K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

 đề bài : lập giàn ý cho bài văn trên Ở những vùng quê nông thôn, cánh đồng lúa là cảnh vật vô cùng thân thuộc, gắn bó với đời sống cũng như nhu cầu của họ. Cánh đồng lúa quê em đang đến mùa thu hoạch, từng bông lúa ngả màu vàng. Em rất thích ngắm cánh đồng lúa chín vào buổi sáng mai. Sáng sớm ở quê em rất thanh bình và dịu êm, khi mọi người thức dậy, tiếng gà cất tiếng gáy vang...
Đọc tiếp

 đề bài : lập giàn ý cho bài văn trên 

Ở những vùng quê nông thôn, cánh đồng lúa là cảnh vật vô cùng thân thuộc, gắn bó với đời sống cũng như nhu cầu của họ. Cánh đồng lúa quê em đang đến mùa thu hoạch, từng bông lúa ngả màu vàng. Em rất thích ngắm cánh đồng lúa chín vào buổi sáng mai. Sáng sớm ở quê em rất thanh bình và dịu êm, khi mọi người thức dậy, tiếng gà cất tiếng gáy vang xa đến xóm bên cạnh. Bình minh thức dậy sau một giấc ngủ dài. Buổi sáng, cánh đồng lúa còn cúi xuống, nặng trĩu từng bông, lá cũng đã chuyển sang màu vàng nhạt. Khi ánh mặt trời lên cao, cả cánh đồng sẽ khoác một tấm áo màu vàng rực rỡ, trải dài đến muôn nơi. Bình minh, những giọt sương mỏng manh còn e ấp đọng lại trên những lá lúa sắc nhọn. Lúc ánh mặt trời bắt đầu le lói thì những hại tròn bé tý ấy ánh lên màu vàng dịu nhẹ, hắt xuống mặt đường. Khoảnh khắc ấy thật tuyệt đẹp. Từng bông lúa nặng trĩu hạt lúc bình minh hé đã bắt đầu gượng thức dậy, đung đưa khi có làn gió mát lành thổi qua. Vì sáng mai nên nắng còn nhẹ, màu vàng của lúa chưa chói chang. Cánh đồng lúa lúc ấy nhìn như một bức tranh chỉ được tô đậm bằng màu vàng, là thứ vàng hanh dịu nhẹ. Thân lúa khi chín trở nên mềm hơn, đỡ cứng cáp hơn khi thì con gái nhưng rất dẻo dai. Vì dẻo dai nó mới có thể chứa được sức nặng của bông lúa khi trĩu xuống. Người dân trong xóm em khi mùa lúa chín thường thức dậy rất sớm để ra đồng đi gặt. Nhiều bác nông dân dắt trâu ra đồng, buộc dây vào chiếc xe kéo và bắt đầu xuống gặt. Tiếng gặt lúa nghe sột soạt, phá tan đi sự yên lặng của sáng sớm. Những chú trâu màu đen dường như điểm xuyết trên nền vàng của cánh đồng lúa, khiến cho bức tranhquê hương thêm sinh động hơn. Cánh đồng lúa quê em buổi sáng mai thật đẹp, một vẻ đẹp bình dị, mộc mạc nhưng ý nghĩa. Em rất thích ngắm cánh đồng lúa chín buổi sáng mai như thế này.

4
15 tháng 9 2021

Dàn ý bài văn tả cách đồng lúa quê em

I. Mở bài

Giới thiệu cảnh định tả: Đó là một vùng trung du, đồi núi nối đuôi nhau, có một dải đất chạy dài dưới hai chân đồi tạo thành một cánh đồng nhỏ hẹp. Cánh đồng nhỏ hẹp ấy như một dải lụa xanh chạy dài từ quốc lộ Một đến tận các chân đồi. Ngắm cánh đồng vào buổi sáng thật là đẹp.

II. Thân bài

  • Khi bình minh xuất hiện, cánh đồng được bao phủ bởi một lớp sương mù dày đặc.
  • Khi mặt trời lên cao, sương tan dần, cánh đồng hiện lên, màu xanh của lúa đang thì con gái che kín cả mặt ruộng, đẹp như một tấm thảm xanh.
  • Gió xuân từ trên đồi cao tràn về thung lũng tạo nên những đợt sóng lúa đuổi nhau vội vàng.
  • Đây đó, xuất hiện bóng người ra thăm ruộng lúc ẩn lúc hiện, làm cho những chú chim bắt sâu lúa giật mình bay vọt lên cao.
  • Dọc các chân đồi người ta xẻ ruộng thành những bậc thang để trồng bắp cải, su hào...
  • Xuyên qua giữa cánh đồng là tỉnh lộ nối từ quốc lộ.
  • Một đến thị trấn Kim Tân trung tâm của huyện, những chiếc xe bò đang chở phân ra đồng bón thúc cho lúa.
  • Dải lụa xanh ấy quanh năm vụ nối vụ, mùa nối mùa. Hết lúa lại khoai, ngô, sắn, rau màu... Cánh đồng luôn được nhuộm mới những sắc màu của cuộc sống.

III. Kết bài

Nắng đã lên cao mà em vẫn tần ngần ngắm mãi dải lụa xanh này không biết chán. Màu xanh hôm nay, màu xanh của niềm tin hy vọng, chắc chắn sẽ báo hiệu một mùa gặt bội thu.

Tỉ lệ đúng=tỉ lệ sai(=50%)

15 tháng 9 2021

.

    (Sáng nay em thức giấc sớm hơn thường nhật bởi những âm thanh rộn rã của thôn quê đang vào mùa gặt. Cả cánh đồng vàng xuộm cũng bừng tỉnh dưới những tia nắng đầu tiên của ngày hè oi ả với cái mùi ẩm ẩm, nồng nồng, dằm dặm mà có lẽ lũ bạn nội thành của em chẳng bao giờ cảm nhận được)

    2. Thân bài:

    a. Tả bao quát

    - Cánh đồng lúa từ xa xa như thế nào (tấm thảm khổng lồ), có điểm gì nổi bật khác với thường ngày? (rộn rã, đông vui, sắc màu, trù phú)

    b. Tả chi tiết

    - Từng cây lúa uốn cong trĩu hạt vàng

    - Hương thơm thoang thoảng trong gió nhè nhẹ

    - Mới đây cánh đồng còn phủ một màu xanh mà bây giờ đã thành màu vàng rực rỡ

    c. Quang cảnh ngày mùa

    - Mọi người đều tấp nập ra đồng thu hoạch lúa

    - Những chiếc máy gặt ăn lúa rào rào, mọi người trò chuyện bàn tán về năng suất lúa rôm rả, vui vẻ

    - Cánh đồng là thành quả lao động mệt nhọc của người nông dân

    - Những chú chim sẻ tinh nghịch thỉnh thoảng lại sà xuống nhặt những hạt thóc rơi vãi

    3. Kết bài:

    - Nhận xét của em trước vẻ đẹp của cánh đồng lúa vào mùa gặt

    - Tình cảm của em đối với cánh đồng và quê hương như thế nào?

    - Em có suy nghĩ gì về công sức của người nông dân khi làm ra hạt gạo?

    Ảnh minh họa (Nguồn internet)

    Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:          Cái ấn tượng khắc sâu mãi mãi trong lòng một con người về cái ngày "hôm nay tôi đi học" ấy, mẹ muốn nhẹ nhàng, cẩn thận và tự nhiên ghi vào lòng con. Để rồi bất cứ một ngày nào đó trong đời, khi nhớ lại, lòng con lại rạo rực những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Ngày mẹ còn nhỏ, mùa hè nhà trường đóng cửa hoàn toàn,...
    Đọc tiếp

    Đọc đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi bên dưới:

              Cái ấn tượng khắc sâu mãi mãi trong lòng một con người về cái ngày "hôm nay tôi đi học" ấy, mẹ muốn nhẹ nhàng, cẩn thận và tự nhiên ghi vào lòng con. Để rồi bất cứ một ngày nào đó trong đời, khi nhớ lại, lòng con lại rạo rực những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến. Ngày mẹ còn nhỏ, mùa hè nhà trường đóng cửa hoàn toàn, và ngày khai trường đúng là ngày đầu tiên học trò lớp Một đến trường gặp thầy mới, bạn mới... Mẹ còn nhớ sự nôn nao, hồi hộp khi cùng bà ngoại đi tới gần ngôi trường và nỗi chơi vơi hốt hoảng khi cổng trường đóng lại, bà ngoại đứng ngoài cánh cổng như đứng bên ngoài cái thế giới mà mẹ vừa bước vào...

    Đêm nay mẹ không ngủ được. Ngày mai là ngày khai trường lớp Một của con. Mẹ sẽ đưa con đến trường, cầm tay con dắt qua cánh cổng, rồi buông tay mà nói: "Đi đi con, hãy can đảm lên, thế giới này là của con, bước qua cánh cổng trường là một thế giới kì diệu sẽ mở ra".

                                                                                    (Ngữ văn 7- tập 1)

    Câu 1Đoạn trích trên được trích từ văn bản nào? Xác định thể loại của văn bản dó.

    Câu 2Tìm hai từ láy có trong đoạn trích và xác định kiểu.

    Câu 3Tìm từ đồng nghĩa với từ “học trò” trong ngữ liệu.

    Câu 4: Trình bày giá trị nội dung, nghệ thuật của văn bản em vừa tìm được.

    Câu 5Từ hoài niệm của người mẹ về tuổi thơ, từ sự lo lắng của mẹ dành cho con trong buổi tựu trường, em thấy người mẹ là người như thế nào?

    Câu 6Hãy nhớ và viết lại cảm xúc ngày đầu tiên đến trường của em bằng một đoạn văn

    3
    14 tháng 9 2021
    1. Trích văn bản "Cổng trường mở ea" của Lý Lan. (Fact: Lý Lan là một dịch giả chắc tay, từng dịch bộ truyện Harry Potter nổi như cồn) Thể loại: Tự sự. Câu 2,nhẹ nhàng- láy âm đầu. Bâng khuâng- láy vần. Câu 3, Ừm, có vẻ mình không tìm được từ đồng nghĩa nào nhỉ? Câu 4, Nội dung: Những thao thức của người mẹ trước ngày hội toàn dân đưa trẻ đến trường đã thể hiên mối quan tâm và tình yêu sâu sắc của người làm mẹ với con cái. Nghệ thuật độc thoại nội tâm xuất sắc, góp phần tăng tính biểu cảm cho đoạn văn, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc những cảm tình trong từng câu chữ. Câu 5, Mẹ là một người hiểu biết: biết được tầm quan trọng của giáo dục đối với trẻ em, hiểu được sự hồi hộp của con trẻ ngày đầu tiên đến trường, lần đầu trong đời "rời khỏi vòng tay mẹ đến với thế giới lớn". Mẹ là một người phụ nữ thấu hiểu, dịu hiền, chu đáo và đáng kính. Câu 6, Thực sự ký ức về ngày đầu tiên đi học của mình mờ nhạt lắm, chỉ nhớ đến những sự bắt nạt vô lý mà mình phải trải qua khi đến trường thôi =)) tất nhiên khi hồi tưởng lại, con người có xu hướng nghĩ đến những điều đau thương hơn là những kỷ niệm đẹp, nhưng mình không phủ nhận những niềm vui, lợi ích của việc học mang lại cho mình. Con người học cả đời. Và được học là một điều hạnh phúc
    14 tháng 9 2021
    Bạn tên gì
    Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người, là nơi che chở, bảo vệ ta từ thuở lọt lòng. Gia đình- chỉ một từ giảng đơn thế thôi nhưng chứa đựng biết bao nhiêu là tình yêu thương, biết bao sự ăm áp. Gia đình chính là nơi nâng niu, chăm sóc, dưỡng dục ta. Tình cảm gia đình là những tia nắng diệu kì của cuộc sống- một ngọn lửa để sưởi ấm cho trái tim mỗi con người. tình yêu thương...
    Đọc tiếp

    Gia đình là cái nôi nuôi dưỡng con người, là nơi che chở, bảo vệ ta từ thuở lọt lòng. Gia đình- chỉ một từ giảng đơn thế thôi nhưng chứa đựng biết bao nhiêu là tình yêu thương, biết bao sự ăm áp. Gia đình chính là nơi nâng niu, chăm sóc, dưỡng dục ta. Tình cảm gia đình là những tia nắng diệu kì của cuộc sống- một ngọn lửa để sưởi ấm cho trái tim mỗi con người. tình yêu thương mà gia đình dành cho ta chính là "sợi dây" tình cảm thiêng liêng nhất. Gia đình là nơi vung đắp những tâm hồn. Ai có mội gia đình trọn vẹn thì hãy giữ chặt lấy nó. Vì những thứ đã mất không thể tìm lại, những thứ gì trôi qua chúng ta sẽ cảm thấy tiếc vì chưa làm đc gì cho gia đình thêm hạnh phúc. Vì vậy hãy chung tay bảo vệ hạnh phúc thiêng liêng ấy.

    hãy chỉ ra 1 số nội dung hình thức ở bài văn trên

    nhanh giúp mình nha

    0
    14 tháng 9 2021

    Trả lời :

    a) Văn bản “Mẹ tôi” của A-mi-xi.

    • Đầu tiên là lời giới thiệu của nhân vật “tôi” nói rõ lí do vì sao bố viết thư cho mình.
    • Phần tiếp theo là nội dung của bức thư, gồm có những phần sau:
      • Người cha nhắc đến lỗi của đứa con và nỗi buồn của bố trước thái độ hỗn láo của En-ri-cô đối với mẹ.
      • Người bố khéo léo nhắc lại những ngày tháng mẹ lo lắng, chăm sóc cho En-ri-cô. Nói về sự hi sinh và vai trò to lớn của người mẹ để đứa con cảm nhận sâu sắc hơn lỗi lầm của mình
      • Bố giả định ngày mẹ mất và sự vô ích của nỗi hối hận muộn màng.
      • Bài văn kết thúc bằng những lời nói rất kiên quyết của người cha khi căn dặn và nhắc nhở đứa con mình.

    b. (1) Lão nông dân và các con

    • Chủ đề của văn bản là: “Lao động là vàng”, nói về sức lao động của con người. Chủ đề đó được thể hiện qua các câu, đoạn thơ thế hiện theo một trình tự hợp lí, lôgíc, giúp cho chủ đề của văn bản được liên tục và thông suốt, thể hiện như sau:
      • Hai câu đầu: Giới thiệu chủ đề của câu chuyện, giá trị của lao động
      • Mười câu tiếp: Lời căn dặn của người cha.
      • Phần còn lại: Con làm theo lời cha dạy nên đã có kết quả tốt đẹp

    (2) Đoạn văn của nhà văn Tô Hoài

    • Chủ đề xuyên thấm toàn đoạn văn là sắc vàng trù phú, đầm ấm giữa ngày mùa của làng quê trong mùa đông. Các câu trong đoạn văn được trình bày hợp lí, thống nhất, ý chủ đạo làm cho mạch văn liên tục thông suốt và hấp dẫn người đọc.
    • Điều đó thế hiện rõ:
      • Câu đầu giới thiệu bao khái quát sắc vàng, giữa thời gian “mùa đông” và trong không gian “làng quê”.
      • 12 câu tiếp theo những biểu hiện phong phú của sắc vàng: màu trời vàng, lúa vàng, quả chín vàng, lá vàng, rơm vàng, mái nhà vàng, con gà con chó “cũng vàng mượt”, một “dòng chảy của sắc vàng” bao trùm lên cảnh vật.
      • Hai câu cuối nhận xét và cảm xúc về sắc vàng đó.
      • ~ HT ~
    14 tháng 9 2021
    Ồ,có thể là điệp từ "Mưa" và điệp cấu trúc câu "Mưa đi!", "Mưa cho..". Tác dụng tăng nhạc tính cho thơ và thể hiển khát vọng mãnh liệt của nhà thơ: muốn trời làm mưa
    14 tháng 9 2021

    Điệp ngữ vừa để nhấn mạnh ý vừa tạo cho câu văn, câu thơ, đoạn văn, đoạn thơ giàu

    âm điệu, giọng văn trở nên tha thiết, nhịp nhàng hoặc hào hùng mạnh mẽ.

    14 tháng 9 2021

    Nội dung của câu đó cơ

    14 tháng 9 2021

    “Nam quốc sơn hà” là bài thơ nổi tiếng nhất trong lịch sử Việt Nam, và được coi là bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên khẳng định chủ quyền của người Việt trên lãnh thổ của mình. Tuy nhiên, với ít nhất là 35 dị bản sách và 8 dị bản thần tích, nguồn gốc của “Nam quốc sơn hà” vẫn còn là một dấu hỏi…


    Một số tài liệu cho rằng “Nam quốc sơn hà” là tác phẩm của Lý Thường Kiệt viết ra để khích lệ tinh thần quân sĩ Đại Việt trong cuộc chiến chống lại quân Tống lần hai. (Tranh qua hungsuviet.us)
    “Nam quốc sơn hà” là một bài thơ thất ngôn tứ tuyệt bằng chữ Hán, chưa rõ nguồn gốc tác giả, nhưng được một số tài liệu cho là tác phẩm của Lý Thường Kiệt. Theo đó, trong cuộc chiến chống lại quân Tống lần thứ hai (1075-1077), Lý Thường Kiệt đã sai người tâm phúc đọc vang bài thơ trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát thuộc địa phận sông Như Nguyệt, Yên Phong, Bắc Ninh, để khích lệ tinh thần quân sĩ Đại Việt.


    Nam quốc sơn hà
    Bài thơ “Nam quốc sơn hà” vốn không có tên. Tựa đề của nó xuất hiện trong “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam” tập 2 (NXB Văn học, 1976), lấy từ bốn chữ đầu trong câu thơ đầu tiên của bài thơ. Bài thơ này có nhiều dị bản khác nhau, bản chữ Hán trong Đại Việt sử ký toàn thư có chép:

    南國山河南帝居,
    截然分定在天書。
    如何逆虜來侵犯,
    汝等行看取敗虚。

    Phiên âm Hán Việt:

    Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
    Tiệt nhiên phận định tại thiên thư.
    Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
    Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.


    Bản khắc gỗ và bản dập bài “Nam quốc sơn hà” trong Mộc bản triều Nguyễn tại khu trưng bày ngoài trời Trung tâm Lưu trữ Quốc gia IV – Đà Lạt. (Ảnh qua Wikipedia)
    Trước đây, sách giáo khoa từng sử dụng bản dịch của học giả Trần Trọng Kim, có âm điệu hào hùng và dễ nhớ:

    Sông núi nước Nam vua Nam ở,
    Rành rành định phận tại sách trời.
    Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
    Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.

    Sau này, sách giáo khoa không sử dụng bản dịch trên nữa, mà sử dụng bản dịch của Lê Thước và Nam Trân (Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 7, tập 1, 2015):

    Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
    Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
    Giặc dữ cớ sao phạm đến đây,
    Chúng mày nhất định phải tan vỡ.

    Tuy nhiên sách giáo khoa lại không dùng nguyên văn bản dịch này, mà sửa đoạn đầu “Núi sông Nam Việt vua Nam ở” thành “Sông núi nước Nam vua Nam ở”. Bản dịch mới này đã từng gây ra rất nhiều tranh luận vì không truyền tải được âm hưởng và khí phách của “Nam quốc sơn hà”.

    “Nam quốc sơn hà” có từ bao giờ?
    Trong Lĩnh Nam chích quái, phần “Truyện hai vị thần ở Long Nhãn, Như Nguyệt” có ghi chép rằng:

    Năm Thiên Phúc nguyên niên hiệu vua Lê Đại Hành, vua Tống Thái Tổ sai Hầu Nhân Bảo, Tôn Toàn Hưng đem quân sang đánh Đại Cồ Việt. Hai bên đối lũy cùng cầm cự với nhau ở sông Đồ Lỗ. Vua Lê Đại Hành nằm ngủ thấy hai vị Thần hiện về báo mộng. Hai vị Thần nói với vua, đại ý như sau: “Anh em thần tên là Trương Hống, Trương Hát, là tướng của Triệu Việt Vương (Triệu Quang Phục). Anh em thần vì nghĩa mà chết nên được phong làm tướng trong các thần linh, thống lĩnh quỷ binh. Nay quân Tống xâm phạm nước ta, anh em thần đến yết kiến, cùng giúp vua đánh giặc để cứu dân chúng.”

    Vua Lê Đại Hành tỉnh dậy liền đốt hương khấn cầu thần giúp. Đêm ấy thấy một người dẫn đoàn âm binh áo trắng và một người dẫn đoàn âm binh áo đỏ từ phía Bắc sông Như Nguyệt mà lại cùng xông vào trại quân Tống mà đánh. Quân Tống kinh hoàng, lúc này bỗng có tiếng thơ ngâm lớn rằng:

    Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
    Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư.
    Như hà Bắc Lỗ lai xâm lược,
    Bạch nhận phiên thành phá trúc dư.

    Dịch là:

    Sông núi nước nam, vua nam ở,
    Sách Trời định phận rõ non sông.
    Cớ sao giặc bắc sang xâm phạm,
    Bây hãy chờ gươm chém bại vong.

    Quân Tống nghe thấy, xéo đạp lên nhau chạy tan, đại bại mà về. Vua Lê Đại Hành trở về ăn mừng, truy phong cho hai vị Thần nhân, một là Tinh Mẫn Đại Vương lập miếu thờ tại ngã ba sông Long Nhãn; hai là Khước Mẫn Đại vương, lập miếu ở ngã ba sông Nguyệt.


    Trước Lý Thường Kiệt, vua Lê Đại Hành cũng nổi danh với cuộc chiến chống quân Tống lần thứ nhất cùng các chính sách cứng rắn trước Tống và Chiêm. (Ảnh qua baonga.com)
    Vậy Trương Hống, Trương Hát là ai? Theo “Việt điện u linh” ghi chép lại thì anh em Trương Hống, Trương Hát là tướng của Triệu Việt Vương tức Triệu Quang Phục. Khi Triệu Việt Vương bị Lý Phật Tử cướp ngôi, dù được mời nhưng hai anh em không muốn làm quan cho Lý Phật Tử, mà về ở ẩn ở núi Phù Long. Lý Phật Tử cho người lùng bắt, hai anh uống thuộc độc, thà chết vẫn trung thành với Triệu Việt Vương.

    Hai bộ sử khác nữa từ thế kỷ 16, 17 là “Việt sử diễn âm” và “Thiên nam ngữ lục” cũng cho rằng bài thơ trên có từ cuộc chiến chống quân Tống năm 981.

    “Việt sử diễn âm” có ghi chép rằng:

    Tháng bảy có Tống binh sang
    Toàn những tướng mạnh binh cường ba muôn
    Đến thành Phù Lỗ đóng vây
    Quân ta quân nó đôi bên ngất trời
    Chưa phân thắng phụ về ai
    Ngày rằm tháng chạp vua nằm chiêm bao
    Thấy đôi thần nhân bãi nào
    Trương Hống Trương Hát bước vào quỳ thưa
    Chúng tôi thần đế lòng xưa
    Phụng thờ nhà chúa bấy chừ chẳng sai
    Tiên Hoàng có sắc chỉ bày
    Đòi về phong chức cho tôi tước quyền
    Trung thần bất sự nhị quân
    Chúng tôi tự vẫn làm thần đạo ngay
    Thượng đế thấy bộ thương thay
    Phong chúng tôi rày Quỉ bộ thần quân
    Đại Hành thức dậy mừng thay
    Giết trâu liền có minh tài tế khao
    Đêm sau vua lại chiêm bao
    Thấy mặc áo mới liền vào tạ ơn
    Có một người đứng án tiền
    Lĩnh được trăm áo vàn vàn quỷ binh
    Lấy ra chưng đất Nam Bình
    Đại Hành sực thức gẫm tình mới hay
    Nửa đêm thấy một cơn mây
    Bạo phong hắc ám gió bay vội vàng
    Tống binh mất vía trở dường
    Chúng quỷ đánh gãy đao thương liền cờ
    Bỗng nghe mảng tiếng không hư
    Thần nhân hiện xuống có thơ ngâm rằng

    Thi vân:

    Nam quốc sơn hà Nam đế cư
    Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
    Như hà Bắc lỗ cảm xâm phạm
    Hội kiến phong trần tận tảo trừ

    Còn trong “Thiên nam ngữ lục” thì ghi chép rằng:

    Bấy giờ binh mã sửa sang
    Địch cùng Nhân Bảo là thằng giặc Ngô
    Mười buôn binh mạnh thẳng đua
    Qua miền Giang Bắc, đây là Phù Lan
    Đêm thấy hai ngài đến màn
    Xưng danh là Hát, xưng danh là Hồng
    Giúp đời Triệu Việt có công
    Thuở chẳng như lòng, ẩn nội Phù Lan…
    Ơn trên Thượng đế xét thương
    Quyền cho chúa tể giữ phương yên này.
    Bây chừ bệ hạ đến đây
    Nguyện ra giúp nước phá này giặc Ngô
    Phán rằng: Tướng quan y như
    Công nên thời lập miêú thờ trả ơn
    Ngày sau Nhân Bảo ra quân
    Trên không nghe tiếng người ngâm thơ rằng:
    Nam quốc sơn hà Nam đế cư
    Hoàng thiên dĩ định tại thiên thư
    Như hà Bắc lỗ lai xâm phạm
    Hội kiến phong trần tận khử trừ

    Vậy việc cho rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ là xuất phát từ đâu? Trong bài viết “Lịch sử, sự thật và sử học” được đăng trong báo Tổ Quốc, số 401 tháng 1/1988, Giáo sư Hà Văn Tấn có viết: “Không có một nhà sử học nào có thể chứng minh được rằng bài thơ Nam quốc sơn hà Nam đế cư là của Lý Thường Kiệt. Không có một sử liệu nào cho biết điều đó cả. Sử cũ chỉ chép rằng trong trận chống Tống ở vùng sông Như Nguyệt, một đêm quân sĩ nghe tiếng ngâm bài thơ đó trong đền thờ Trương Hống, Trương Hát. Có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt đã cho người ngâm thơ. Đi xa hơn, có thể đoán rằng Lý Thường Kiệt là tác giả bài thơ. Nhưng đó chỉ là ‘đoán’ thôi, làm sao nói chắc được bài thơ đó là của Lý Thường Kiệt.”


    Lý Thường Kiệt đã sử dụng “Nam quốc sơn hà” để khích lệ tướng sĩ, nhưng có lẽ ông không phải là tác giả của “Nam quốc sơn hà”. (Ảnh: Bìa sách Tranh truyện lịch sử Việt Nam – NXB Kim Đồng)
    Trong cuốn sách “Bối cảnh định đô Thăng Long và sự nghiệp của Lê Hoàn”, Hội sử học Hà Nội đã cho rằng, “Nam quốc sơn hà” ra đời vào thời Tiền Lê và được Lê Hoàn sử dụng trong cuộc chiến chống lại cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Tống năm 981.

    Trong Tạp chí Hán Nôm, số 1-2002, bài viết “Về thời điểm ra đời của bài thơ Nam quốc sơn hà” cũng đã khẳng định về thời gian, địa điểm ra đời của bài “Nam quốc sơn hà” thông qua việc phân tích 28 nguồn tư liệu khác nhau. Theo đó, “Nam quốc sơn hà” ra đời gắn liền với cuộc chiến chống Tống năm 981 và nhân vật lịch sử Lê Đại Hành (Lê Hoàn).

    Bên cạnh đó, bài viết “Nam Quốc Sơn Hà và Quốc Tộ – Hai kiệt tác văn chương chữ Hán ngang qua triều đại Lê Hoàn” đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5 năm 2005, Phó Giáo sư Bùi Duy Tân cũng đã khẳng định rằng bài thơ “Nam quốc sơn hà” có từ thời Tiền Lê.


     
    Tác giả của bài thơ
    Dù các dẫn chứng lịch sử cho thấy “Nam quốc sơn hà” được ra đời vào thới kỳ đánh Tống lần thứ nhất năm 981, nhưng lại không hề có bằng chứng nào nói về tác giả của bài thơ trên.

    Một số người cho rằng tác giả có thể là thiền sư Đỗ Pháp Thuận bởi lẽ thời đó vua Lê Đại Hành rất tin tưởng các thiền sư như Pháp Thuận, Định Không, Vạn Hạnh, La Quý, Khuông Việt, Đa Bảo. Rất nhiều chinh sách đối nội, cũng như kế hoạch đánh Tống, Chiêm Thành, vua Lê Đại Hành đều hỏi qua các thiền sư trước rồi mới tiến hành làm. Kết quả đều rất tốt. Vua Lê cũng muốn dùng Phật Pháp để giáo hóa muôn dân, giúp dân chúng thăng hoa đạo đức, ổn định xã hội, giang sơn bền vững và cường thịnh.