hiểu rằng khi ai đó ngồi lên chiếc ngai vàng này thì hằng ngày, người đó sẽ phải đối diện với những điều vô cùng đáng sợ, và những điều tiếp theo hẳn là bạn đã có thể đoán ra được rồi đúng không?

Pashupatastra

Pashupatastra là một trong những thứ vũ khí có khả năng sát thương khủng nhất trong thần thoại Hindu, nó được điều khiển bằng tâm trí, ánh mắt, lời nói và cũng có thể thay đổi hình dạng thành một cây cung. Tuy không đao to búa lớn nhưng sức mạnh của nó thì không ai sánh bằng, bởi Pashupatastra có thể hủy diệt tất cả chúng sinh và phá hủy tất cả những gì đã được tạo ra trên cõi đời.

 

Có thể trong hiện thực cuộc sống, những loại vũ khí như gươm, giáo... chỉ là những công cụ chiến tranh đơn thuần, nhưng trong thần thoại, chúng lại sở hữu sức mạnh khủng khiếp mà con người không thể tưởng tượng. Điều thú vị là, những tiến bộ của khoa học công nghệ đã tạo ra những loại khí giới có sức sát thương không hề thua kém, với khả năng tương tự như thần khí của thần thánh xưa kia.

Doraemon (ドラえもん Doraemon?), tên thường gọi tại Việt Nam là Đôrêmon, là một nhân vật thuộc loại robot phỏng hình mèo trong bộ truyện và phim hoạt hình cùng tên. Doraemon sinh ngày 3 tháng 9 năm 2112 (thuộc thế kỉ XXII). Cậu có thân hình béo tròn, da màu xanh lam (thực ra khi mới sinh cậu có da màu vàng), không có tai do bị chuột gặm mất. Ban đầu, cậu đến sống và giúp đỡ cho Nobi Sewashi (Nôbitô). Do thắc mắc hoàn cảnh sa sút của gia đình Sewashi, Doraemon dùng Cỗ máy thời gian quay lại quá khứ vào thế kỉ XX (20) để tìm hiểu lý do. Cậu đã phát hiện ra nguyên nhân là Nobi Nobita - cụ tổ của Sewashi - do hậu đậu vụng về nên sau này khiến cho đời sống con cháu cũng khó khăn theo. Vậy là Doraemon quyết định đến sống cùng Nobita để giúp đỡ, hướng dẫn và chăm sóc cậu ta trong những lúc khó khăn nhưng cũng hay thương Nobita. Cậu là một người hiền lành, hòa đồng với bạn bè mình.

Doraemon (ドラえもん Doraemon?), tên thường gọi tại Việt Nam là Đôrêmon, là một nhân vật thuộc loại robot phỏng hình mèo trong bộ truyện và phim hoạt hình cùng tên. Doraemon sinh ngày 3 tháng 9 năm 2112 (thuộc thế kỉ XXII). Cậu có thân hình béo tròn, da màu xanh lam (thực ra khi mới sinh cậu có da màu vàng), không có tai do bị chuột gặm mất. Ban đầu, cậu đến sống và giúp đỡ cho Nobi Sewashi (Nôbitô). Do thắc mắc hoàn cảnh sa sút của gia đình Sewashi, Doraemon dùng Cỗ máy thời gian quay lại quá khứ vào thế kỉ XX (20) để tìm hiểu lý do. Cậu đã phát hiện ra nguyên nhân là Nobi Nobita - cụ tổ của Sewashi - do hậu đậu vụng về nên sau này khiến cho đời sống con cháu cũng khó khăn theo. Vậy là Doraemon quyết định đến sống cùng Nobita để giúp đỡ, hướng dẫn và chăm sóc cậu ta trong những lúc khó khăn nhưng cũng hay thương Nobita. Cậu là một người hiền lành, hòa đồng với bạn bè mình.

23 tháng 6 2019

Từ ghép: Mệt mỏi, sấm sét, dẫn dắt( Vì cả 2 tiếng đều có nghĩa, tuy láy âm đầu nhưng người ta vẫn nghiêng về nghĩa)

Từ láy: Nóng nực( Vì láy âm đầu, nực không có nghĩa)

Học tốt nha <3

23 tháng 6 2019

Các từ dưới đây là từ ghép hay từ láy? vì sao?

Từ ghép: sấm sét, dẫn dắt. (vì cả 2 tiếng đều có nghĩa)

Từ láy: Mệt mỏi, nóng nực (vì chỉ có 1 tiếng có nghĩa)