K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

11 tháng 3

Văn hóa truyền thống là linh hồn của một dân tộc, là sợi dây gắn kết quá khứ với hiện tại và tương lai. Trong thời kỳ hội nhập, việc giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa ấy càng trở nên cấp thiết. Là một học sinh, em nhận thấy mỗi người trẻ đều có trách nhiệm chung tay bảo vệ di sản quý báu này bằng những hành động thiết thực.
Trước hết, cần nâng cao nhận thức về văn hóa truyền thống. Mỗi học sinh nên tìm hiểu và trân trọng những nét đẹp văn hóa như phong tục tập quán, lễ hội, trang phục, ẩm thực và nghệ thuật dân gian. Nhà trường và gia đình cần phối hợp giáo dục về cội nguồn, giúp thế hệ trẻ hiểu rõ giá trị của văn hóa dân tộc.
Bên cạnh đó, cần tích cực tham gia các hoạt động bảo tồn văn hóa. Học sinh có thể tham gia các câu lạc bộ văn hóa, nghệ thuật dân gian, góp phần lan tỏa giá trị truyền thống qua các chương trình biểu diễn, tái hiện lễ hội hay thi tìm hiểu lịch sử. Những chuyến tham quan di tích, bảo tàng không chỉ giúp hiểu sâu hơn về văn hóa mà còn nuôi dưỡng lòng tự hào dân tộc.
Ngoài ra, ứng dụng công nghệ vào bảo vệ văn hóa cũng là một hướng đi hiệu quả. Học sinh có thể tận dụng mạng xã hội để chia sẻ những bài viết, video về văn hóa truyền thống, giúp những giá trị ấy tiếp cận được nhiều người hơn. Đồng thời, cần tránh xa những xu hướng làm méo mó hoặc thương mại hóa quá mức các giá trị văn hóa, khiến chúng mất đi bản sắc vốn có.
Cuối cùng, bản thân mỗi học sinh cần giữ gìn văn hóa qua từng hành động nhỏ trong cuộc sống. Việc sử dụng tiếng Việt chuẩn mực, ăn mặc phù hợp trong những dịp quan trọng, cư xử lễ phép với người lớn hay đơn giản là giới thiệu với bạn bè quốc tế về văn hóa dân tộc đều góp phần lan tỏa những giá trị tốt đẹp.
Giữ gìn và phát huy văn hóa truyền thống không chỉ là trách nhiệm của riêng ai mà cần sự chung tay của cả cộng đồng. Với những hành động thiết thực, mỗi học sinh đều có thể trở thành một "người giữ lửa", góp phần bảo vệ bản sắc dân tộc giữa dòng chảy hội nhập đầy biến động.


-cô bé nấm-

11 tháng 3

Câu trả lời ngắn gọn

Câu 1. (2.0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) đưa ra những giải pháp hợp lí để hạn chế sự xuống cấp của các di tích lịch sử. Câu 2. (4.0 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) phân tích những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của văn bản sau đây.        Đường vào Yên Tử                          Hoàng Quang Thuận Đường vào Yên Tử có khác...
Đọc tiếp

Câu 1. (2.0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) đưa ra những giải pháp hợp lí để hạn chế sự xuống cấp của các di tích lịch sử.

Câu 2. (4.0 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) phân tích những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của văn bản sau đây.

       Đường vào Yên Tử

                         Hoàng Quang Thuận

Đường vào Yên Tử có khác xưa
Vẹt đá mòn chân lễ hội mùa
Trập trùng núi biếc cây xanh lá
Đàn bướm tung bay trong nắng trưa.

Cây rừng phủ núi thành từng lớp
Muôn vạn đài sen mây đong đưa
Trông như đám khói người Dao vậy(1)
Thấp thoáng trời cao những mái chùa.

                  (Thi vân Yên Tử(2), NXB Giáo dục, 2015)

* Chú thích:

(1) Người dân tộc Dao đốt lá cây rừng làm rẫy.

(2) “Thi vân Yên Tử” có nghĩa là được viết trên đỉnh mây ngàn của non thiêng Yên Tử. Tác giả Hoàng Quang Thuận đã sáng tác tập thơ này vào năm 1997, tại Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử, chùa Lân, khi ông hành hương về viếng Phật Hoàng Trần Nhân Tông. 

0
Câu 1. (2.0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc. Câu 2. (4.0 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) phân tích nội dung và nghệ thuật của văn bản sau đây. TIẾNG VIỆT CỦA CHÚNG MÌNH TRẺ LẠI TRƯỚC MÙA XUÂN                                                Phạm Văn Tình Tiếng Việt chúng mình...
Đọc tiếp

Câu 1. (2.0 điểm) Viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của em về việc giữ gìn sự trong sáng của ngôn ngữ dân tộc.

Câu 2. (4.0 điểm) Viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) phân tích nội dung và nghệ thuật của văn bản sau đây.

TIẾNG VIỆT CỦA CHÚNG MÌNH TRẺ LẠI TRƯỚC MÙA XUÂN

                                               Phạm Văn Tình

Tiếng Việt chúng mình có từ thời xa lắm
Thuở mang gươm mở cõi dựng kinh thành
Vó ngựa hãm Cổ Loa, mũi tên thần bắn trả
Vẽ nên hồn Lạc Việt giữa trời xanh.
Bao thế hệ đam mê sống lại thời chiến trận
Bài Hịch năm nào hơn mười vạn tinh binh
Cả dân tộc thương nàng Kiều rơi lệ
Lời Bác truyền gọi ta biết sống vượt lên mình.
Tiếng Việt ngàn năm trong ta là tiếng mẹ
Là tiếng em thơ bập bẹ hát theo bà
Xốn xang lời ru tình cờ qua xóm nhỏ
Ơi tiếng Việt mãi nồng nàn trong câu hát dân ca!
Anh lại cùng em bước vào thiên niên kỷ
Bỗng gặp lại quê hương qua lời chúc mặn mà
Lời chúc sớm mai, ngày mồng một Tết
Qua tấm thiếp gửi thăm thầy, thăm mẹ, thăm cha.
Tiếng Việt ngàn đời hôm nay như trẻ lại
Bánh chưng xanh, xanh đến tận bây giờ
Bóng chim Lạc bay ngang trời, thả hạt vào lịch sử
Nảy lộc đâm chồi, thức dậy những vần thơ.

* Chú thích: Nhân dịp tham dự tọa đàm "Tiếng Việt ân tình" chào mừng ngày Tôn vinh tiếng Việt 08/09/2024, PGS. TS. Phạm Văn Tình bày tỏ niềm vui khi được chia sẻ về nét đẹp của tiếng Việt. Thầy Tình đã gửi đến các bạn khán giả bài thơ "Tiếng Việt của chúng mình trẻ lại trước mùa xuân" do chính mình sáng tác. 

0
(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: Chữ ta      Vừa ở Xơ-un (Hàn Quốc) về nước, đi công tác ở một số thành phố, thấy cần phải viết ngay một điều.      Ai cũng biết Hàn Quốc phát triển kinh tế khá nhanh, vào loại “con rồng nhỏ”, có quan hệ chặt chẽ với các nước phương Tây, một nền kinh tế thị trường nhộn nhịp, có quan hệ quốc tế...
Đọc tiếp

(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

Chữ ta

     Vừa ở Xơ-un (Hàn Quốc) về nước, đi công tác ở một số thành phố, thấy cần phải viết ngay một điều.

     Ai cũng biết Hàn Quốc phát triển kinh tế khá nhanh, vào loại “con rồng nhỏ”, có quan hệ chặt chẽ với các nước phương Tây, một nền kinh tế thị trường nhộn nhịp, có quan hệ quốc tế rộng rãi. Khắp nơi đều có quảng cáo nhưng không bao giờ quảng cáo thương mại được đặt ở những công sở, hội trường lớn, danh lam thắng cảnh. Chữ nước ngoài, chủ yếu là tiếng Anh, nếu có thì viết nhỏ, đặt dưới chữ Hàn Quốc to hơn phía trên. Đi đâu, nhìn đâu cũng thấy nổi bật những bẳng hiệu chữ Hàn Quốc. Trong khi đó thì ở một vài thành phố của ta, nhìn vào đâu cũng thấy tiếng Anh, có bảng hiệu của các cơ sở của ta hẳn hoi mà chữ nước ngoài phải lớn hơn cả chữ Việt, có lúc ngỡ ngàng tưởng như mình lạc sang một nước khác.

     Rồi báo chí ở Hàn Quốc khá nhiều. Tôi không biết chữ Hàn Quốc nhưng cũng xem qua khá nhiều tờ báo. Có một số tờ báo, tạp chí, số báo xuất bản bằng tiếng nước ngoài, in rất đẹp. Những các tờ báo phát hành ở trong nước đều không có mấy trang cuối viết bằng tiếng nước ngoài, trừ một số tạp chí khoa học, ngoại thương có in ở trang cuối mục lục bằng tiếng nước ngoài để người đọc nước ngoài nhờ dịch những bài cần đọc. Trong khi đó, ở ta, khá nhiều báo, kể cả một số tờ báo của các ngành của nhà nước ta, có cái “mốt” là tóm tắt một số bài chính bằng tiếng nước ngoài ở trang cuối, xem ra để cho “oai”, trong khi đó, người đọc trong nước lại bị thiệt mất mấy trang thông tin.

     Phải chăng, đó cũng là thái độ tự trọng của một quốc gia khi mở cửa với bên ngoài, mà ta nên suy ngẫm.

12-4-1994

(Hữu Thọ, theo Bình luận báo chí thời kì đổi mới, NXB Giáo dục, 2000)

Câu 1. Văn bản trên thuộc kiểu văn bản nào?

Câu 2. Vấn đề được đề cập đến trong văn bản là gì? 

Câu 3. Để làm sáng tỏ cho luận điểm, tác giả đã đưa ra những lí lẽ, bằng chứng nào?

Câu 4. Chỉ ra một thông tin khách quan và một ý kiến chủ quan mà tác giả đưa ra trong văn bản.

Câu 5. Nhận xét về cách lập luận của tác giả.

0
(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:              Những người đàn bà gánh nước sông Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy Những người đàn bà xuống gánh nước sông Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt Một bàn tay họ bám vào đầu đòn...
Đọc tiếp

(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5:

             Những người đàn bà gánh nước sông

Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái
Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi năm và nửa đời tôi thấy
Những người đàn bà xuống gánh nước sông

Những bối tóc vỡ xối xả trên lưng áo mềm và ướt
Một bàn tay họ bám vào đầu đòn gánh bé bỏng chơi vơi
Bàn tay kia bám vào mây trắng

Sông gục mặt vào bờ đất lần đi
Những người đàn ông mang cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Những con cá thiêng quay mặt khóc
Những chiếc phao ngô chết nổi
Những người đàn ông giận dữ, buồn bã và bỏ đi

Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi lăm và nửa đời tôi thấy
Sau những người đàn bà gánh nước sông là lũ trẻ cởi truồng
Chạy theo mẹ và lớn lên
Con gái lại đặt đòn gánh lên vai và xuống bến
Con trai lại vác cần câu và cơn mơ biển ra khỏi nhà lặng lẽ
Và cá thiêng lại quay mặt khóc
Trước những lưỡi câu ngơ ngác lộ mồi.

                                                                1992

                                                  - Nguyễn Quang Thiều -

Câu 1. Xác định thể thơ của bài thơ trên.

Câu 2. Chỉ ra những phương thức biểu đạt được sử dụng trong bài thơ. 

Câu 3. Việc lặp lại hai lần dòng thơ “Đã năm năm, mười lăm năm, ba mươi lăm và nửa đời tôi thấy” trong bài có tác dụng gì?

Câu 4. Phát biểu đề tài và chủ đề của bài thơ.

Câu 5. Bài thơ này gợi cho em những suy nghĩ gì?

0
11 tháng 3

trả lời giúp mình với

17 tháng 3

hỏi nhiều thế chs say get k