K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

Ai cũng đầy ắp những kỉ niệm của một thời thơ ấu. Đặc biệt, những buổi đầu cắp sách đến trường, được gặp gỡ và làm quen với biết bao thầy cô, bạn bè … sẽ luôn là những kỉ niệm mãi mãi không bao giờ quên.

Những ngày đầu đi học, tôi luôn được cô giáo khen viết chữ đẹp và đều. Em học rất khá môn tập viết tuy nhiên lại không giỏi môn toán. Đây là môn học mà em sợ nhất. Cô giáo mặc dù đã giảng dạy, hướng dẫn em làm bài rất cẩn thận và tỉ mỉ tuy nhiên do bản thân sợ môn học này nên những lời cô giảng dạy em không hiểu hết. Biết vậy, nên cô đã đổi chỗ cho em ngồi cạnh Hà – một trong những bạn học giỏi toán nhất lớp – để học tập cùng nhau. Cùng nhau làm bài tập nhóm đã giúp cho em tiến bộ hơn rất nhiều. Em đã học được phương pháp học toán của bạn. Thậm chí, trong những bài toán khó, bạn còn hướng dẫn em cách tiếp cận vấn đề và phương pháp giải phù hợp. Từ một học sinh yếu môn toán, em đã bắt đầu có niềm đam mê và yêu thích với môn học này.

Có một lần trong một bài kiểm tra toán, em không làm được bài. Em ngồi loay hoay gần như cả buổi để giải. Hà thấy vậy liền viết viết ra một tờ nháp. Sau đó, bạn vo vo lại rồi nhẹ nhàng đưa cho em. Em cảm thấy rất vui khi được bạn giúp đỡ nhưng đồng thời cũng thấy bứt rứt trong lòng. Rồi em cầm tờ giấy đã vo nhét vào học bàn. Em chợt nhớ lời cô giáo dạy: “Thất bại là mẹ thành công”. Em không muốn bản thân mình cứ mãi yếu kém môn toán. Hà cũng thúc giục em giở tờ giấy ra chép. Nhưng bản thân em kiên quyết từ chối và tiếp tục ngồi suy nghĩ cách làm. Khi chỉ còn khoảng năm phút thì hết giờ làm bài, tự dưng những lời cô giáo giảng như hiện về trong tâm trí em. Một hồi viết nháp các công thức đã học, em chợt phát hiện ra mình đã bỏ quên mất một phép tính. Em vội vàng sửa lại bài làm. Khi trống báo hiệu kết thúc giờ kiểm tra cũng là lúc em hoàn thành bài thi.

Cô giáo trả bài kiểm tra và em được điểm 8 – một kết quả xứng đáng với sự nỗ lực của bản thân, Hà cũng rất vui khi thấy em đã học khá hơn trước. Đến bây giờ mỗi khi nhắc lại, tôi lại thấy hân hoan trong lòng.

sry văn dài copy

Sai đề r bạn ơi, bị điểm 4 môn toán mà sao lại môn văn:((

4 tháng 12 2019

– Giống nhau :

+ Đều là quá trình chuyển hoá vật chất và năng lượng trong tế bào.

+ Đều là các chuỗi phản ứng ôxi hoá – khử phức tạp.

+ Đều có sự tham gia của chất vận chuyển êlectron.

– Khác nhau :

Nội dung so sánh

Quang hợp

Hô hấp

Loại tế bào thực hiện

Tế bào thực vật, tảo và một số loại vi khuẩn.

Tất cả các loại tế bào.

Bào quan thực hiện

Lục lạp.

Quảng cáo

Mgid

Vẩy nến thoát khỏi bạn sau 1 nốt nhạc! Nhờ vào mẹo này

Dứt bệnh trĩ nội, ngoại. Co teo sa búi lòi búi sau 2 tuần

Ti thể.

Điểu kiện ánh sáng

Chỉ tiến hành khi có ánh sáng.

Không cần ánh sáng.

Phương trình tổng quát

nrn + nH n Năng lượng ánh sáng *

C6H1206 + 602 —> 6C02 + 6H20 +ATP + Q

[CH20]n + n02

Sắc tố

Cần sắc tố quang hợp.

Không cần sắc tố quang hợp.

Sự chuyển hoá năng lượng

Biến năng lượng ánh sáng thành năng lượng hoá học trong các hợp chất hữu cơ.

Giải phóng năng lượng tiềm tàng trong các hợp chất hữu cơ thành năng lượng dễ sử dụng là ATP.

Sự chuyển hoá vật chất

Là quá trình tổng hợp chất hữu cơ từ các chất vô cơ.

Là quá trình phân giải các chất hữu cơ thành các chất vô cơ.

4 tháng 12 2019

Quang hợp và hô hấp là hai quá trình quan trọng của sinh vật. nhờ quan hợp và hô hấp thì cơ thể sinh vật mới có thể tồn tại. nhưng bạn chưa thể phân biệt rõ quá trình quan hợp và quá trình hô hấp. để giúp bạn hiểu rõ hơn hai quá trình này thì bài viết sau sẽ giới thiệu chi tiết về quá trình quan hợp và quá trình hô hấp. bên cạnh đó bài viết còn so sánh hai quá trình này để bạn hiểu rõ hơn về quá trình quang hợp và quá trình hô hấp.
Quang hợp
Khái niệm:

Quang hợp là quá trình thu nhận năng lượng ánh sáng Mặt trời của thực vật, tảo và một số vi khuẩn để tạo ra hợp chất hữu cơ phục vụ bản thân cũng như làm nguồn thức ăn cho hầu hết các sinh vật trên Trái Đất.
Sơ đồ thể hiện quang hợp:
Nước + Khí cacbônic( xúc tác là ánh sáng và chất diệp lục) ->Tinh bột + Khí ô-xi
Vai trò của quang hợp:
- Sản phẩm quang hợp là nguồn chất hữu cơ làm thức ăn cho mọi sinh vật, là nguyên liệu cho công nghiệp và thuốc chữa bệnh cho con người
- Quang hợp cung cấp năng lượng để duy trì hoạt động sống của sinh vật và con người
- Điều hoà không khí: quang hợp giải phóng khí oxi và hấp thụ khí CO2 (góp phần ngăn chặn hiệu ứng nhà kính) để bảo vệ môi trường.
- Lá là cơ quan quang hợp của cây.

Hô hấp
Hô hấp là tập hợp những quá trình, trong đó cơ thể lấy O2 từ bên ngoài vào để ôxi hóa các chất trong tế bào và giải phóng năng lượng cho các hoạt động sống, đồng thời thải co2 ra ngoài.

.Quang hợp là quá trình thu nhận và chuyển hóa năng lượng ánh sáng Mặt trời của thực vật, tảo và một số vi khuẩn để tạo ra hợp chất hữu cơ phục vụ bản thân cũng như làm nguồn thức ăn cho hầu hết các sinh vật trên Trái Đất.

4 tháng 12 2019


TL:

Quang hợp là quá trình thu nhận và chuyển hóa năng lượng ánh sáng Mặt trời của thực vật, tảo và một số vi khuẩn để tạo ra hợp chất hữu cơ phục vụ bản thân cũng như làm nguồn ...

học tốt

4 tháng 12 2019

Sau khi học truyện Em bé thông minh,em rất ngưỡng mộ và khâm phục nhân vật em bé trong truyện.Em bé khoảng chừng bảy tám tuổi,con của một nhà nông dân bình thường nhưng rất mạnh dạng và nhanh trí.Em không hề rụt rè,nhút nhát như những đứa bé khác cùng tuổi mà dám đối thoại với viên quan và cả nhà vua.Em bé đã giải được những câu đố oái oăm ,hóc búa đầy bất ngờ của viên quan,nhà vua và xứ thần nước láng giềng khiến em rất khâm phục.Câu đố :xâu sợi chỉ qua ruột con ốc vặn dài của sứ thần nước láng giềng làm cho các ông trạng,đại thần,nhà thông thái đều lắc đầu bó tay nhưng em bé thì vừa chơi vừa hát câu giải đố một cánh dễ dàng.Em mong mọi trẻ em đều thông minh,nhanh nhẹn như em bé.Chúc you học tốt

4 tháng 12 2019

Cảm ơn bạn nha mặc dù mình biết bạn chép trên " Học 24.vn " ahihi !

4 tháng 12 2019

dat ba lao qua duong.

4 tháng 12 2019

là bài kiểm tra hai tiết số 2 đó . viết văn , kể về một việc tốt mà em đã làm !

4 tháng 12 2019

Đúng đấy,sang luôn đi

4 tháng 12 2019

Tìm từ láy:

+)tiếng nói:dõng dạc,ngấp ngứ,khô khan,dịu dàng,dỗ dành,đanh đá,nhỏ nhẹ,lưu loát.

+)tiếng cười:hớn hở,sặc sụa.

15 tháng 12 2019

Quan hệ từ : như, mà, để, ...(ko bt còn ko nx?)

3 tháng 12 2019

bt rồi chị hà cute

Tớ tên là Nga. Tớ 12 tuổi học ở THCS TT Nhã Nam. Tớ có mái tóc ngang vai xoăn từng lọn. Tớ cao 1.52. Tớ thik nghe nhạc nhất là nhạc anh. Ai giống tớ thì kb nhé

3 tháng 12 2019

Sáo trúc

Sáo trúc xuất hiện nhiều trong văn thơ Việt Nam. Từ xưa đến nay đã gắn bó với đời sống tinh thần, văn hóa của người Việt. Vật liệu làm sáo trúc thường là tre hoặc trúc. Đường kính khoảng 1,5cm và chiều dài 30cm.

Sáo trúc

Sáo trúc diễn đạt nhiều cung bậc cảm xúc, âm vực rộng trên hai quãng tám. Âm sắc của nó trong sáng, vui tươi gợi mở khung cảnh đồng quê yên bình của nước ta.

Sáo trúc có thể độc tấu hoặc hòa tấu cùng với dàn nhạc giao hưởng, cổ truyền, thính phòng, nhạc nhẹ.

Đàn tranh

Đàn tranh có hình hộp dài, khung hình thang chiều dài từ 110 – 120cm. Đầu lớn có lỗ và con chắn để mắc dây, rộng 25 – 30cm. Đầu nhỏ gắng 16 khóa lên dây chéo qua mặt đàn rộng 15 – 20cm.

Mặt đàn được làm bằng ván gỗ ngô đồng uốn hình vòm và dày 0,05cm. Ngựa đàn (con Nhạn) nằm ở giữa để gác dây và di chuyển điều chỉnh âm thanh.

Dây đàn có các cỡ khác nhau và được làm bằng kinh loại. Móng gảy được làm bằng nhiều chất liệu như kim loại, đồi mồi, sừng.

Đàn tranh

Tiếng đàn tranh nghe trong trẻo, tươi sáng thể hiện những điệu nhạc vui tươi. Đàn tranh được sử dụng để độc tấu, hòa tấu, đệm cho người hát, ngâm thơ, dàn nhạc tài tử, dàn nhã nhạc, phường bát âm và những dàn nhạc dân tộc tổng hợp.

Đàn bầu

Còn được gọi là Độc huyền cầm. Đây là một trong các loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam được gảy bằng que hoặc miếng gảy. Có hai loại đàn bầu là đàn thân tre và đàn hộp gỗ.

Đàn thân tre: Loại đàn được sử dụng trong hát Xẩm. Thân đàn là một đoạn tre hoặc bương dài 120cm, đường kính 12cm. Mặt đàn được lóc đi phần cật trên đoạn tre, bương.

Đàn hộp gỗ: Loại đàn được cải tiến về sau, dùng cho nghệ sĩ chuyên nghiệp. Loại đàn này có nhiều kích thước, hình dáng khác nhau.

Đàn bầu

Dây đàn bầu chạy suốt thân đàn. Xưa dây đàn được làm bằng tơ tằm se thành sợi, sau thay bằng dây sắt.

Đàn bầu được làm bằng một nửa quả bầu nậm. Bầu đàn lồng vào giữa vòi đàn nơi buộc dây đàn. Bầu đàn sẽ giúp âm lượng của đàn tăng thêm.

Âm sắc của loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam này sâu lắng, ngọt ngào, quyến rũ, dễ đi vào lòng người.

Ðàn đáy

Được chế tác vào thời Lê khoảng thế kỷ XV-XVIII, là cây đàn dài nhất do người Việt sáng tạo ra. Xưa đàn đáy được gọi là Vô để cầm tức đàn không đáy, cũng có người gọi là Đới cầm.

Đàn đáy được sử dụng trong hát ca trù, hát ả đào cùng với phách và trống đế.

Âm thanh của đàn đáy nỉ non, buồn man mác. Loại đàn này được gắn với 7 cung chia đều nên khi hát xuống thấp hoặc lên cao thì người nghệ sĩ không cần vặn dây lại mà chỉ cần đổi thế bấm nhanh.

Đàn đáy có thể tạo ra các ngón chùn khi bấm tạo thành nét độc đáo của loại đàn này.

Đàn tỳ bà

Là một loại nhạc cụ dây gẩy của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng có một số tài liệu ghi chép đàn tỳ bà xuất hiện ở Trung Quốc từ rất sớm được gọi là PiPa, rồi ở Nhật được gọi là BiWa.

Đàn tỳ bà

Đàn tỳ bà được làm bằng gỗ cây ngô đồng. Cần đàn, thùng đàn liền nhau có dáng như hình quả lê bổ đôi. Mặt đàn được làm bằng gỗ xốp, nhẹ và để mộc. Mặt cuối thân đàn để mắc dây gọi là ngựa đàn. Đầu đàn còn được chạm khắc cầu kỳ, có thể là hình chữ thọ hoặc hình con dơi. Đầu đàn được gắn 4 trục gỗ để lên dây.

Đàn tỳ bà dài từ 94 – 100cm. Cần đàn có gắn 4 miếng ngà voi cong vòm lên được gọi là Tứ Thiên Vương. Tám phím chính làm bằng gỗ hoặc tre gắn ở phần mặt đàn cho những cao độ khác nhau.

Xưa dây đàn được làm bằng tơ tằm, nay được làm bằng dây nilon.

Đàn tỳ bà mặc dù có xuất xứ từ những nước khác, nhưng qua thời gian đã được bản địa hóa và trở thành nhạc cụ dân tộc Việt Nam. Nó thể hiện sâu sắc, đậm đà các bản nhạc mang phong cách của dân tộc Việt Nam.

Đàn nguyệt

Đàn nguyệt có tên gọi khác là đàn Kìm. Đây là loại nhạc cụ dân tộc được sử dụng rộng rãi trong dòng nhạc cung đình, nhạc dân gian.

Đàn nguyệt bắt đầu xuất hiện trong mỹ thuật Việt Nam từ thế kỷ XI, cho đến nay vẫn là một nhạc cụ âm nhạc quan trọng và được sử dụng chủ yếu dành cho nam giới.

Cần đàn nguyệt khá dài, phím cao nên nghệ sĩ có thể tạo ra được các âm mềm mại, nhấn nhá uyển chuyển.

Âm đàm vang, trong và biểu hiện rất phong phú, có lúc nỉ non sâu lắng, có lúc lại sôi nổi, tươi vui. Vì thế, đàn nguyệt được sử dụng trong hòa tấu nhạc lễ trang nghiêm, lễ tang hoặc hát văn, hòa tấu thính phòng. Hình thức diễn tấu cũng phong phú: Độc tấu, hòa tấu hoặc đệm cho hát.

Đàn nhị (đờn cò)

Có mặt trong âm nhạc truyền thống của nước ta từ rất lâu đời, đàn nhị đóng vai trò quan trọng không thể thiếu trong những dàn nhạc dân tộc Việt Nam từ xưa đến nay.

đàn nhị

Đàn nhị được người dân Nam bộ gọi là đàn cò vì hình dáng trông giống như con cò. Trục dây đầu quặp xuống như mỏ cò. Thân đơn như con cò. Cần đờn như cổ cò. Tiếng đờn nghe lảnh lót nhưng tiếng cò.

Đờn cò được sử dụng trong các dàn nhạc nhã nhạc, sắc mùa, cải lương, ngũ âm, bát âm, nhạc tài tử, dân ca…

Ngày nay, đàn nhị còn được khai thác dùng trong những ca khúc buồn hoặc nhạc phẩm quê hương.

Đàn tam thập lục

Có 36 dây đàn nên được gọi là tam thập lục. Đây là nhạc khí dây thuộc chi gõ của nhạc cụ dân tộc Việt Nam.

Đàn tam thập lục hình thang cân, mặt đàn được làm bằng gỗ xốp, nhẹ, để mộc, nhìn hơi phồng lên ở giữa. Cần đàn và thành đàn được làm bằng gỗ cứng, trên mặt đàn và đặt so le 2 hàng ngựa. Mỗi hàng có 28 ngựa. Cần đàn bên trái có 36 móc để mắc dây và bên phải có 36 trục lên dây.

Dây đàn được làm bằng kim khí. Que đàn làm bằng 2 thanh tre mỏng và dẻo. Đầu que được quấn dạ để tiếng đàn nghe êm hơn.

Âm thanh của đàn tam thập lung thánh thót, trong sáng và rộn rã.

Đàn tam thập lục được sử dụng trong những dàn nhạc cải lương, chèo. Được dùng để độc tấu, đệm cho hát hoặc tham gia vào dàn nhạc dân tộc tổng hợp.

Đàn tam

Đàn tam có 3 dây, mặt bầu vàng được bịt da trăn. Trước đây, đàn tam được sử dụng trong dàn nhạc bát âm. Ngày nay, đàn tam có mặt ở hầu hết các dàn nhạc với kích cỡ khác nhau.

Âm sắc của loại đàn này không như những loại đàn khảy dây khác, có màu âm vang, sáng sủa, ấm áp và rộn rã. Nhưng khi ở quãng thấp thì âm đàn tam lại hơi đục. Vì thế thường được dùng để thể hiện những giai điệu khỏe khoắn, trầm hùng.

Đàn sến

Đàn sến là một trong những loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam, là nhạc khí dây gảy loại có cần đàn. Loại đàn này được du nhập vào nước ta và trở thành nhạc cụ dân tộc Việt, được sử dụng phổ biến nhất là ở miền Nam.

đàn sến

Âm sắc đàn sến rất trong trẻo, tưới sáng, gần giống đàn nguyệt nhưng độ ngân vang không bằng. Đàn sến được dùng trong những dàn nhạc cải lương, sân khấu tuồng.

Đàn đá

Đàn đá thuộc bộ gõ, đâu là loại nhạc cụ cổ nhất của dân tộc Việt Nam. Mỗi thanh đá có hình dáng, kích thước khác nhau và được chế tác bằng phương pháp gõ thô sơ.

đàn đá

Đá nhỏ, mỏng sẽ cho âm cao. Ngược lại đá to, dày sẽ cho âm trầm. Vật liệu được sử dụng làm đàn đá là các loại đá ở vùng Đông Nam Bộ và Nam Trung Bộ.

Tiếng đàn âm vang nghe như lời kể, niềm an ủi những vui buồn trong cuộc sống.

Đàn gáo

Còn được gọi là đàn hồ, là loại nhạc khí cung vĩ phát triển từ đàn nhị. Đàn gáo to, dài hơn đàn nhị nhưng lại khá giống đàn hồ cầm của Trung Quốc về các tính năng.

GS Tô Vũ cho biết: “Gáo” và “Cò” là hai sáng tạo ngôn ngữ có tính cách dân gian ở Nam Bộ, chỉ đàn Nhị và Hồ ở miền Bắc và Trung. Đàn gáo ở miền Nam thường được làm bằng nửa gáo dừa to, bịt mặt gỗ để làm bầu đàn nên được gọi là đàn gáo.

đàn gáo

Đàn gáo có âm trầm hơn đàn nhị nhưng lại đầy đặn, rộng rãi và chắc chắn hơn. Âm sắc của đàn gáo đẹp, ấm nhưng hơi trầm đem lại cảm xúc sâu lắng.

Đàn gáo thường được sử dụng trong dàn nhã nhạc, sân khấu chèo, tuồng, phường bát âm. Đây cũng là nhạc cụ đóng vai trò cực kỳ quan trọng trong hát Xẩm, đệm cho giọng trung, trầm.

Điểm khác biệt nhất so với đàn nhị là không xuất hiện trong dàn nhạc cung đùng, dàn nhạc tài tử miền nam. Tuy nhiên, đàn gáo và đàn nhị luôn song hành ở những dàn nhạc sân khấu cải lương, cổ truyền và dàn nhạc lễ.

Đàn T’Rưng

Đàn T’Rưng là loại nhạc cụ dân tộc thuộc họ nhạc cụ tự thân vang ở Tây Nguyên. Đây là loại đàn có từ 5 – 7 ống lô ô và được cắt dài ngắn khác nhau. Đối với đàn T’Rưng chuyên nghiệp thì có từ 12 – 16 ống xếp thành hàng trên giá đàn. Các ống này được kết vào 2 sợi dây song song tạo thành câu đàn. Để chơi đàn người ta sẽ dùng 2 dùi bọc vải gõ lên trên các ống.

Đàn T'Rưng

Đàn T’Rưng có âm vực rộng gần 3 quãng 8. Có thể thể đánh được chồng âm hoặc đồng âm nhưng 2 nốt nhạc phải cách nhau một quãng 8. Những ống nhỏ ngắn sẽ phát ra âm cao, còn các ống to, dài sẽ phát ra âm trầm.

Âm sắc của đàn T’Rưng khá độc đáo, tiếng không to, không vang xa nhưng lại khác biệt.

Đàn đoản

Còn được gọi là đàn nhật, đàn mặt trời. Đây là nhạc khí dây gảy loại có dọc, là nhạc cụ truyền thống của dân tộc Việt Nam và một vài dân tộc thiểu số ở miền Bắc. Gần giống với đàn đoản, người Lô Lô có Gièn Xìn, người H’Mông có Thà Chìn. Hộp đàn mỏng hơn và có vẽ hoa, khoét lỗ thoát âm.

Đàn đoản

Đoàn đoản được du nhập vào Việt Nam và trở thành đàn Việt Nam. Đây là loại đàn có 4 dây bằng tơ. Được xếp phím theo hệ thống 7 âm chia đều, khi đánh theo điệu thức 12 bình quân phải nhấn mới đạt được độ cao mong muốn.

Âm thanh của đàn đoản vang, khỏe và giòn, thường phù hợp với những giai điệu vui tươi, dí dỏm, hoạt bát. Đàn đoản thường được sử dụng trong những dàn nhạc bát âm, cải lương, tuồng. Hiện nay, đàn đoản còn được đưa vào dàn nhạc dân tộc tổng hợp hòa tấu.

Khèn

Khèn là nhạc cụ thuộc bộ hơi, cấu trúc phức tạp. Nó bao gồm nhiều ống trúc xếp cạnh nhau. Mỗi đầu cắm được xuyên qua bầu đàn hình bắp chuối để làm hộp cộng hưởng. Khèn là nhạc cụ quen thuộc của đồng bào dân tộc Mường, Thái, H’mông…. Đới với người Mường, khèn được sử dụng để đệm cho hát. Người H’Mông khèn lại được dùng để giao duyên trai gái.

Khèn

Khèn của người Thái có 12 ống, còn của người H’Mông có 6 ống, được bó thành hai hàng và gọi là khèn bè. Âm sắc của khèn bè giòn, mảnh, mỗi ống sẽ phát ra âm sắc nhất định. Bên trong ống có lưỡi gà được làm bằng bạc hoặc đồng dát mỏng.

Khèn bè là nhạc cụ âm nhạc đa thanh, âm vực rộng khoảng 1, 5 quãng 8, âm kéo dài.

Cồng chiêng

Cồng chiêng là nhạc cụ dân tộc Việt Nam, xuất hiện từ thời văn hóa đồng thau Đông Sơn. Đây là loại nhạc cụ thuộc họ tự thân vang, được đúc bằng hợp kim đồng pha chì và thiếc. Cồng là loại có núm, chiêng là loại không có núm. Cồng chiêng càng nhỏ thì tiếng càng cao, càng to thì tiếng sẽ càng trầm.

Cồng chiêng

Trong âm nhạc của hầu hết các dân tộc Việt Nam, cồng chiêng là loại nhạc cụ không thể thiếu. Cồng chiêng nổi tiếng và gắn liền với Tây Nguyên. Ngày nay, âm nhạc cồng chiêng Tây nguyên mang giá trị nghệ thuật được khẳng định trong đời sống văn hóa xã hội.

Trên đây là các loại nhạc cụ dân tộc Việt Nam. Hi vọng rằng, thế hệ trẻ Việt Nam ngày nay cũng sẽ dành sự quan tâm đến âm nhạc cổ truyền. Nhờ vậy mà nền âm nhạc cổ truyền được bảo tồn và phát huy.