K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

5 tháng 11 2019

TỰ LM 

 Đã rất nhiều lần òi , nx tệ hại nhất chính là hôm nay . Vừa đến lớp đã bị nghiệp quật xít ngã xe :v , lên lớp ôi dào , chúng nó như 1 lũ điên , quẩy tung cả lớp nhức hết cả đầu . Chả bài kiểm tra toán ớ hớ ...đ , chúng nó bảo mk gáy too tạo nghiệp đấy haizz chúng nó chả bao h hiểu cho cảm giác lúc đó của t ra sao , có nx đứa thì nói ''ôi dào , thiên tài cái qq m ý , tạo nghiệp vừa thôi con '' . Những bọn con gái điên thì cứ ra chỗ t gáy ''Sao ko tú ...v...v...'' nghe đã thấy sến tai rồi , pk ở lại nghe ông thầy thuyết trình 1 bài ca nữa chứ , méo hiểu sao , về đến nhà đá mẹ cái chân vào cửa thế => bong gân haizz... , chiều đến đang định sạc xe thì ko ngờ cái chìa khóa xe bị gãy ôi :v , còn pk nhắn với 1 tk nhắn rất khó nghe , tự kiêu trên olm , con cr nó chả hiểu nổi t đang nghĩ j , .... Kết thúc câu chuyện t chỉ mong ngày này qua thật nhanh 

5 tháng 11 2019

Tưởng tượng giỏi thế bạn hiền :3

4 tháng 11 2019

Lên google rồi gõ : Tiếng gà trưa auto ra nha bạn :3

4 tháng 11 2019

Trên đường hành quân xa
Dừng chân bên xóm nhỏ
Tiếng gà ai nhảy ổ:
“Cục... cục tác cục ta”
Nghe xao động nắng trưa
Nghe bàn chân đỡ mỏi
Nghe gọi về tuổi thơ

Tiếng gà trưa
Ổ rơm hồng những trứng
Này con gà mái mơ
Khắp mình hoa đốm trắng
Này con gà mái vàng
Lông óng như màu nắng 

Tiếng gà trưa
Có tiếng bà vẫn mắng:
- Gà đẻ mà mày nhìn
Rồi sau này lang mặt!
Cháu về lấy gương soi
Lòng dại thơ lo lắng

Tiếng gà trưa
Tay bà khum soi trứng
Dành từng quả chắt chiu
Cho con gà mái ấp

Cứ hàng năm hàng năm
Khi gió mùa đông tới
Bà lo đàn gà toi
Mong trời đừng sương muối
Để cuối năm bán gà
Cháu được quần áo mới
Ôi cái quần chéo go
Ống rộng dài quét đất
Cái áo cánh chúc bâu
Đi qua nghe sột soạt

Tiếng gà trưa
Mang bao nhiêu hạnh phúc
Đêm cháu về nằm mơ
Giấc ngủ hồng sắc trứng

Cháu chiến đấu hôm nay
Vì lòng yêu Tổ quốc
Vì xóm làng thân thuộc
Bà ơi, cũng vì bà
Vì tiếng gà cục tác
Ổ trứng hồng tuổi thơ
2-7-1965

1,Tác giả: Nguyễn Thị Xuân Quỳnh

Hoàn cảnh sáng tác:Trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ

2,Mk không biết

3,Mk cũng không biết

4,Bài thơ Tiếng gà trưa là sự gợi nhớ về những kỉ niệm đẹp đẽ của tuổi thơ và tình bà cháu thắm thiết. Nhớ nhà, đó là tâm trạng rất chung của những người lính trẻ vừa mới bước qua được ngưỡng cửa của tuổi học trò mà đã phải buông cây bút cùng những trang sách để bắt đầu một cuộc sống cầm súng lên bảo vệ quê hương đất nước. Nỗi nhớ nhà ấy không hề xa vời mà được thể hiện một cách vô cùng cụ thể, giản dị. 

Nội qui tham gia "Giúp tôi giải toán"

1. Không đưa câu hỏi linh tinh lên diễn đàn, chỉ đưa các bài mà mình không giải được hoặc các câu hỏi hay lên diễn đàn;

2. Không trả lời linh tinh, không phù hợp với nội dung câu hỏi trên diễn đàn.

3. Không k "Đúng" vào các câu trả lời linh tinh nhằm gian lận điểm hỏi đáp.

Các bạn vi phạm 3 điều trên sẽ bị giáo viên của Online Math trừ hết điểm hỏi đáp, có thể bị khóa tài khoản hoặc bị cấm vĩnh viễn không đăng nhập vào trang web.

4 tháng 11 2019

có bán nick ff 50k viettel ko mình mua

Đề bài: "Một hôm Chí phèo say rượu đi về nhà trên một đường thẳng. Mỗi bước anh ta tiến 0,5 m rồi lại lùi 0,4 m với xác suất như nhau.". Dùng kiến thức các môn học để trả lời các câu hỏi sau:1) (Toán học): Nếu quãng đường từ quán rượu về nhà là 1,2 km thì dự tính sau bao lâu anh chí sẽ về tới nhà .2) (Văn học):a) Hai câu trên thuộc dạng văn gì?b) Chí phèo là nhân vật chính trong...
Đọc tiếp

Đề bài: "Một hôm Chí phèo say rượu đi về nhà trên một đường thẳng. Mỗi bước anh ta tiến 0,5 m rồi lại lùi 0,4 m với xác suất như nhau.". Dùng kiến thức các môn học để trả lời các câu hỏi sau:

1) (Toán học): Nếu quãng đường từ quán rượu về nhà là 1,2 km thì dự tính sau bao lâu anh chí sẽ về tới nhà .

2) (Văn học):
a) Hai câu trên thuộc dạng văn gì?
b) Chí phèo là nhân vật chính trong tác phẩm nào và của nhà văn nào?

3) (GDCD): Từ hiện tượng trên hãy viết một đoạn văn ngắn (khoảng dưới 1000 chữ) để nói lên quan điểm của bạn về thói xấu hay uống rượu của người Việt.

4) (ATGT): Theo bạn, Chí phèo đã vi phạm những điều nào trong luật giao thông đường bộ? Với lỗi vi phạm đó, Chí phèo sẽ bị nộp phạt số tiền tối đa là bao nhiêu?

5) (Kĩ năng sống): Bạn sẽ làm gì để tránh tình trạng say xỉn như Chí phèo khi được mời đi liện hoan, dự tiệc?

6) (Hóa học): Biết rằng rượu anh Chí Phèo uống là rượu 46 độ (D=0.8 gam/ml), anh Chí nặng 40 kg. Hãy tính tiểu lượng (Đô) cực đại của anh Chí theo LD50 là bao nhiêu?

7) (Vật Lý): Hãy giải thích vì sao anh Chí đứng ko cân bằng mà vẫn ko bị té?

😎 (Lịch sử): Câu chuyện trên xảy ra vào ngày tháng năm nào?

9) (Địa lý): Địa danh anh Chí đã sống là ở đâu?

10) (Mỹ thuật): Hãy vẽ hình ảnh Chí Phèo theo tưởng tượng của em từ hai câu trên.

11) (Âm nhạc): Theo em, trong tình trạng trên, Chí Phèo có hát được không? Nếu được thì sẽ là bài hát gì?

12) (Thể dục): Bước đi của anh Chí như trên giống với điệu nhảy nào? Hãy minh hoạ?

13) (Công nghệ): Với tình trạng say xỉn như trên, thị Nở nên nấu món ăn gì để giải rượu cho Chí.

14) (Sinh học): Với lượng rượu như thế khi đưa vào cơ thể sẽ ảnh hưởng như thế nào đến hệ thần kinh và hệ sinh sản?

15) (Tiếng Anh): Em hãy viết một bức thư ngắn khoảng 100 chữ bằng tiếng Anh cho anh Chí trong đó nói về tác hại của rượu và khuyên anh từ bỏ rượu.

16) (Tin học): Em hãy dùng phần mềm scratch, lập trình mô phỏng điệu đi của Anh Chí.

17) (GDQP): Em hãy nêu tình huống và hướng dẫn anh Chí lợi dụng địa hình, địa vật để đảm bảo an toàn người và phương tiện kĩ thuật!

0

Nguyễn Trãi là một nhà thơ có tính cách vô cùng đặc sắc và có tâm hồn sâu sắc. những tác phẩm của Nguyễn trãi đều thể hiện tình yêu thiên nhiên, tình yêu con người. một trong những tác phẩm thể hiện sâu sắc tình yêu thiên nhiên sâu sắc của Nguyễn Trãi là tác phẩm “ Bài Ca Côn Sơn”.

Bài thơ là bài ca giao cảm với thiên nhiên, cũng là bài ca tâm trạng thế sự, triết lý cuộc đời, về nhân sinh. Bởi Nguyễn Trãi  là một người dành cả cuộc đời của mình để lo cho nước cho dân nhưng đến những năm cuối đời ông lại sống trong dự đố kị ghen ghét của đám nịnh thần.Vì thế khi ông trở về Côn Sơn ông như con chim sổ lồng mà bấy lâu nay ông không được tung cánh,cảm thấy mình thật sự tự do giữa bầu trời rộng lớn hơn lúc nào hết như  lúc này đây ông mới được sống là chính mình và chính mình hưởng thụ:

  • “ Côn Sơn suối chảy rì rầm
  • Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai
  • Côn Sơn có đá rêu phơi
  • Ta ngồi trên đá như ngồi chiếu êm.”

Tiếng nước chảy róc rách mà nhà thơ thích thú “ cho là đàn cầm”. Nhạc của suối như để mua vui những tháng ngày ở ẩn. Ẩn dụ “ đàn cầm” biểu lộ niềm vui giao cảm với suối, coi suối là mảnh tâm hồn của “ ta”. Một hình ảnh so sánh liên tưởng đầy thú vị khiến ta không khỏi ngỡ ngàng. Nguyễn Trãi trở về Côn Sơn không phải là để ẩn dật theo đúng nghĩa của cách sống ẩn dật, mà ông trở về Côn Sơn với nỗi hân hoan đầy tự do của một con người trở về nhà mình.Trong bốn câu đầu cảnh vật hiện lên với dòng suối chảy róc rách,rì rầm như tiếng đàn lúc khoan,lúc nhặt.Trên tảng đá có phủ một lớp rêu xanh được tác giả nhân cách hóa thành như ngồi trên chiếu êm.Cảnh vật nơi đây được Nguyễn Trãi phác họa với những đặc điểm riêng biệt mà nó không hề bị trộn lẫn với bất cứ một bức tranh phong thủy nào.

Nếu như bốn câu thơ đầu là cảnh thiên nhiên Côn Sơn được miêu tả khách quan thì ở bốn câu thơ sau tác giả lại khéo léo luồn vào những lời khuyên xuất thế.

  • “Trong ghềnh thông mọc như nêm
  • Tìm nơi bóng mát ta lên ta nằm
  • Trong rừng có trúc bóng dâm
  • Trong màu xanh mát ta ngâm thơ nhàn.”

Côn Sơn du dương cuốn hút lòng người.Thiên nhiên côn sơn khoáng đạt và thanh tĩnh ở đây có suối chảy rì rầm,có bàn đá rêu phơi,có rừng tùng,rừng trúc che ánh nắng mặt trời tạo ra một khung cảnh tao nhã cho thi sĩ ngồi ngâm thơ thưởng thức âm vị cuộc sống.hình ảnh cây trúc,cây tùng trong văn chương tượng trưng cho khí phách cứng cỏi của người quân tử: Bần tiện bất năng di,uy vũ bất năng khuất. Suối, đá, thông, trúc là nơi nương tựa, nâng đỡ tâm hồn, là đối tượng để thi nhân giao hòa, giao cảm để cho “ ta là đàn cầm”, “ ta là đệm chiếu”,…Hình tượng thơ là âm thanh của khúc nhạc rừng, là màu xanh bất tận của núi rừng, của thiên nhiên, của sự sống, tất cả đã gắn liền với cảm giác, với tâm hồn Ức Trai bằng bao liên tưởng thiết tha, đằm thắm. Chữ “ ta” được lặp lại nhiều lần trog bài thơ đã tạo nên âm điệu du dương, trầm bổng, thiết tha.Ta là chủ thể trữ tình, là Ức Trai tiên sinh. Thiên nhiên là ta, ta cũng là thiên nhiên, suối, đá, thông, trúc của Côn Sơn với Nguyễn Trãi cũng chỉ là một.

Bài ca Côn Sơn là một bài thơ nêu lên cảnh thiên nhiên vô cùng sâu sắc và rất đẹp của nhà thơ. Đồng thời thể hiện nên tấm lòng yêu thiên nhiên của của tác giả và thể hiện tâm hồn nhân văn của tác giả. Có thể nói “ Bài ca Côn Sơn” là bài ca của sự sống, sự sống được ướp đượm hương sắc của suối rừng đất nước quê hương.

Tính quy phạm là những quy định chặt chẽ trong những phạm vi giới hạn đã được định sẵn mà người sáng tác văn học buộc phải tuân theo trong quá trình sáng tác. Biểu hiện ở nhiều đặc điểm. Mục đích sáng tác là phải hướng tới việc giáo huấn đạo đức. Sáng tác có lúc để tiêu khiển, thù tạc nhưng mục đích chung của các vị thánh hiền là giáo hóa cuộc đời.Văn dĩ tải đạo, thơ dĩ ngôn trí, văn thơ sáng tác là để giáo huấn đạo đức, văn dùng để tải đạo, thơ dùng để bộc lộ ý trí, bày tỏ lòng mình. Ngôn ngữ sáng tác gồm chữ Hán và chữ Nôm nhưng chữ Hán được xem là chính thống.Tư duy nghệ thuật thì luôn cho rằng cái đẹp thuộc vào những khuôn mẫu định sẵn (xuân hạ thu đông, tùng trúc cúc mai, long li quy phượng, ngư tiều canh mục). Và thể loại chủ yếu là những thể loại văn học có kết cấu cố định, chặt chẽ về số câu, số chữ, niêm luật, đối (ví dụ thơ Đường luật, cáo, phú, văn tế). Còn hình ảnh trong thơ văn (văn liệu, thi liệu) là từ sử sách, rất lắm điển tích, điển cố hay có trong văn học Trung Hoa.(chẳng hạn mùa thu về thể hiện qua hình ảnh sen tàn, lá ngô đồng rụng, cúc nở hoa).
Bất quy phạm có nghĩa là không chịu gò mình, tự cởi trói khỏi khuôn khổ, những quy định ràng buộc trong quá trình sáng tác. Suốt 10 TK văn học trung đại cũng đã phá bỏ dần tính quy phạm, ước lệ để phát huy cá tính, sáng tạo nội dung và hình thức thể hiện. Các tác giả đã có nhiều tác phẩm viết bằng chữ Nôm rất thành công như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, Truyện Kiều của Nguyễn Du,...Bên cạnh đó còn đem vào trong sáng tác các thể thơ nội sinh như lục bát, hát nói, có sử dụng một số thể thơ Đường nhưng có ý thức đổi mới chẳng hạn thơ thất ngôn xen lục ngôn (Ao cạn vớt bèo cấy muống/Đìa thanh phát cỏ ương sen - Nguyễn Trãi) Các tác giả cũng đã đưa vào trong thơ văn những hình ảnh dân dã, bình dị, gắn liền với đời sống con người Việt Nam. Chẳng hạn rau muống, bèo, quả mít, cái quạt, con ốc nhồi...
Văn chương Trung đại Việt Nam có tính quy phạm là do nước ta giáp với Trung Quốc, một nền văn minh cổ của nhân loại. Hơn nữa Việt Nam còn phải chịu hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc. Phong kiến phương Bắc luôn có ý đồng hóa dân tộc Việt Nam nên người Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố Hán và văn hóa Hán. Và đến khi dân tộc ta giành được độc lập thì nước ta xây dựng nhà nước theo hình thái xã hội phong kiến, một xã hội của chữ lễ mà có thể coi quy phạm là một biểu hiện của chữ lễ đó. Tôn ti cao thấp là đặc trưng của xã hội phong kiến nên văn chương cũng có loại cao loại thấp. Tính chất cao quý từ quan niệm nguồn gốc, quan niệm sáng tác và sinh hoạt thơ văn xưa cũng đẻ ra tính quy phạm. Tuy vậy nhưng chúng ta một mặt tiếp thu những tinh hoa của văn học Trung Quốc nhưng mặt khác lại cũng không ngừng phát triển văn học của đất nước mình theo xu hướng dân chủ hóa, dân tộc hóa. Do vậy người Việt Nam đã cố gắng phá vỡ tính quy phạm.

b, Tính tranh nhã:

Văn học trung đại có đề tài hướng tới cái cao cả, trang trọng, hình tượng nghệ thuật hướng tới vẻ tao nhã, mĩ lệ với ngôn ngữ cao quý, diễn đạt trau chuốt, hoa mĩ. Dần dần, văn học Việt Nam cũng đã có những nỗ lực không nhỏ để tiếp cận với xu hướng bình dân, gần gũi với đời sống của con người Việt Nam.

c, Yếu tố Hán, văn hóa Hán:

Hơn 1000 năm phong kiến Bắc thuộc, chuyện văn chương Việt Nam chịu ảnh hưởng của văn hóa Hán là không thể tránh khỏi. Trong rất nhiếu năm, văn tự của nước ta là chữ Hán và đến tận khi chữ Nôm ra đời, văn tự Hán vẫn được coi là loại chữ chính thống trong một thời gian dài. Thể loại chủ yếu là các thể loại của văn học Trung Quốc, trong các tác phẩm có nhiều thi pháp cổ điển và hình ảnh trong văn học Trung Quốc. Tuy nhiên văn học Việt Nam cũng có ý thức để phá bỏ sự ảnh hưởng này bằng cách viết bằng chữ Nôm, sử dụng nhiều thể thơ dân tộc (như truyện thơ ngâm khúc hát nói, lục bát, song thất lục bát) và đưa vào trong thơ văn các hình ảnh đậm chất Việt

8 tháng 11 2019

Đế quốc Mông Cổ được Thành Cát Tư Hãn thành lập năm 1206 sau khi thống nhất các bộ lạc Turk-Mông Cổ và sau đó bành trướng sang đại lục Á-Âu, khởi đầu bằng việc xâm lược Tây Hạ ở phía bắc Trung Quốc và đế quốc Khwarezm (Hoa Thích Tử Mô) ở Ba Tư. Vào thời kỳ cực thịnh của nó, Hòa bình Mông Cổ (con đường tơ lụa thuộc đế quốc Mông Cổ) đã tạo điều kiện cho giao lưu văn hóa và mậu dịch giữa phương Đông và phương Tây trong thời kỳ thế kỷ 13 - thế kỷ 14.

Vào thời điểm Thành Cát Tư Hãn mất năm 1227, đế quốc này được chia cho 4 người con trai của ông với người con trai thứ 4 là đại hãn, và đến những năm 1350, các triều Hãn rạn nứt và đánh mất trật tự mà Thành Cát Tư Hãn đã mang lại. Cuối cùng, các triều Hãn xa rời nhau, trở thành các triều đại Ilkhanate ở Ba Tư, triều Chagatai ở Trung Á, triều Nhà Nguyên ở Trung Quốc, và Kim Trướng hãn quốc ở địa phận nước Nga ngày nay.

4,3-{-1,2}=????????????????? 

 C҈ó B҈áN҈ N҈I҈C҈K҈ L҈I҈êN҈ Q҈U҈âN҈ N҈H҈A҈: B҈ạC҈H҈ K҈I҈M҈ 5  

 T҈ướN҈G҈ 49                                    T҈R҈A҈N҈G҈P҈H҈U҈C҈ 59 ,,,,,,,,,,,50K҈ V҈I҈êE҈T҈T҈H҈E҈O҈

có bán nick ff , liên quân anh em ủng hộ nha .Ai mua nhắn tin nhé

=8/6-3/6=5/6

4 tháng 11 2019

lên mạng mà kiếm 

4 tháng 11 2019

Những nét độc đáo của Lý Thường Kiệt:

- Biết chủ động tiến công trước để tự vệ.

- Chọn vị trí thuận lợi để xây dựng phòng tuyến đánh giặc.

- Chớp thời cơ khi giặc lâm vào thế bị động để đánh trận quyết chiến.

- Kết thúc chiến tranh bằng biện pháp giảng hòa.

- Biết dùng thơ văn để khích lệ tinh thần quân sĩ.

4 tháng 11 2019
Nhanh đi xin mn mik k có nhìu tgh

Đền Taj Mahal. Đền Taj Mahal là biểu tượng du lịch nổi tiếng nhất của Ấn Độ mà bất kì khách du lịch nào đến đây cũng đến thăm. ...
Đền Mahabalipuram. ...
Lăng mộ Humayun. ...
Harmandir Sahib (Đền Vàng) ...
Đền Ranakpur. ...
Đền Sri Ranganathaswamy. ...
Đền Hoa Sen. ...
Cung điện Mysore.

đặc điểm:

Cội nguồn của linh cảm – quan niệm và hình thức của kiến trúc cổ đại ấn Độ

Stupa của Phật giáo: Sự tượng trưng của trung tâm và phương hướng

Các nhà nghiên cứu Ân Độ cho rằng chủ đề cơ bản của kiến trúc cổ đại Ân Độ chính là thể hiện trung tâm và điều này thấy rõ trong kiến trúc Phật giáo và Hindu giáo.
Stupa có nghĩa là tháp hay tháp để hài cốt cho các vị sư, cũng có nghĩa là phần mộ chôn cất xá lị.
Đầu tiên, theo truyền thuyết, sau khi Đức Phật Thích Ca Mầu Ni về cõi Niết bàn, xá lị của người được phân chia về cho tám nước tồn giữ và cúng bái. Mọi người sùng bái Stupa vì nó tượng trưng cho sự hoá thân của Đức Phật và thể hiện trung tâm vũ trụ của Phật pháp vô biên.
Nổi tiếng nhất là Stupa ở Sanchi (toà tháp 1), được xây dựng năm 250 trước Công nguyên Vương triều Asoka, sau đó được Vương triều Sunga và Andiara mở rộng, có đường kính 36,6 mét, có hàng rào bao quanh và có 4 cửa ra vào được điêu khắc rất tinh xảo. Hình thức chính của Stupa là một khối nửa tròn (Anda), đật trên một khối bệ móng (Medhi), trên đỉnh bệ tròn đật một khối vuông rỗng (Harmika) là nơi cất giữ thánh cốt và trên cùng là một cái ô 3 tầng.
Hình ảnh tượng trưng “trung tâm” của Stupa không bao giờ thay đổi, mặc dầu ở các địa phương của Ân Độ và các nước lân bang khi xây Stupa người ta có thể thay đổi hình thức. Về phương hướng đi vòng quanh, cũng được thể hiện trong nghi thức Phật giáo, các tín đồ chuyển động từ Đông sang Tây đưa theo quỹ đạo của mặt trời, thể hiện sự sùng bái mặt trời.

Đền thờ của Hindu giáo: sự tượng trưng của trung tâm và phương hướng
Đền thờ Hindu xuất hiện muộn hơn kiến trúc Phật giáo, do thời kỳ đầu nội dung chính của tôn giáo này là sát sinh tế lễ, làm các đàn tế là chính, thứ hai là các đoàn thể tôn giáo Hindu thành lập muộn, đến thế kỷ thứ IX mới xuất hiện.
Đặc điểm quan trọng của hình thức mái là giống như đỉnh núi Meru, dù là dạng Nagara ở phía Bắc hay dạng Doravida ở phía Nam. Núi Meru là nơi ở của thần quyền Hindu giáo, được coi là trung tâm của vũ trụ, vì thế việc biểu hiện trung tâm là chủ đề quan trọng nhất của đền thờ Hindu giáo.
Phần ngoài của các ngôi đền hình đỉnh núi được trang trí rất phức tạp, đa phần thể hiện tinh thần ham muốn nhục dục, điều đó phụ thuộc vào tâm lí hảo phồn của người Ân Độ. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng sự nhấn mạnh tính biểu trưng của núi Meru mới là quan trọng nhất.
Hình thức mái (tường ngoài) của đền thường dật khấc đê chứa đựng được nhieu hình điêu khắc hơn, hình thức gấp khúc này gọi là Ratha.
Trong khi đó, mái đền (Sikhara) thì được thu dần về phía trên, tạo cảm giác động thái mãnh liệt đề nhấn mạnh ngôi đền mang ý nghĩa tượng trưng là trung tâm vũ trụ. Y nghĩa tượng trưng này sau này còn được gắn vào một dạng tháp công lớn có tên là Gopura cua các ngôi đền Nam Ân.
Ví dụ tiêu biểu cho sự biểu tượng trung tâm của đền đài An Độ là ngôi đền Kandariya Mahadeva ở Khajuraho. Ngôi đền này có hình thức mái vươn mạnh mẽ và kết thúc bằng một phần đỉnh gọi là bảo tháp.
Chủ đề trung tâm không chỉ thể hiện ở ngoại thất mà còn thể hiện ớ nội thất. Các mật thất nhỏ để cúng các vị thần luôn chiếm vị trí quan trọng. Các phòng này có tên là Garbhagriha, trong đó thường đặt Linga, được xem là trung tâm nãng lượng của vũ trụ.
Tính phương hướng của đền thờ Hindu giáo có hai cách thể hiện: cách thứ nhất là biểu hiện ở bố trí cửa đền ở hướng Đông, cách thứ hai là phần bên trong các Garbhagriha bao giờ cũng có một vòng hành lang dành cho “nghi thức xoay phải”, phụ thuộc vào cách di chuyển thuận theo chiểu kim đồng hồ.
Mandala là một hình thức hình học trong đền thờ Ấn Độ giáo liên quan nhiều đến các yêu tô trung tâm và phương hướng. Các đền thờ Hindu khi xây dựng đền tuân thủ nghiêm ngặt cấu trúc của Mandala. Các Garbhagriha đều đặt ỏ trung tâm của Mandala.
Mandala là một sự quy cách hoá và bình diện hoá đỉnh núi Meru trên mặt phẳng đó chính là vũ trụ trên mặt bằng.

Kiến trúc tạc đá: quan niệm chính và phụ, ám và dương
Kiến trúc “tạc đá” trong kiến trúc Ấn Độ có hai loại chính là “kiến trúc động đá” (Kiến trúc đục ngầm trong đá) và “kiến trúc đá tảng”.
Kiên trúc động đá là kiên trúc nằm trẽn vách đá hoặc đục vào hang đá, đó là Chaitya (nơi làm nghi thức tôn giáo) và Vihara (tu viện).
Những Chaitya nổi tiếng nhất là các khu vực kiến trúc động đá tần lượt hình thành trong lịch sử như ở khu Bajaj, khu Karli và khu Ajanta và khu Ellora.
“Kiến trúc đá tảng” là kiến trúc tạo thành từ việc tạo khắc các khối đá khổng lổ, kiến trúc đá tảng thường chỉ có không gian bén ngoài, không có không gian bên trong hoặc chỉ có một phần rất ít. Ví dụ tiêu biểu là Stupa toàn bộ bằng đá khối ở Bharhut và đền thờ “Chiến xa” ở Mamallapuram. Một tác phẩm kiến trúc tạc đá nổi tiếng khác là đền thớ số 16 Kailasa Shiva thuộc quần thể động đá Ellora (756 – 773 sau Công nguyên), cách thi công đển thờ này là đầu tiên người ta tạc phần ngoài của tảng đá lớn trên một vách núi, sau đó mới tạc phần không gian bên trong của nó.
về quan niệm, kiến trúc động đá và kiến trúc đá tảng là bộc lộ hình thức kiến trúc “chính – phụ”. Kiến trúc động đá bộc lộ quan niệm “phụ” (âm) vào không gian kiến trúc còn kiến trúc đá tảng bộc lộ quan niệm “chính” (dương) vào thực thể kiến trúc.

Hồ, giếng nước: hình ảnh tượng trưng của nước và bậc cấp
Nước có ý nghĩa quan trọng đối với một đất nước có khí hậu nóng nực và oi bức. Tám quan trọng của nước đã ãn sâu vào tư tưởng cũng như tôn giáo Ấn Độ. Ý nghĩa của nước chính là nguồn gốc của sinh mệnh. Giếng nước, do đó chiếm vị trí quan trọng trong làng quê Ân Độ, giếng nước có ở đền thờ đạo Hindu, đạo Hồi, cung điện hay pháo đài, thành quách. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nói đến vãn hoá Ân Độ mà không nói đến giếng nước hay hồ nước là một thiếu sót thực sự.
Bậc cấp cũng là một yếu tố quan trọng khác của văn hoá kiến trúc Ân Độ. Đó là một loại hình kiến trúc lộ thiên rất gắn bó với đời sống của người An Độ, họ thường ngồi nghỉ hoặc ngủ trên loại hình kiến trúc lộ thiên này. Bậc cấp tại bên phà sông Hằng ở Varanaxi là một ví dụ, ớ đó người ta tắm rửa, trừ tà, nghỉ ngơi, giao lưu, hoá táng, tóm lại, đó là một nơi giao tiếp công cộng quan trọng.
Ở Ấn Độ, các yếu tố gắn bó với tập quán sống và môi trường sống đều được coi trọng, mang tính chất đa nâng và đổng nhất với văn hoá. Yếu tố nước như vậy đã tạo thành tính cách của văn hoá kiến trúc An Độ.

Kiến trúc Muslim Ân Độ: phong cách chuyển đôi và dung hợp
Nghiên cứu Ấn Độ thường xét 2 yếu tố Arian và Muslim, yếu tố thứ nhất được xem là sâu sắc và mơ hồ, yếu tố thứ hai được xem là rõ ràng và hiển hiện.
Người Muslim thống trị Ân Độ từ năm 1193 đến thế kỷ XVIII đã tạo ra sự biên đôi quan trọng nhất trong văn hoá Ân Độ.
Người Muslim mang đến Ba Tư và Trung Á nền văn hoá Islam, nhưng họ luôn luôn biết dung hợp với văn hoá bản địa. Các nhà vua Muslim đã biết sử dụng nhân công và vật liệu địa phương.
Ngôi đền thờ Hồi giáo “Sức mạnh của Islam” đầu tiên do vị hoàng đế Hồi giáo đầu tiên xây dựng ở Delhi, trên di chỉ một đền thờ Hindu và sử dụng lại vật liệu của 27 đền thờ Hindu giáo và Jaina giáo.
Ngọn tháp Qutb Minar cao 72,7 mét trong ngôi đền trên cũng là một công trình kiến trúc kết hợp giữa phong cách Ấn Độ và phong cách Ba Tư.
Các vương triều Mughul đã xây dựng rất nhiều đền thờ Hồi giáo, lăng mộ, pháo đài và cung điện nổi tiếng như Humayun và pháo đài Fatehpur Sikrri hay lăng Taj Mahal ở Agra. Đó là những sản phẩm kết hợp phong cách Ba Tư với phong cách Hindu giáo Phật giáo và Jaina giáo. Ví dụ mái vòm của lăng Taj Malhal mang phong cách Ấn Độ còn các công vòm lõm sâu vào trong của toà lăng này lại mang phong cách Ba Tư.
Tính không đối xứng của một số quần thể cung điện, pháo đài cũng tạo nên sự dễ thích ứng với cảnh của kiến trúc. Điểu đó chứng tỏ “tính chất mở” của kiến trúc Hồi giáo Ấn Độ.

Ý nghĩa hiện thực của kiến trúc truyền thống Ân Độ
Kiến trúc truyền thống An Độ đã để lại nhiều bài học lớn, nhất là cho các KTS đương đại An Độ.
Charles Correa, KTS đương đại sô một của Ấn Độ nói: “Chúng ta cần phải nghiên cứu quá khứ, vì trong nó có lắng đọng sự tích luỹ qua nhiều thế kỷ của loài người nhưng mục đích nghiên cícu không phải chỉ đơn giản là nhằm nhấn mạnh một giá trị đã tồn tại nào đó, mà chúng ta cần phải biết tại sao nó phải thay đổi để từ đó tìm ra cánh cửa cho việc định hướng mới”. Ý nghĩa của câu nói trên, đúng như tinh thần của trường phái. Yếu tố luận phương Tây hiện đại: “Hãy đập vụn các yếu tố ra và bố cục lại”.
Có nhiều vấn đề đặt ra cho thấy nền kiến trúc cổ đại Ấn Độ có thể tạo tiền để cho việc tìm ra một cái cầu nối giữa quá khứ, hiện tại và tương lai, chẳng hạn như vấn đề cộng sinh đa nguyên và vấn đề hình học trong kiến trúc.
Các KTS Ấn Độ đã phát huy các di sản một cách sáng tạo, họ nghiền ngẫm nhưng không sao chép nguyên xi, hình ảnh của một số kiến trúc cũ vẫn được gợi lên nhưng trong một hình thức hoàn tỡân mới mẻ. Hình ảnh ấy hiển hiện trong một số kiệt tác kiến trúc đương đại Ân Độ như: Galery nghệ thuật Husain Gafa ớ Ahmedabad, 1995 (KTS B. V. Doshi), gợi hình ảnh của Stupa và các thạch động; Học viện Quốc gia Công nghệ Thời trang ở New Dehli, 1991 (KTS B. V. Doshi), gợi hình ảnh các hồ nước truyền thống và Toà nhà Quốc hội Vidhan Bhavan, bang Bhopal, 1996 (KTS. Charles Correa), áp dụng lí luận thống nhất và cộng sinh đa nguyên.
Việc ứng dụng quan niệm trung tâm và phương hướng, việc gợi lại những triết lí về nước trong đời sống Ấn Độ, việc gợi lại sơ đồ hình học Mandala không chỉ thấy trong nhiều tác phẩm kiến trúc mà còn thấy trong các mặt bằng đô thị.
Để kết luận bài này, chúng tôi muốn mượn câu nói của c. Marx (trích trong thư Marx gửi Engel) đê nói lên mối liên hệ giữa truyền thống và hiện đại: “chúng ta không muốn dự liệu trong tương lai một cách giáo điều, mà chỉ muốn thông qua việc phê phán thế giới cũ phát hiện thế giới mới”.