K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: Nghịch cảnh giúp ta thành công      Một người có nghị lực có thể đổi rủi thành may, chuyển hoạ thành phúc. Tôi không bàn đến lẽ thất bại là mẹ thành công.      Bạn nào cũng đã biết Edison phải nếm mùi thất bại cả ngàn lần rồi mới chế tạo được ra bóng đèn điện và ông cho những thất bại ấy là...
Đọc tiếp

(4.0 điểm) Đọc văn bản và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 5: 

Nghịch cảnh giúp ta thành công

      Một người có nghị lực có thể đổi rủi thành may, chuyển hoạ thành phúc. Tôi không bàn đến lẽ thất bại là mẹ thành công.

      Bạn nào cũng đã biết Edison phải nếm mùi thất bại cả ngàn lần rồi mới chế tạo được ra bóng đèn điện và ông cho những thất bại ấy là những thành công nho nhỏ vì mỗi thất bại ấy là những kinh nghiệm để tiến gần tới mục đích. Ở đây, tôi chỉ xin tiếp tục xét đến sự rủi ro. Những rủi ro lớn và lâu ta gọi là nghịch cảnh; mà nghịch cảnh thường giữ một chức vụ quan trọng trong sự thành công. Bệnh tật liên miên là một nghịch cảnh phải không bạn?

      Nhưng nếu Voltaire không đau vặt, về già phải nằm trên giường quanh năm thì chắc gì ông đã sáng tác được nhiều như vậy? Marcel Proust, nếu không mắc bệnh thần kinh, sợ tiếng động đến nỗi suốt đời tự giam mình trong một phòng kín mịt, cách thanh, thì ông có được cô tịch để suy nghĩ về tâm lý và viết được tác phẩm độc đáo bất hủ, tức cuốn “Đi tìm thời gian đã mất” không?

      Ông Ben Fortson bị tai nạn xe hơi, cụt cả hai chân, mà không cho như vậy là nghịch cảnh, còn mừng là diễm phúc vì nằm liệt một chỗ, ông đọc được rất nhiều sách về chính trị, kinh tế, xã hội, thành một nhà bác học có tài hùng biện rồi được bầu làm thống đốc một tiểu bang ở Mỹ.

      Nếu không bị loà chưa chắc Milton đã thành một thi hào của muôn thuở và nhạc sĩ Beethoven nếu không bị điếc thì tài nghệ của ông chắc gì đã tới mức tuyệt đích?

      Charles Darwin nhờ tàn tật mà lập nên sự nghiệp. Ông nói: “Nếu thân tôi không là cái xác vô dụng, chưa chắc tôi đã có đủ sức mạnh tinh thần để biểu minh lý thuyết của tôi”.

      Bà Hellen Keller hồi hai tuổi, bị bệnh nặng, hoá đui, điếc và câm, lớn lên lại nghèo tới nỗi có hồi phải ngủ trong một nhà xác. Vậy mà bà thắng được nghịch cảnh, học rộng, viết bảy cuốn sách, đi diễn thuyết khắp châu Mỹ và châu Âu, được Mark Twain cho là một người lạ lùng nhất, ngang hàng với Nã Phá Luân ở thế kỷ 19.

      Nhiều bạn trẻ thường phàn nàn với tôi vì cảnh nhà nghèo túng, hoặc không được lâu và làm ăn cũng không được. Nghèo túng là một nghịch cảnh thật, nhưng biết lợi dụng nó thì nó lại là một tay sai đắc lực giúp ta thành công. Chính vì nghèo khổ, người ta mới ham tự học, thấy cần phải tự học, J.J.Rousseau trên mười tuổi đã phải đi lang thang khắp nơi, làm đủ các nghề để kiếm ăn, nhờ có chí, biết tự học trong lúc rảnh mà nổi danh là một triết gia, ảnh hưởng lớn đến thế giới. Một người hỏi ông: “Ông học tại những trường nào mà giỏi như vậy?”. Ông đáp: “Học trong trường nghịch cảnh”. […]

      Trên đường doanh nghiệp cảnh nghèo thường kích thích hoạt động chứ không phải luôn luôn là một trở ngại. Hầu hết những ông vua thép, vua báo, vua dầu lửa, vua xe hơi ở Âu - Mỹ đều xuất thân hàn vi hơn bạn và tôi. Họ đã phải bán báo, đánh giày, lượm rác, làm bồi phòng, … chỉ nhờ hai bàn tay trắng mà làm nên sự nghiệp. Cổ nhân đã nhận xét đúng: “Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”, vì hễ nghèo thì bị tủi nhục, bị hiếp đáp nên người ta quyết tâm thắng nó, tận lực cải thiện đời sống, đem cả tâm trí ra phấn đấu đến cùng, và sớm muộn gì người ta cũng thắng, cũng hoá giàu. Vả lại, có nghèo người ta mới dám mạo hiểm để làm lớn, không sợ thất bại, thắng thì được tất cả mà thua thì chẳng mất gì. Giàu có sinh nhút nhát, làm biếng; nên một người Pháp đã nói: “Những con ngựa mập không chạy được nhanh” và một nhà doanh nghiệp nọ phàn nàn với bạn như vầy: “Tôi biết thằng con tôi, nó có nhiều đức tính lắm, song nó có một cái bất lợi rất lớn là nó sinh trong một nhà giàu”. Russell H. Conwell trong bài “Hàng mẫu kim cương” nói: “Không có vốn là phước cho bạn đó. Thấy bạn không có vốn, tôi mừng lắm. Tôi thương hại con trai những phú gia. Những cậu Hai, cậu Ba đó ở thời này có một địa vị thực khó khăn. Họ đáng thương. Họ không biết nổi những cái quý nhất trong đời. Theo bảng thống kê ở Massachusetts, trong số 17 cậu con phú gia, không cậu nào khi chết mà giàu. Họ sinh trưởng trong cảnh giàu sang thì chết trong cảnh nghèo hèn”. Vậy bạn đừng phàn nàn không có vốn để làm ăn. Thiếu cái vốn tiền bạc thì bạn đã có cái vốn khác quý báu hơn nhiều, không ai ăn cướp được, đánh cắp được, tịch thâu được của bạn, một cái vốn mà sự phá giá của đồng tiền không hề ảnh hưởng mảy may gì tới cả, cái vốn đó là sự hiểu biết, những kinh nghiệm, sức làm việc, lòng kiên nhẫn, chí quyết thắng của bạn. Trời đã ban cho ta bộ óc, hai bàn tay và 24 giờ mỗi ngày thì ta không thể phàn nàn rằng thiếu tiền, thiếu vốn là một nghịch cảnh. Nghịch cảnh lớn nhất trong đời người có lẽ là sự tù đày. Nhưng biết bao vĩ nhân đã lập nên sự nghiệp bất hủ giữa bốn bức tường đá của nhà giam! Vua Văn Vương nhà Chu bị cùm nơi ngục Dữu Lý mà viết “Chu Dịch” - một cuốn triết lý cao siêu của phương Đông; Hàn Phi bị tù ở Tần mới soạn hai thiên “Thuyết nạn” và “Cô phẫn”; Tư Mã Thiên dùng những ngày sống thừa trong khám để viết bộ “Sử ký”, một tác phẩm bất hủ làm vẻ vang cho dân tộc Trung Hoa; Phan Bội Châu để lại tập “Ngục trung thư” (thư viết trong ngục); Huỳnh Thúc Kháng, Phan Văn Hùm tự học chữ Pháp hoặc chữ Hán trong khi bị đày ở Côn Đảo; Gandhi bảo “vào ngục vui như phòng hoa đêm tân hôn” và trong cái “phòng hoa” ấy, ông đã luyện nhân cách, suy nghĩ về phương pháp bất hợp tác để chống người Anh.

      Không ai cầu nghịch cảnh, nhưng nghịch cảnh tới thì kẻ có chí khí mỉm cười ngâm câu thơ của Nguyễn Công Trứ: “Muốn đại thụ hãy ghìm cho lúng túng” và nghĩ như một triết gia Đức: “Người lý tưởng là người khi bị định mạng thử thách, không những đã tỏ ra xuất chúng mà còn luôn luôn thích đương đầu với trở lực”. Sinh trong một gia đình phú quý, được du học bên Tây, bên Mỹ, đậu bằng cấp kỹ sư, bác sĩ, về nước cưới được vợ giàu, mở xưởng máy hoặc phòng khám bệnh rồi mỗi ngày một giàu thêm, như vậy có vẻ vang gì đâu, ai ở trong địa vị đó mà chẳng thành công được như vậy? Phải thắng được nghịch cảnh, dựng nên sự nghiệp mới đáng khen chứ? Mà tâm hồn ta mới cao thượng lên, tài đức ta mới tiến lên chứ?

(Trích Rèn nghị lực để lập thân, Nguyễn Hiến Lê)

Câu 1. Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên.

Câu 2. Xác định luận đề của văn bản. 

Câu 3. Để làm sáng tỏ cho ý kiến: “nghịch cảnh thường giữ một chức vụ quan trọng trong sự thành công”, tác giả đã sử dụng những bằng chứng nào? Nhận xét về những bằng chứng ấy.

Câu 4. Mục đích và nội dung của văn bản trên là gì?

Câu 5. Nhận xét cách lập luận của tác giả trong văn bản.

2

Chắc chắn rồi, dưới đây là phần trả lời cho các câu hỏi của bạn:

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên.

  • Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên là nghị luận.

Câu 2: Xác định luận đề của văn bản.

  • Luận đề của văn bản là: Nghịch cảnh có thể giúp con người thành công.

Câu 3: Để làm sáng tỏ cho ý kiến: “nghịch cảnh thường giữ một chức vụ quan trọng trong sự thành công”, tác giả đã sử dụng những bằng chứng nào? Nhận xét về những bằng chứng ấy.

  • Tác giả đã sử dụng những bằng chứng sau:
    • Những người nổi tiếng như Voltaire, Marcel Proust, Ben Fortson, Milton, Beethoven, Charles Darwin, Hellen Keller, J.J. Rousseau, và nhiều nhà doanh nghiệp thành công khác.
    • Những hoàn cảnh khó khăn như bệnh tật, tai nạn, mù lòa, điếc, câm, nghèo túng, và thậm chí là tù đày.
  • Nhận xét:
    • Những bằng chứng này rất đa dạng, phong phú, và có sức thuyết phục cao.
    • Tác giả đã khéo léo sử dụng những câu chuyện về những người nổi tiếng để chứng minh cho luận điểm của mình.
    • Việc đưa ra nhiều ví dụ từ nhiều lĩnh vực cho thấy tính phổ quát của vấn đề.

Câu 4: Mục đích và nội dung của văn bản trên là gì?

  • Mục đích của văn bản là:
    • Khẳng định vai trò của nghịch cảnh trong việc giúp con người thành công.
    • Truyền cảm hứng và động lực cho người đọc, đặc biệt là những người đang gặp khó khăn.
  • Nội dung của văn bản là:
    • Phân tích và chứng minh rằng nghịch cảnh không phải là rào cản, mà là cơ hội để con người phát triển và thành công.
    • Đưa ra những ví dụ minh họa về những người đã vượt qua nghịch cảnh để đạt được thành công.
    • Khuyến khích người đọc có thái độ tích cực trước khó khăn.

Câu 5: Nhận xét cách lập luận của tác giả trong văn bản.

  • Cách lập luận của tác giả rất chặt chẽ, logic và thuyết phục.
    • Tác giả đưa ra luận điểm rõ ràng, sau đó sử dụng những bằng chứng cụ thể để chứng minh.
    • Tác giả sử dụng nhiều phép tu từ như so sánh, tương phản, và liệt kê để tăng tính sinh động và hấp dẫn cho văn bản.
    • Sử dụng những câu nói của các nhà danh nhân, làm tăng thêm tính thuyết phục.
2 tháng 4

Chắc chắn rồi, dưới đây là phần trả lời cho các câu hỏi của bạn:

Câu 1: Xác định phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên.

  • Phương thức biểu đạt chính được sử dụng trong văn bản trên là nghị luận.

Câu 2: Xác định luận đề của văn bản.

  • Luận đề của văn bản là: Nghịch cảnh có thể giúp con người thành công.

Câu 3: Để làm sáng tỏ cho ý kiến: “nghịch cảnh thường giữ một chức vụ quan trọng trong sự thành công”, tác giả đã sử dụng những bằng chứng nào? Nhận xét về những bằng chứng ấy.

  • Tác giả đã sử dụng những bằng chứng sau:
    • Những người nổi tiếng như Voltaire, Marcel Proust, Ben Fortson, Milton, Beethoven, Charles Darwin, Hellen Keller, J.J. Rousseau, và nhiều nhà doanh nghiệp thành công khác.
    • Những hoàn cảnh khó khăn như bệnh tật, tai nạn, mù lòa, điếc, câm, nghèo túng, và thậm chí là tù đày.
  • Nhận xét:
    • Những bằng chứng này rất đa dạng, phong phú, và có sức thuyết phục cao.
    • Tác giả đã khéo léo sử dụng những câu chuyện về những người nổi tiếng để chứng minh cho luận điểm của mình.
    • Việc đưa ra nhiều ví dụ từ nhiều lĩnh vực cho thấy tính phổ quát của vấn đề.

Câu 4: Mục đích và nội dung của văn bản trên là gì?

  • Mục đích của văn bản là:
    • Khẳng định vai trò của nghịch cảnh trong việc giúp con người thành công.
    • Truyền cảm hứng và động lực cho người đọc, đặc biệt là những người đang gặp khó khăn.
  • Nội dung của văn bản là:
    • Phân tích và chứng minh rằng nghịch cảnh không phải là rào cản, mà là cơ hội để con người phát triển và thành công.
    • Đưa ra những ví dụ minh họa về những người đã vượt qua nghịch cảnh để đạt được thành công.
    • Khuyến khích người đọc có thái độ tích cực trước khó khăn.

Câu 5: Nhận xét cách lập luận của tác giả trong văn bản.

  • Cách lập luận của tác giả rất chặt chẽ, logic và thuyết phục.
    • Tác giả đưa ra luận điểm rõ ràng, sau đó sử dụng những bằng chứng cụ thể để chứng minh.
    • Tác giả sử dụng nhiều phép tu từ như so sánh, tương phản, và liệt kê để tăng tính sinh động và hấp dẫn cho văn bản.
    • Sử dụng những câu nói của các nhà danh nhân, làm tăng thêm tính thuyết phục.
25 tháng 3

♦ Đặc điểm

- Phạm vi lãnh thổ:

+ Trung Quốc có diện tích khoảng 9,6 triệu km2.

+ Lãnh thổ Trung Quốc (phần đất liền) trải dài theo chiều vĩ tuyến từ khoảng vĩ độ 20°B đến vĩ độ 53°B, theo chiều kinh tuyến từ khoảng kinh độ 73°Đ đến kinh độ 135°Đ.

+ Trung Quốc có vùng biển rộng lớn thuộc các biển Hoàng Hải, Hoa Đông… thuộc Thái Bình Dương và các đảo, quần đảo.

- Vị trí địa lí:

+ Nằm ở khu vực Đông Á.

+ Tiếp giáp với 14 quốc gia ở phía bắc, phía tây và phía nam; phía đông giáp biển.

♦ Ảnh hưởng

- Đất nước rộng lớn, thiên nhiên có sự phân hóa giữa các vùng, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú tạo điều kiện để Trung Quốc phát triển một nền kinh tế đa dạng.

- Tiếp giáp với nhiều quốc gia, vùng biển rộng lớn đã tạo thuận lợi cho việc giao lưu, liên kết kinh tế - thương mại với các nước trong khu vực Đông Á, Đông Nam Á, các nước trên thế giới và phát triển nhiều ngành kinh tế biển.

- Phần lớn đường biên giới trên đất liền giữa Trung Quốc với các nước có địa hình núi cao, hiểm trở, khó khăn cho việc giao thương.

23 tháng 3
  • Xác định mục tiêu học tập:
    • Xác định rõ ràng những gì muốn đạt được, ví dụ: nâng cao kiến thức về toán học, học ngoại ngữ mới, hay phát triển kỹ năng mềm.
  • Chia nhỏ nội dung học:
    • Thay vì học tất cả cùng một lúc, mình sẽ chia nhỏ nội dung thành các phần dễ quản lý để tập trung tốt hơn.
  • Lập lịch học cụ thể:
    • Tạo lịch trình hợp lý, ví dụ: dành 2 giờ mỗi ngày học và kết hợp giữa lý thuyết, thực hành, và nghỉ ngơi.
  • Sử dụng tài liệu phù hợp:
    • Chọn các nguồn học uy tín như sách, video hướng dẫn, hoặc các trang học trực tuyến.
  • Đánh giá tiến bộ thường xuyên:
    • Định kỳ kiểm tra lại những gì đã học để thấy điểm mạnh và khắc phục điểm yếu.

Bài thơ "Đôi nạng" của Thanh Tùng là một tác phẩm đầy cảm xúc và sâu sắc, nói về tình cảm giữa cha và con trong hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh.

Bài thơ mở đầu với một hình ảnh hạnh phúc của ngày khai trường, khi cha mua cho con đủ mọi thứ, từ sách vở, quần áo đến đồ chơi. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là cha đã quên mua cho con đôi nặng mới, điều mà mỗi đứa trẻ đều cần để bước vào một năm học mới.

Thiếu vắng đôi nặng mới đã tạo ra một khoảnh khắc đầy ý nghĩa, khi con nhắc nhở cha về sự quên lãng này. Tuy nhiên, điều đáng buồn hơn là cha không chỉ quên mất việc mua đôi nặng mới, mà còn phải đối mặt với việc con bị ảnh hưởng bởi chiến tranh, khiến cho chiếc nặng cũ không còn phù hợp với việc con lớn lên.

Từ "nạng" không chỉ là một vật dụng thông thường mà còn mang ý nghĩa biểu tượng về sự chăm sóc, sự quan tâm của cha đối với con. Sự thiếu vắng của đôi nặng mới cũng là một hình ảnh tượng trưng cho những thiếu sót, những hậu quả của cuộc chiến tranh mà con đang phải chịu đựng.

Tóm lại, bài thơ "Đôi nạng" không chỉ là một bức tranh về mối quan hệ cha con mà còn là một cảm nhận sâu sắc về những khó khăn, những tổn thương mà chiến tranh mang lại cho những gia đình, những đứa trẻ.

Để giải bài toán này, ta thực hiện các bước sau:

1. Viết phương trình phản ứng:

C6H6 + Br2 → C6H5Br + HBr

2. Tính số mol của benzene:

  • n(C6H6) = m(C6H6) / M(C6H6) = 15,6 gam / 78 gam/mol = 0,2 mol

3. Tính số mol bromobenzen theo phương trình phản ứng:

  • Theo phương trình phản ứng, n(C6H5Br) = n(C6H6) = 0,2 mol

4. Tính số mol bromobenzen thực tế thu được (hiệu suất 80%):

  • n(C6H5Br) thực tế = n(C6H5Br) lý thuyết * H% = 0,2 mol * 80% = 0,16 mol

5. Tính khối lượng bromobenzen thu được:

  • m(C6H5Br) = n(C6H5Br) * M(C6H5Br) = 0,16 mol * 157 gam/mol = 25,12 gam

6. Làm tròn kết quả:

  • Làm tròn đến hàng phần mười, ta được 25,1 gam.

Vậy, khối lượng bromobenzen thu được là 25,1 gam.

22 tháng 3

Khi cơ thể vận động mạnh, cơ chế điều hòa nhịp tim diễn ra theo các bước sau:

  1. Phát hiện yêu cầu tăng cường máu: Khi vận động, cơ bắp cần nhiều oxy hơn để sản xuất năng lượng. Điều này dẫn đến nhu cầu tăng cường lưu thông máu để cung cấp oxy và loại bỏ carbon dioxide.
  2. Kích thích hệ thần kinh: Hoạt động thể chất kích thích hệ thần kinh giao cảm, một phần của hệ thần kinh tự động. Hệ thần kinh giao cảm sẽ tiết ra hormone như adrenaline (epinephrine) và norepinephrine, giúp tăng cường nhịp tim.
  3. Tăng nhịp tim: Nhờ vào tác động của hormone và các tín hiệu từ hệ thần kinh, nhịp tim sẽ tăng lên để bơm máu nhiều hơn tới các cơ bắp đang hoạt động. Nhịp tim có thể tăng lên đáng kể, từ khoảng 60-100 nhịp/phút (ở trạng thái nghỉ ngơi) có thể lên đến 150-200 nhịp/phút trong lúc tập luyện cường độ cao.
  4. Tăng cường lưu thông máu: Nhịp tim tăng lên đồng nghĩa với việc lưu lượng máu cũng tăng, giúp cung cấp oxy và dưỡng chất cần thiết cho cơ bắp. Đồng thời, máu cũng sẽ đưa các chất thải như carbon dioxide ra khỏi cơ thể hiệu quả hơn.
  5. Điều hòa nhịp tim khi ngừng vận động: Sau khi ngừng vận động, nhịp tim sẽ dần dần trở về mức bình thường. Hệ thần kinh đối giao cảm sẽ hoạt động để làm chậm nhịp tim và giúp cơ thể phục hồi.

Tóm lại, khi cơ thể vận động mạnh, nhịp tim tăng lên để đáp ứng nhu cầu oxy và dinh dưỡng cho các cơ bắp, nhờ vào sự phối hợp của hệ thần kinh và các hormone trong cơ thể.

You know, we have one world that is divided in two. On one side is people living their life in luxury, and on the other side is people who can’t afford to live, they have no place to live, they have no food to eat and they have no clothes to wear. There are poor people who need much more to be able to live, while other people have enough to survive. As said, poor people have not enough clothes, food, education and health. To be poor means to be deprived economically, politically and socially. They have no possibilities. To help poor people is a good job. To care for poor people and to help them is a real task. The more you give to poor people, the more you give them strength and if you give them one chance or opportunity, you will see a change in your life. Another thing is to show the poor people love and respect. It is another way to help poor people. Here are five ways to help poor people:  

Give them support: A good way to help poor people is to give them a hand or a hug. Give them moral support, show love, respect and make them aware that someone really cares about them. Give them economic support: Ordinary people can help poor people by giving economic support. We can help them to solve problem with living. For an example, they need to get meals for their family, a place to live or some clothes. Give them groceries: Give groceries to poor people. They can’t even afford a meal for themselves or their family. Don’t waste food, it is better to give it to those that need it the most. Give them old belongings: To help poor people, is to give them old things, such as old clothes, old furnitures or other old things. Clothes is a big help for poor people especially in the winter season. Education: Knowledge can help the poor people to stand on their own feet. To give them free education can help them to grow as individuals, help them to live a better life, help them to get a job, and to build a career. But it can also help the poor people to develop their skills.

nhớ tag mình nha bạn

có gì sai từ thì sửa lại hộ mình chứ mình viết hơi vội bạn nhé

Một số câu hỏi có thể nảy sinh từ bài báo cáo trên, phản ánh những thắc mắc hoặc vấn đề chưa được giải quyết rõ ràng, có thể bao gồm:Rồng thành bậc ở điện Kính Thiên có thực sự chỉ mang ảnh hưởng của văn hóa phương Nam, hay có sự kết hợp với các yếu tố văn hóa từ các khu vực khác như Ấn Độ, Đông Nam Á?Tại sao không có bằng chứng về rồng thành bậc từ thời Lý, mà...
Đọc tiếp

Một số câu hỏi có thể nảy sinh từ bài báo cáo trên, phản ánh những thắc mắc hoặc vấn đề chưa được giải quyết rõ ràng, có thể bao gồm:

  1. Rồng thành bậc ở điện Kính Thiên có thực sự chỉ mang ảnh hưởng của văn hóa phương Nam, hay có sự kết hợp với các yếu tố văn hóa từ các khu vực khác như Ấn Độ, Đông Nam Á?
  2. Tại sao không có bằng chứng về rồng thành bậc từ thời Lý, mà lại có ở thời Trần, Hồ? Liệu sự thay đổi trong phong cách kiến trúc có phản ánh sự thay đổi trong tư tưởng, chính trị hay không?
  3. Kiểu thức rồng thành bậc có nguồn gốc từ văn hóa Chăm-pa hay không, và tại sao tác giả lại cho rằng nó có thể đến từ Indonesia mà không phải từ văn hóa Chăm?
  4. Có sự ảnh hưởng gì từ các nền văn hóa khác trong khu vực Đông Nam Á (như Thái Lan, Lào, Campuchia) đối với kiểu thức rồng thành bậc ở Việt Nam hay không?
  5. Lý do gì khiến các con rồng trên long bệ thạch Trung Hoa, mặc dù có kích thước lớn và chạm khắc tinh xảo, lại không tạo ấn tượng mạnh trong không gian như rồng thành bậc ở Việt Nam?
0