K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Tìm một câu bị động có trong đoạn trích sau và nêu mục đích của câu đó :" Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò , hò khi đánh cá trên sông ngòi , biển cả , hò lúc cấy cày , gặt hái , trồng cây , chăn tằm . Mỗi câu hò huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn . Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến , nhất là trong các câu hò đối đáp...
Đọc tiếp

Tìm một câu bị động có trong đoạn trích sau và nêu mục đích của câu đó :

" Xứ Huế vốn nổi tiếng với các điệu hò , hò khi đánh cá trên sông ngòi , biển cả , hò lúc cấy cày , gặt hái , trồng cây , chăn tằm . Mỗi câu hò huế dù ngắn hay dài đều được gửi gắm ít ra một ý tình trọn vẹn . Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn và phổ biến , nhất là trong các câu hò đối đáp tri thức , ngôn ngữ được thể hiện thật tài ba , phong phú . Chèo cạn , bài thai , hò đưa linh buồn bã , hò giã gạo , ru em , giã vôi , giã điệp , bài chòi , bài tiệm , nàng vung náo nức nồng hậu tình người . Hò lơ , hò ô , xay lúa , hò nện gần gũi với dân ca Nghệ Tĩnh . Hò Huế thể hiện lòng khao khát , nỗi mong chờ hoài vọng thiết tha của tâm hồn Huế . Ngoài ra còn có các điệu lí như : lí con sáo , lí hoài xuân , lí hoài nam . "

1
4 tháng 5 2019

câu bị động: "Từ ngữ địa phương được dùng nhuần nhuyễn... phong phú".

Mục đích: chỉ ra vai trò của từ ngữ địa phương đối với dân ca xứ Huế.

3 tháng 5 2019

Viết sự thật về cr

3 tháng 5 2019

Lập dàn ý về Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết, Thành công thành công đại thành công

Suy nghĩ của em về lời dạy của bác hồ
" Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công".

Lập dàn ý

1, Mở bài

– Dẫn vào đề.

– Nêu vấn đề nghị luận, trích dẫn câu thơ.

– Lịch sử nước ta là lịch sử dụng nước và giữ nước. Trải qua 4000 năm lịch sử nhiều thiên tai và địch họa nhân dân ta phải có sự đoàn kết. Và sự đoàn kết sẽ tạo nên thành công. Từ xa xưa ông cha ta đã ý thức được điều đó. Và Bác Hồ người lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã từng nói:

" Đoàn kết đoàn kết đại đoàn kết
Thành công thành công đại thành công".

doan-ket-doan-ket-dai-doan-ket-thanh-cong-thanh-cong-dai-thanh-cong

2, Thân bài

* Giải thích: Trong câu nói bác có sử dụng điệp ngữ, liệt kê, tăng cấp để nhấn mạnh ý, giữa hai vế có quan hệ nhân quả: Đoàn kết sẽ thành công. Đoàn kết càng lớn mạnh thì gặt hái càng được nhiều thành công.

– Đoàn kết: Tập hợp đông đảo nhiều lực lượng thành một khối lớn mạnh vì một mục đích chung.

– Thành công: Đạt được mục đích mà ta hướng tới.

=> Đoàn kết là yếu tố quan trọng dẫn đến thành công.

* Bình: Đó là một tư tưởng đúng đắn, chân lí của mọi thời đại.

– Tại sao đoàn kết dẫn đến thành công?

+ Cuộc sống không trải thảm đỏ để ta bước đi, khó khăn, thử thách luôn chờ đợi ta ở phía trước đòi hỏi con người phải tập hợp lực lượng để đối đầu mọi sự vượt qua.

+ Nếu một người, một cá nhân, lực lượng sẽ rất mỏng manh nhỏ bé yếu ớt dễ bị bẻ gãy nhưng đoàn kết lại thành khối vững chắc con người có thể đẩy lùi khoảng cách đi đến thành công.

– Cơ sở hình thành tinh thần đoàn kết.

+ Xuất phát từ tình yêu thương, từ ý thức của con người thấy được cái hạn chế của cá nhân thấy được sức mạnh của tập thể đó là cơ sở -> Thành công.

doan-ket-doan-ket-dai-doan-ket-thanh-cong-thanh-cong-dai-thanh-cong-1

– Biểu hiện

+ Trong chiến đấu: Dân tộc ta đoàn kết chống lại những kẻ thù sừng sỏi: Phong kiến phương bắc, thực dân Pháp, Đế quốc Mĩ.

– Dẫn chứng: " Bình Ngô Đại Cáo" Nguyễn Trãi viết:

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào
Ngày nay trong " lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến" Bác viết:

" Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có súng có gươm thì dùng quốc thuổng, gậy gộc tất cả phải ra sức đánh Pháp".
Điều kiện-> Thành công.

+ Trong lao động: Chúng ta đoàn kết xây dựng đất nước như đào sông, quai đê lấn biển xây dựng hệ thống đường điện 500kv Bắc – Nam. Xây dựng nhiều công trình thủy điện, đường cao tốc…

+ Trong cuộc sống hàng ngày: Đoàn kết chính là biểu hiện của tinh thần tương thân tương ái " Lá lành đùm lá rách"… giúp đỡ đồng bào hoạn nạn, thiên tai,… Phát huy cao độ nét đẹp truyền thống dân tộc.

+ Trong học tập: Giúp đỡ nhau như giảng bài cho những bạn học yếu tấm gương cõng bạn đi học, giúp đỡ học sinh nghèo vượt khó.

– Vai trò: Đoàn kết là chất keo gắn kết con người trong xã hội tạo nên sức mạnh vượt mọi dào cản đi đến thành công tạo sự gắn bó bền vững giữa người với người đem lại niềm vui, hạnh phúc cho đối tượng mà nó hướng đến.

+ Đất nước: Đoàn kết tạo nên vị thế của đất nước dân tộc được thế giới tin cậy.

* Luận<MRVĐ>

– Phê phán: Những kẻ thiếu tinh thần đoàn kết luôn luôn có thái độ chia rẽ, phá vỡ khối đoàn kết đó là những kẻ kéo bè, kéo cánh trong tập thể gây mâu thuẫn. Đối với đất nước đó là bọn: Phản động, Việt gian, nói xấu chế độ.

– Xong chúng ta cũng cần hiểu đoàn kết không phải là bao che, triệt tiêu, đấu tranh mà ngược lại phải tích cực đấu tranh với những sai trái để củng cố sức mạnh khối đoàn kết tạo sự bền vững.

– Giải pháp: Bản thân mỗi chúng ta phải có ý thức xây dựng khối đoàn kết từ gia đình đến hàng xóm, cơ quan đoàn thể, rộng hơn là quan hệ đất nước, cộng đồng quốc tế vì một tương lai tốt đẹp, bền vững.

– Ông cha ta có nhiều câu tương tự: " Một cây làm chẳng lên non

Ba cây chụm lại lên hòn núi cao".

3, Kết bài

– Tóm lại lời dạy của Bác mãi mãi là lời khuyên chân thành, bổ ích đúng đắn.

– Là học sinh: Cần phải đoàn kết xây dựng đất nước…

@Như Ý

3 tháng 5 2019

de sồm

3 tháng 5 2019

Tại vị trí cũ tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng mới hoàn toàn cầu kỳ

#Hk_tốt

#Ken'z

3 tháng 5 2019

"tỉnh lạng sơn xây dựng mới hoàn toàn cầu kỳ cùng tại vị trí cũ"

chuyển: tại vị trí cũ tỉnh lạng sơn được xây dựng hoàn toàn cầu kỳ

xin t i ck

3 tháng 5 2019

Xin 1 vé

#kEn'Z

TRả lời : Cho mk tham gia vs , đc ko ?

Hok_Tốt

#Thiên_Hy

-----

________

3 tháng 5 2019

Tập tính sinh sản của các loài chim rất khác nhau . Nhưng, nói chung các giai đoạn trong quá trình sinh sản nuôi con của các loài chim gồm : giao hoan (có hiện tượng khoe mẽ), giao phối, làm tổ, đẻ trứng, ấp trứng và nuôi con. Các giai đoạn này được biểu hiện khác nhau tùy theo các bộ chim.

Tập tính sinh sản :
- Cách chim tìm bạn đời và xây tổ ấm là một trong những nét lí thú hấp dẫn nhất trong đời sống động vật.
- Tuy chim hiếm khi li dị nhau nhưng trong thế giới loài chim vẫn có hình thức xây dựng gia đình khác nữa
- TẬP TÍNH SINH SẢN : LÀM TỔ
+Làm tổ là một việc gồm hai khâu đồng thời : Thu vật liệu và kết lại thành tổ hoàn chỉnh . Thời gian thu thập tùy thuộc vào vật liệu ở xa hay gần. Chim phải thực hiện một loạt các động tác để biến vật liệu thành tổ.
+Tuỳ từng loài mà vật liệu và cách làm tổ có khác nhau.

- TẬP TÍNH SINH SẢN :ĐẺ TRỨNG
+Chim đẻ ra trứng có vỏ vôi cứng bao bọc.
+Trứng loài chim đà điểu lớn nhất.
+Nhiều loại chim có trứng với màu sắc xanh, vàng , đốm . . .

- TẬP TÍNH SINH SẢN :NUÔI CON
+Trứng thụ tinh được ấp bằng thân nhiệt của chim bố hoặc mẹ.
+Đúng thời gian trứng nở ra chim con. 
+Chim con được chim bố mẹ chăm sóc chu đáo

Ếch : 

Ếch đồng: Phổi đơn giản, ít vách ngăn. Chủ yếu hô hấp qua da

Chim : Cơ quan hô hấp của chim bay có cấu tạo đặc biệt, gồm đường hô hấp, phổi và túi khí. Cơ quan hô hấp và hoạt động hô hấp của chim thể hiện sự thích nghi cao với hoạt động bay lượn.

3 tháng 5 2019

  Lịch Sử Hình Thành Phát Triển Dân Ca Quan Họ

 Với 443 trang viết về lịch sử DCQH của làng Yên mẫn nhưng thực chất là lịch sử DCQH của vùng Kinh bắc với cách tiếp cận hoàn toàn mới; quan điểm cũng hoàn TOÀN MỚI nhưng cũng không hoàn toàn có ý tốt- xấu với các quan điểm khác mà chỉ mang tính xây dựng ( dưới là nội dung sơ khảo lời nói đầu cuốc sách)

     Dân ca quan họ “Bắc Ninh” được phổ biến ở 49 làng mà cộng đồng xác định là làng Quan họ cổ, 44 làng hiện nay thuộc tỉnh Bắc Ninh: Bái Uyên, Duệ Đông, Hạ Giang, Hoài Thị, Hoài trung,Lũng Giang, Lũng Sơn, Ngang Nội, Vân Khám (huyện Tiên Du); Tam Sơn, Tiêu (huyện Từ Sơn); Đông Mai, Đông Yên (huyện Yên Phong); Bò Sơn, Châm Khê, Cổ Mễ, Dương ổ, Đẩu Hàn, Điều Thôn, Đông Xá, Đọ Xá, Hòa Đình, Hữu Chấp, Khả Lễ, Khúc Toại, Ném Đoài, Ném Sơn, Ném Tiền, Niềm Xá, Phúc Sơn, Thanh Sơn, Thị Chung, Thị Cầu, Thụ Ninh, Thượng Đồng, Trà Xuyên, Vệ An,Viêm Xá, Xuân Ái, Xuân Đồng, Xuân ổ, Xuân Viên, Y Na, Yên Mẫn (thành phố Bắc Ninh). Có 05 làng thuộc tỉnh Bắc Giang: Giá Sơn, Hữu Nghi, Nội Ninh, Mai Vũ, Sen Hồ (huyện Việt Yên).
     Ngoài ra ở 13 làng: Đình Cả. Đông Long, Khả Lý Thượng, Núi Hiếu, Mật Ninh, Quang Biểu, Tam Tầng, Thần Chúc, Tiên Lát Hạ, Tiên Lát Thượng, Thổ Hà, Trung Đồng, Vân Cốc (huyện Việt Yên) của tỉnh Bắc Giang, Dân ca quan họ Bắc Ninh cũng được thực hành. Đây là những làng nằm trong vùng lan tỏa của di sản này, nhưng đa số đều có chung nguồng gốc ví dụ như làng Trung Đồng (Bắc giang) có nguồn gốc từ những người làng “Vườn Hồng- Quả cảm” di cư lên. Thực ra làng Quan họ cổ chỉ có 22 làng gốc ví dụ : Yên mẫn;Thụ ninh;Thị Chung;Vệ an chỉ là một làng Quan họ Yên xá cổ xưa

    Dân ca quan họ “Bắc Ninh” là  đối đáp nam nữ. Ca theo điệu cổ không có nhạc đệm Hiện nay đã có câu trả lời chính xác về thời điểm ra đời của Dân ca quan họ trong lịch sử. Đối chiếu lời của các bài quan họ trong sự phát triển của Tiếng Việt, gia phả các dòng họ vùng Kinh bắc có thể xác định rằng Dân ca quan họ phát triển đến đỉnh cao vào giữa thế kỉ XVIII, Chủ nhân của quan họ là những người sinh sống chủ yếu trong một vùng lõi khoảng 25 km2, chủ yếu sống bằng nghề trồng lúa nước ; làm nghề thủ công và kinh doanh buôn bán,lấy trung tâm là thành Bắc ninh.
   Mỗi làng quan họ đều có lễ hội riêng. Quan họ tồn tại song hành cùng lễ hội làng, nơi mà người dân thờ thành hoàng, nữ thần, một đôi trường hợp là tín ngưỡng phồn thực .Quan họ là tinh hoa của nhiều làn diệu Dân ca.
   Trong số các lễ hội làng Quan họ, hội Lim (thị trấn Lim, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) mở vào 13 tháng giêng âm lịch, là hội lớn nhất.

   Từ năm 1954, chính quyền địa phương rất quan tâm đến bảo tồn và phát huy giá trị của di sản Quan họ. Từ những năm 1960 đã có nhiều nhà nghiên cứu đến các làng Quan họ cổ thu thập nghiên cứu các làn điệu dân ca Quan họ mà nổi bật nhất là công trình của cố nhạc sỹ Hồng Thao. Năm 1962, tỉnh Bắc Ninh đã tổ chức Hội nghị Quan họ lần I/1962. Từ năm 1963 đến 1966, tỉnh Hà Bắc (gồm hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang), đã tổ chức 06 hội thảo về Quan họ. Năm 1969, Đoàn Dân ca Quan họ Bắc Ninh được thành lập để bảo tồn, phát triển và trình diễn dân ca Quan họ. Tỉnh Hà Bắc thành lập trung tâm văn hóa Quan họ để sưu tầm nghiên cứu nhằm bảo vệ Quan họ. Tỉnh Bắc Ninh trong quyết định số 1357/QĐ-CT ngày 19-11-2003 đã quy hoạch khu đồi Lim (huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh) thành khu trung tâm lễ hội dân gian, để trình diễn Quan họ. Năm 2004, Sở Văn hóa Thông tin tỉnh Bắc Ninh thực hiện dự án bảo tồn làng Quan họ Viêm Xá. Hằng năm, hai tỉnh Bắc Ninh, Bắc Giang tổ chức hội thi hát đối đáp Quan họ vào mùa xuân để phát hiện những giọng ca mới.…

  Vào lúc 19.55 (giờ Việt Nam, tức 16.55 giờ Abu Dhabi), Quan họ đã được Ủy ban Liên chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể long trọng công bố là Di sản phi vật thể đại diện của Nhân loại.Abu Dhabi, thủ đô của Tiểu vương quốc A rập thống nhất, nơi đang diễn ra kỳ họp lần thứ 4 của Ủy ban Liên Chính phủ Công ước UNESCO Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (từ ngày 28/9 – 2/10/2009).

    Hội Lim có lịch sử rất lâu đời, và phát triển tới quy mô hội hàng tổng (tổng Nội Duệ). Trên cơ sở lễ hội truyền thống của các làng trong tổng Nội Duệ (bao gồm 6 xã phường: Nội Duệ (Đình Cả và Lộ Bao), Nội Duệ Khánh, Nội Duệ Nam, Lũng Giang, Xuân Ổ và phường ca cửa đình Tiên Du, sau là Duệ Đông) được tổ chức vào mùa thu tháng Tám với nhiều nghi lễ rước, tế lễ và các hoạt động nghệ thuật dân gian hết sức phong phú: hát trống quân, hát chèo, ca trù, hát tuồng và ca quan họ…, viên quận công Đỗ Nguyên Thụy – người thôn Đình Cả, Nội Duệ, xứ Kinh Bắc đã tự hiến nhiều ruộng vườn và tiền của cho tổng Nội Duệ trùng tu đình chùa, mở mang hội hè, gìn giữ thuần phong mỹ tục. Ông đã quy định lễ nhập tịch cầu phúc vào dịp tháng Giêng hàng năm, theo truyền thống “xuân thu nhị kỳ”. Theo quy định này, hai thôn Đình Cả, Lộ Bao và xã Xuân Ổ đến đền Cổ Lũng làm lễ nghênh thần về đình Đình Cả, mỗi thôn, xã đem theo một mâm xôi gà, trầu cau, hương nến để cúng tế, rồi ca  cho đến hôm làm lễ tống thần. Năm nào không mở hội thì vẫn duy trì việc tế lễ ở đền Cổ Lũng, còn việc ca  dành vào dịp đại lễ Trung thu. Như vậy, quận công Đỗ Nguyên Thụy là người có công phát triển từ lễ hội đình tế thần cầu phúc của các làng xã vùng Lim lên lễ hội hàng tổng Nội Duệ vào dịp mùa thu, tháng Tám, với những quy định chung, đồng thời ông cũng chính là người xây dựng bước đầu những lệ tục của lễ hội vào mùa xuân, tháng Giêng.

   Những quy định về phát triển, đổi mới hội Lim do quận công Đỗ Nguyên Thụy xây dựng được duy trì trong vòng 40 năm. Vào nửa sau thế kỷ XVIII, cũng chính người làng Đình Cả, tướng công Nguyễn Đình Diễn lại tiếp tục phát triển và đổi mới hội Lim. Ông đã cấp ruộng và tiền cho hàng tổng để chuyển hội hàng tổng từ mùa thu tháng Tám sang hẳn mùa xuân tháng Giêng. Ông cũng bỏ tiền mua nửa quả núi Hồng Vân (tức núi Lim) để xây lăng mộ của mình trên đỉnh núi. Kế đó, bà Mụ Ả, người Nội Duệ Nam, tu ở chùa Hồng Ân (tức chùa Lim) cũng bỏ tiền mua nốt phần còn lại của núi Hồng Vân làm hương hỏa, mở mang chùa Lim và quy định ba năm hàng tổng mở hội một lần tại núi Lim.

     Hội Lim được duy trì trong suốt thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống Mỹ cứu nước, hội Lim không được mở trong nhiều thập kỷ cho đến tận những năm sau đổi mới. Ngày nay, hội được mở vào ngày 13 tháng Giêng âm lịch hàng năm.

   Không gian lễ hội lấy đồi Lim làm trung tâm, có chùa Lim – nơi thờ ông Hiếu Trung Hầu – người sáng lập tục ca quan họ và diễn ra tại 3 địa phương bao quanh là: xã Nội Duệ, xã Liên Bão và thị trấn Lim. Hội Lim thường được kéo dài trong khoảng từ 3 đến 4 ngày được (từ ngày 12 đến 14 tháng Giêng âm lịch hàng năm), trong đó ngày 13 là chính hội với nhiều hoạt động gồm cả phần lễ và phần hội. Ông Hiếu Trung hầu chính là người đã tổ chức cho nhiều “ Liền anh, Liền chị” vào phục vụ Triều đình trong các dịp lễ hội, các sự kiện quan trọng..

   Hội Lim được mở đầu bằng lễ rước. Đoàn rước với đông đảo người dân tham gia trong những bộ lễ phục ngày xưa, sặc sỡ sắc màu.Trong ngày lễ chính (ngày 13 tháng Giêng) với các nghi thức rước, tế lễ các Thành hoàng các làng, các danh thần liệt nữ của quê hương tại đền Cổ Lũng, lăng Hồng Vân, lăng quận công Đỗ Nguyên Thụy, dâng hương cúng Phật, cúng bà mụ Ả ở chùa Hồng Ân. Toàn thể quan viên, hương lão của các làng xã thuộc tổng Nội Duệ tề tựu đầy đủ tại lăng Hồng Vân để tế lễ hậu thần. Tương truyền rằng: Trong khi tế có nghi thức ca Quan họ thờ thần. Để hát thờ, các bọn Quan họ nam và nữ của tổng Nội Duệ đứng thành hàng trước cửa lăng ca vọng vào. Trong khi ca, họ chỉ được ca những giọng lề lối để ca ngợi công lao của thần

   Ngoài phần lễ, hội còn có nhiều trò chơi dân gian như đấu võ, đấu vật, đấu cờ, đu tiên, thi dệt cửi, nấu cơm… và đặc sắc hơn cả là phần hát hội.

    Cũng như nếp xưa để lại, cuốn hút và say mê hơn cả vẫn là các sinh hoạt văn hóa Quan họ-loại hình dân ca đã trở thành tài sản văn hóa chung của dân tộc. Ca Quan họ diễn ra từ ngày 12 tháng Giêng tại Lim (sân chùa Hồng Ân và các trại Quan họ) Cửa đình, cửa chùa Lũng Giang, Lũng Sơn, Duệ Đông (thị trấn Lim) Đình Cả, Lộ Bao, Duệ Khánh (Nội Duệ); Hoài Thượng, Hoài Trung, Hoài Thị (Liên Bão). Hội Quan họ diễn ra ở trong nhà, trên sân đình, trước cửa chùa hay bồng bềnh trên những thuyền thúng giữa ao, hồ – dấu tích xưa của dòng Tiêu Tương đã một thời vang vọng tiếng ca Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp. Các Liền anh khăn xếp áo the, Liền chị áo mớ ba mớ bẩy, nón thúng quai thao đến hẹn lại lên, gặp gỡ, đón tiếp nhau thân tình, nồng hậu, tinh tế và lịch lãm theo lề lối của người Quan họ, bằng làn điệu dân ca đạt tới trình độ nghệ thuật cao, là sự hội tụ tuyệt vời của thơ ca nhạc họa nhằm bày tỏ tình yêu trai gái miền Quan họ với đầy đủ trạng thái, cung bậc trong mối giao cảm giữa nam và nữ, giữa con người với vạn vật, thể hiện khát vọng vươn tới cuộc sống với sự thủy chung.

      Những làn điệu Quan họ được truyền giữ từ bao đời, qua bao kỳ hội luôn làm say lòng người bởi vẻ mặn nồng, nghĩa tình, e ấp từ lời từ điệu và càng đằm thắm hơn qua chất giọng đặc trưng của Liền anh, Liền chị .  Mùa xuân năm 1768 tức năm cảnh hưng thứ 29 ( âl là năm cảnh hưng thứ 28 ) sau khi có cuộc họp của sứ thần Bắc quốc Nguyễn Đức cùng các xã trưởng Huyên; Khoan;Triển; Đệ gi dấu ấn đầu tiên gọi hát Đúm, hát Hội là ca Quan họ. Gia phả họ Nguyễn tôn vùng Kinh bắc lần đầu tiên dùng từ “ Quan họ” để gọi các “ Liền anh, Liền chị” cũng là những người trong họ tộc và thông gia là “Bọn Quan họ”.Thực ra hát Quan họ lúc đầu chỉ có đàn ông mà chủ yếu là những người lính hát khi nhớ quê , khi vui mừng thắng trận , khi nhớ người thân của mình. Ca Quan họ chính là sự đúc kết từ hát Hội, hát Đúm pha trộn với hát Trống quân, hát Ví dặm , hát Xoan, hát Chèo, hát ca Trù mà thành . Xưa tại các lễ hội các các nghệ nhân hát đủ các loại hình trên, do đặc thù vùng lõi Kinh bắc , trung tâm là thành Bắc ninh cả ngàn năm là vùng trọng yếu chiến sự, là phòng tuyến đặc biệt quan trọng chống giặc phương bắc nên cũng không có gì lạ có rất nhiều binh lính ở các vùng khác nhau của đất nước về đây trấn thủ và chọn làm nơi sinh sống, họ tới mang theo những nét văn hóa đặc thù của miền quê mình. Cứ như vậy qua nhiều thế hệ đúc kết thành một nét văn hóa Kinh bắc chung trong đó Dân ca Quan họ là một nét văn hóa rất đặc biệt , nó thể hiện tính dân tộc không thể bị đồng hóa đây chính là nét độc đáo của Quan họ vượt lên trên tất cả những loại hình hát dân ca khác và có sức lan tỏa, thuyết phục đến tận ngày nay .

   Tục kết bọn , kết Chạ cũng hình thành phát triển theo các nghi thức khác nhau bắt đầu từ mùa xuân, tết Nguyên Đán năm 1768 cũng như gắn liền với hương ước cấm “Liền anh, Liền chị” kết nghĩa phu thê

   Có nhiều người thắc mắc tại sao hai làng chỉ cách nhau một cái bờ ao mà một bên ca Quan họ rất hay mà bên kia không mảy may yêu thích , không một chút hứng thú với Quan họ điều này cũng rất dễ hiểu như đã nói ở trên. Một trại, ấp xưa khi khi các quan binh có công trạng được triều đình ban phát ruộng đất lập làng xã thì thân nhân , gia quyến cũng chỉ có vài ba gia đình sống theo kiểu tam đại đồng đường nhiều lắm cũng chỉ trên dưới trăm nhân khẩu nhưng nếu tính đến nay sau khoảng 300 trăm năm có những họ từ một cụ tổ nay con cháu nội ngoại đang sinh sống lên tới trên dưới 20.000 người. Người ca Quan họ có một đặc thù đa vùng miền vì vậy người chính gốc lâu đời hơn, sinh sống thuần túy một nơi thường không hát quan họ được.

  Khi xưa người ca Quan họ gọi là Liền anh, Liền chị cũng nhờ công lao của cụ Hiếu Trung Hầu vùng Nội Duệ- Cầu Lim đưa Quan họ vào chốn cung đình mà tôn vinh loại hình văn hóa này đến đỉnh cao. Từ năm 1803 – 1805 nhiều lần quan chức triều đình và vua Gia Long được thưởng thức Dân ca Quan họ , có nhiều Liền anh, Liền chị vào tận cung đình Huế phục vụ nhà vua vì vậy quan viên vùng Nội Duệ rất được lòng vua chúa nhà Nguyễn  đây chính là nguồn động lực phát triển rất mạnh dân ca Quan họ vùng lõi Kinh bắc sau những năm 1805. Cũng vì cảm nhận được những nét đặc biệt của dân ca Quan họ mà vua Gia Long rất quan tâm phát triển dân ca Quan họ , ông cũng lắng nghe giải thích từ “ Liền anh, Liền chị” mà từ đó không bắt lỗi phạm úy rồi ra chiếu chỉ khi phục vụ nhà vua gọi “Liền anh, Liền chị” là Anh hai Chị hai ( có thể gọi theo thứ bậc tiếp theo như Anh ba Chị ba..) như vậy từ Anh hai, Chị hai có từ năm 1805.

  Trải qua 9 đời chúa và 12 đời vua họ Nguyễn những sự tích Quan họ hay nói cách khác sự phát triển hình thành dân ca Quan họ gắn liền với sự thăng trầm và biết bao biến cố, dấu ấn lịch sử của họ Nguyễn, trong đó có dấu ấn không nhỏ của dòng họ Nguyễn Tôn vùng Kinh bắc.

  Vào đầu thời kỳ của vị vua cuối cùng của Việt Nam , thời vua Bảo Đại có một trào lưu rất nhiều công tử đất Hà thành và Phú xuân ( Huế) về hội Lim thưởng thức Quan họ cũng như thể hiện kiến thức, văn hóa nghệ thuật được học hành đến nơi đến chốn nhưng cũng “phá phách” chứng tỏ dân chơi chốn thành thị hào hoa phong nhã, lãng tử nhà giàu dẫn tới có nhiều câu quan họ mới ra đời từ đây.

    Như vậy có thể lấy năm 1920 và những năm sau là nguồn xuất phát những làn điệu dân ca Quan họ mới kế tục và cùng phát triển với các làn điệu dân ca Quan họ cổ một cách ngoạn mục.

    Đến hẹn lại lên, cứ ngày mồng 6 tháng Hai âm lịch, du khách thập phương lại đổ về làng Diềm (xã Hòa Long, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh) để dự lễ hội Thủy tổ Quan họ. Lễ hội vừa tưởng nhớ đến công lao của bà Thủy tổ – người đã sáng lập ra "Quan họ"?, vừa là nơi để con cháu, người xa xứ tìm về để nhớ nguồn cội.Tương truyền Đức Vua Bà chính là người đã sáng lập ra những làn điệu Quan họ ấm lòng người

    Mưa xuân tháng Hai lất phất hòa vào tiếng trống hội rộn ràng như giục bước chân du khách tìm về với lễ hội. Cũng giống như mọi lễ hội làng quê vùng Bắc Ninh – Kinh Bắc, Hội Diềm vẫn giữ được những nét văn hóa đặc sắc, không hổ danh là cái nôi Quan họ lâu đời. Ngoài ao làng nơi có đền Cùng, giếng Ngọc đâu đâu trong các gian nhà ngõ hẻm đều véo von những làn Quan họ cổ da diết tâm hồn kẻ ở người đi. Mưa xuân, gió lạnh không ngăn cản được những người con quê hương về đây trao nhau câu Quan họ. Người già, trẻ nhỏ không ai bảo ai, gác hết công việc rộn ràng bước chân về đền bà Thủy tổ. Có đến đây mới thầy tình yêu Quan họ mãnh liệt và trường tồn, ngấm trong lời trao duyên, trong chén nước ấm trà của người làng Diềm (nay là làng Viêm Xá).

    Một không gian linh thiêng được tái hiện để tưởng nhớ những công lao mà bà Thủy tổ để lại cho làng. Cụ ông cụ bà mặc áo gấm linh thiêng, các liền anh liền chị khăn xếp áo the chỉnh tề. Tương truyền răng, Đức Vua Bà là con gái Hùng Vương, đến tuổi cập kê nhưng không lấy chồng mà xin phép vua cha đi chu du thiên hạ. Khi bà vừa ra khỏi thành, có cơn mưa lớn bất ngờ cuốn phăng bà và các tì nữ  đến Ấp Viêm Trang ( thôn Viêm Xá ngày nay). Tại đây bà đã cho dân làng khai khẩn đất hoang, dựng vợ gả chồng và dạy họ những làn điệu "quan họ"?. Để tưởng nhớ công lao ấy, cứ vào buổi sáng khai hội mọi người lại diễn lại tích “Bà Chúa phát lệnh mở hội xuân”, mong bà cho mưa thuận gió hòa, vật thịnh dân an. Lễ rước kiệu diễn ra uy nghiêm, do hàng trăm người dân trong làng tham gia, xuất phát ở đền Vua Bà sang đình làng, đến đền Cùng rồi quay lại đền Vua Bà. Làng Diềm là nơi duy nhất trong số 49 làng Quan họ gốc của vùng Kinh Bắc có đền thờ Thủy tổ Quan họ. Tiếng quan họ vang lên suốt lễ hội, những liền anh liền chị tình tứ trao làn điệu duyên dáng và cảm ơn sự yêu mến của du khách .Từ những người con của làng cho đến những du khách thập phương đều say đắm trong không gian hữu tình. Thưởng thức những cung bậc “ vang – rền – rền – nảy” và cảm nhận sự mến mỏi của người dân làm du khách cứ lưu luyến bước chân chẳng muốn rời. Lễ hội tôn vinh Đức Vua Bà không chỉ gói gọn trong làng Quan họ Viêm Xá mà đã trở thành nét văn hóa độc đáo trên quê hương Kinh Bắc, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” rất đáng trân trọng trong truyền thống dân tộc… Trẩy hội làng Diềm có thể ví như một cuộc hành hương về với cội nguồn làng Việt cổ, nơi đó mọi lo toan trần tục tạm lắng xuống cho những thanh âm trong trẻo của Quan họ vấn vít tâm hồn.

    Thực ra nơi đây có đền thờ Bà thủy tổ có công khai khẩn đất hoang giúp dân làng có cuộc sống sung túc, đầy đủ, Bà hẳn là người hát hay, có trí tuệ hơn người thường mỗi khi mở hội Xuân cầu cho mưa thuận gió hòa, vật thịnh dân an mọi người dân được bà dậy cho hát Hội, hát Đúm .Người có công tôn vinh dân ca Quan họ là cụ Hiếu Trung Hầu vùng Nội duệ - Cầu lim . Dân làng Yên xá có công đặt tên, đặt lệ cho dân ca Quan họ , với câu đồng dao “ Hội làng lim, Tổ làng Diềm, Gốc làng Yên xá” mấy có ai tận tường, hiểu rõ.

3 tháng 5 2019

Theo các nhà nghiên cứu văn hóa, Quan họ có từ thế kỷ 17, bắt nguồn từ tục kết chạ giữa các làng xóm. Về mặt sáng tạo nghệ thuật dân ca Quan họ được coi là đỉnh cao của nghệ thuật thi ca. Bắc Ninh có 44 làng Quan họ gốc, đến nay còn gần 30 làng duy trì được lối chơi văn hóa Quan họ.
Quan họ là một làn điệu, một loại hình dân ca đặc sắc, một lối hát giao duyên nổi tiếng của vùng đồng bằng Bắc Bộ – Việt Nam mà tập trung chủ yếu ở vùng Bắc Ninh – Kinh Bắc.

đây là những gì em tìm hiểu dc