K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

2 tháng 4 2018

a) Giải thưởng Sao Khuê 

b) Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân

c) Nhà giáo Nhân dân

d) Huy chương Vì sự nghiệp giáo dục

~ Chúc bạn học tốt ~

2 tháng 4 2018

cảm ơn bạn .......................................................................................................................................................................................................!

Kiều Phương là cô bé hồn nhiên, nhí nhảnh và đam mê hội họa. Niềm đam mê này được tác giả diễn tả một cách cụ thể qua cách cô vẽ hằng ngày, cách cọ nhọ nồi để làm màu vẽ…Và khi bạn của bố phát hiện ra niềm đam mê này thì Kiều Phương càng tỏ rõ sự quyết tâm và phấn đấu mơ ước thành họa sĩ. Mặc dù anh trai gọi là “mèo” vì cái tội lục lọi đồ linh tinh nhưng Kiều Phương vẫn “vui vẻ chấp nhận” và hồn nhiên khoe với bạn bè. Cách trò chuyện của Kiều Phương với anh trai cũng chưng tỏ Kiều Phương là cô bé nhí nhảnh, trong sang và vô cùng đáng yêu “Nó vênh mặt, mèo mà lại, em không phá là được”. Dù cho người anh trai khó chịu đến cỡ nào thì cô bé này vẫn không bao giờ tức giận, luôn giữ được sự hài hòa và tinh nghịch như thế. Tạ DUy Anh đã khéo léo khắc họa nên hình ảnh nhân vật đáng yêu, gây được thiện cảm tốt đối với người đọc

thay 1 số ngôi là được

2 tháng 4 2018

cái đó mình cũng biết

2 tháng 4 2018

Để hiểu nội dung của lời khuyên này trước hết chúng ta cần hiểu học là gì? Học là một quá trình thu nhận, tích lũy kiến thức, kĩ năng để giúp cho bản thân có thêm hiểu biết về trình độ khoa học, kĩ thuật. Học là một khái niệm rất rộng chứ không phải bó hẹp trong phạm vi ngôi trường mà ngay từ nhỏ khi sống giữa vòng tay yêu thương của cha mẹ, ông bà chúng ta đã được dạy dỗ từ cách ăn nói, ứng xử, đi đứng đối xử với người trên với bạn bè. Thế rồi khi đến trường chúng ta lại được các thầy cô dạy kiến thức về khoa học về xã hội, và dưới bàn tay chăm sóc Ân cần của các thầy cô giáo ta còn được học cả rèn luyện cả về đạo đức. Và khi đi ra ngoài xã hội ta còn được học hỏi qua bạn bè, qua những người xung quanh mình, rồi còn qua các thông tin đại chúng như đài báo sách vở… Song có một điều chúng ta cần chú ý là phải học toàn diện tránh tình trạng hỏi về bất cứ vấn đề về tự nhiên thì đều biết còn hỏi về các vấn đề xã hội thì chẳng biết gì.

“Học nữa” là học hết trình độ này chúng ta phải chuyển sang trình độ khác, từ dễ đến khó, từ phạm vi hẹp đến phạm vi rộng. Việc học không bao giờ được ngừng nghỉ mà là một mạch nối tiếp nhau và không ngừng nâng cao để ta có cơ hội trau dồi tri thức, nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Mỗi lần nâng lên một mức học con người sẽ trưởng thành và vững chắc thêm một bước về tri thức và trình độ và đó là thứ hành trang quý giá giúp con người tự tin khi bước vào cuộc sống tự lập sau này và quan trọng nhất là có tri thức trí tuệ để có thể vận dụng tốt vào công việc và có thể sáng tạo ra những công trình khoa học, góp phần xây dựng quê hương thêm giàu đẹp.

Còn “học mãi” là học liên tục, học không ngừng nghỉ suốt đời, luôn nâng cao trình độ hiểu biết của mình. Học mãi để tạo thành thói quen ham học hỏi, say mê với khoa học. Và việc học phải được liên tục không bị hạn chế bởi tuổi tác. Khi ta còn trẻ việc học tập là đương nhiên thế nhưng khi ta càng cao tuổi thì việc học không vì thế mà ngưng trệ, mà ta cũng cần chăm chỉ học hỏi hơn nữa bằng cách tự học, nghiên cứu qua sách vở. Như vậy việc học là vô tận vừa học vừa làm vô cùng có lợi bởi quá trình làm việc sẽ giúp ta hiểu được mình còn thiếu kiến thức gì và việc học sẽ bổ sung cho ta. Như vậy câu nói rất đơn giản của Lênin đã cho ta thấy cần phải học như thế nào mới giúp ta trở thành con người hoàn thiện, một người có tri thức.

Vậy vì sao chúng ta phải hiểu như vậy? Trước hết việc ta học tập tốt sẽ có lợi cho chính bản thân ta, bởi nếu ta không học sau này ta sẽ không thể làm tốt công việc được. Kết quả công việc sẽ không được tốt đẹp như ta mong muốn và chúng ta sẽ không thể nuôi sống bản thân mình, không thể giúp được gia đình công như không thực hiện được nghĩa vụ cao cả của đất nước; là người làm chủ tương lai đất nước. Bác Hồ đã từng nói: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay không chính là nhờ một phần công lao học tập của các cháu”. Đúng như vậy nếu chúng ta không học tập thì cả thế hệ trẻ sẽ chẳng có ai tài giỏi để giúp cho đất nước tiến lên, vì thế việc học tập là vô cùng cần thiết và hơn thế còn là trách nhiệm đối với mỗi người học sinh chúng ta để đưa đất nước sáng ngang với các nước khác trên thế giới. Và chúng ta không học tập tốt không nắm được những tri thức khoa học hiện đại chúng ta sẽ trở thành những người lạc hậu trước sự lớn mạnh như vũ bão của khoa học kĩ thuật trong ngày nay. Như vậy học tập tốt là giúp cho ta và cho xã hội hơn nữa là phát huy truyền thống hiếu học của ông cha ta từ xưa cho đến nay.

Ngày xưa ông cha ta đã có một truyền thống hiếu học như Mạc Đĩnh Chi là con nhà nghèo nhưng vẫn ham mê học đêm đến vì nhà nghèo không có đèn học nôn ông phải bắt đom đóm cho vào vỏ trứng để học và sau thành tài… Ngày xưa chúng ta có biết bao tấm gương chăm học tập và ngày nay chúng ta cũng cần noi gương theo cha ông.

Song việc học như thế nào để đem lai hiệu quả tốt thì chúng ta thấy cần phải học tập thật chăm chỉ, học say mê hứng thú và phải luôn sáng tao, bên cạnh đó chúng ta cũng cần xem xét phương pháp học tập sao cho đại được kết quả cao. Khi đến lớp cần chăm chú nghe cô giáo giảng bài, ghi chép đầy đủ về nhà học lại và làm bài tập đầy đủ, chuẩn bị bài mới trước khi đến lớp. Ngoài ra ta còn phải học hỏi thêm bạn bè thầy cô giáo và quan trọng là chúng ta phải luôn chủ động trong việc học tránh sự sao chép học tủ học lệch để có thể phát huy được tính sáng tạo của mình. Luôn tạo cho mình một thói quen học tập thật nghiêm túc, say mê, sáng tạo. Học phải đi đôi với hành bởi có như vậy chúng ta mới nhớ lâu kiến thức đã được học.

Câu nói trên của Lênin đã khuyên chúng ta phải học tập thật nhiều học không mệt mỏi để tạo thành nguồn kiến thức vô tận trong mỗi người để sau này trưởng thành có thể làm chủ mọi công việc, góp phần xây đựng đất nước, xã hội ngày một giàu đẹp văn minh. Đó là một lời khuyên mà mỗi học sinh chúng ta cần nhớ và làm theo.

2 tháng 4 2018

lên search google :)

2 tháng 4 2018
Mở bài: Hát quốc ca vào lễ chào cờ thứ hai hàng tuần là hoạt động bắt buộc tại các trường học. Bài quốc ca hùng tráng vang lên trong buổi lễ chào cờ trang nghiêm nhắc nhở chúng ta về một thời kì đấu tranh anh dũng, đau thương và bất khuất của dân tộc bảo vệ nền độc lập nước nhà. Bài quốc ca khơi gợi trong ta tinh thần yêu nước, ý thức giữ gìn và bảo vệ nền độc lập trong thời đại mới. Thế nhưng, ngày nay, học sinh ngày càng không có ý thức nghiêm túc trong việc hát quốc ca. Hành động ấy làm mất đi sự nghiêm trang trong buổi lễ chào cờ. Thân bài: Hiện trang hát quốc ca của học sinh hiện nay: Ý thức hát quốc ca của học sinh ngày càng tồi tệ. Trước hết là vấn đề giữ trật tự trước khi hát quốc ca. Học sinh thiếu nghiêm túc, không chịu thực hiện theo hiệu lệnh của người điều khiển chào cờ, gây mất trật tự. Người điều khiển chào cờ phải mất một thời gian mới ổn định được trật tự trong sân trường. Khi bắt đầu hát quốc ca, nhiều học sinh không hát, hoặc hát nhỏ, hát nhép lấy lệ cho có. Không những thế, có học sinh cười đùa, trêu chọc nhau ngay khi cả trường đang hát quốc ca. Hành đông ấy khiến cho sân trường lộn xộn, mất trật tự. Buổi lễ chào cờ và việc hát quốc ca trở nên thiếu nghiêm túc. Nhiều học sinh không hát, hoặc hát quá nhỏ, nên chỉ nghe giọng bè, rề rà, kéo dài, uể oải không đúng với giọng điệu nghiêm trang, hùng tráng của bài quốc ca. Lúc mới bắt đầu còn nghe rõ. Sau nhỏ dần hoặc lạc nhịp hoặc ê a lấy lệ. Cuối cùng chỉ còn những tiếng xì xào rồi dừng hẳn. Người điều khiển buổi lễ chào cờ gần như độc diễn trong tiếng loa vang vang. Hầu hết học sinh hát sai nhiệp, không khớp với nền nhạc. Bài quốc ca trở nên rời rạc, không còn khí thế. Việc hát quốc ca mất đi ý nghĩa tôn nghiêm. Đâu chỉ có thế, ý thức hát quốc ca của học sinh ngày càng giảm sút nghiêm trọng. Nhiều học sinh không hề thuộc lời bài quốc ca. Thậm chí, có học sinh tự “chế” lời bài hát. Việc hát quốc ca trong mỗi buổi lễ chào cờ bị xem thường. Nguyên nhân của hiện tượng hát quốc ca hiện nay: Đầu tiên là do bởi việc sinh hoạt dưới cờ không diễn ra thường xuyên. Tại nhiều trường học, việc ấy không được tiến hành một cách nghiêm túc. Việc quán triệt tư tưởng, ý thức giữ trật tự và hát quốc ca nghiêm túc, khí thế, đồng đều không được nhắc nhở thường xuyên. Nhà trường không đủ thời gian để hướng dẫn, tập dợt và kiểm tra việc hát quốc ca của học sinh ở từng lớp học. Thậm chí nhiều trường học còn không quan tâm đến công tác này. Sự lơ là của nhà trường khiến cho học sinh xem thường việc hát quốc ca và ý nghĩa của buổi lễ chào cờ đầu tuần. Học sinh không có ý thức nghiêm túc trong việc hát quốc ca. Nhiều học sinh cho rằng hát quốc ca chỉ là hình thức, không có gì quan trọng. Cho nên, học sinh không hát, hoặc hát một cách miễn cưỡng, đối phó. Từ một vài học sinh kéo theo nhiều học sinh không chịu thực hiện hát quốc ca nghiêm túc. Ở nhiều trường học, hoạt động chào cờ thường kéo dài khiến học sinh chán nản, mệt mỏi. Các hoạt động nhàm chán cứ lặp đi, lặp lại, học sinh không còn hứng thú nữa. Có khi, học sinh phải thực hiện buổi lễ chào cờ dưới sân trường nắng gắt. Điề kiện bất lợi khiến học sinh không thể tập trung giữ trật tự đến hết buổi lễ được. Nhiều học sinh không hiểu hết ý nghĩa của hoạt động chào cờ và việc hát quốc ca. Từ đó thiếu lòng tôn trọng, không tuân thủ hiệu lệnh, không thực hiện hát quốc ca một cách nghiêm túc. Gia đình và xã hội không thường xuyên nhắc nhở học sinh về ý thức trách nhiệm hát quốc ca. Trong đời sống thường ngày, việc hát quốc ca ít diễn ra trong cộng đồng. Phụ huynh cũng không thường cùng các em tham gia các buổi tưởng niệm nhằm rèn luyện ý thức hát quốc ca và trách nhiệm đối với cộng đồng. Người lớn không gương mẫu, trở thành tấm gương xấu cho học sinh làm theo. Nhiều học sinh cảm thấy mắc cỡ, xấu hổ khi hát trước tập thể khiến việc hát quốc ca trong buổi lễ chào cờ diễn ra hết sức khó khăn. Hậu quả của việc hát quốc ca thiếu nghiêm túc: Hậu quả đầu tiên là buổi lễ chào cờ ở các trường học diễn ra chậm chạp, nặng nề, mất đi khí thế. Ý nghĩa giáo dục của hoạt động chào cờ và hát quốc ca cũng mất đi. Nếu không được chấn chỉnh, nghiêm khắc nâng cao ý thức việc hát quốc ca của học sinh, lâu dần, hoạt đông hát quốc ca không còn được tôn trọng và nghiêm túc thực hiện. Hát quốc ca thiếu nghiêm túc làm mất đi ý nghĩa trọng thể của hoạt động chào cờ và tính thiêng liêng của bài ca tổ quốc. Lòng tự tôn dân tộc và tình yêu tổ quốc cũng bị phai mờ, ảnh hưởng đến ý thức, trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ tổ quốc của học sinh. Giải pháp khắc phục hiện trạng hát quốc ca hiện nay: Trước hết, nhà trường phải quyết liệt chấn chỉnh hoạt động chào cờ đầu tuần. nhắc nhở, xử phạt, kỉ luật để giữ gìn tính tôn nghiêm của hoạt động thiêng liêng này. Nhà trường phải có hoạt động hướng dẫn, tập luyện và kiểm tra thường xuyên hoạt động hát quốc ca của học sinh. Nên quy định hát quốc ca tại lớp mỗi tuần. Đưa bài quốc ca vào chương trình học tập để nâng cao ý nghĩa của bài quốc ca và tầm nhận thức của học sinh. Từ đó khắc sâu ý thức trách nhiệm và lòng yêu tổ quốc đối với từng học sinh. Gia đình và xã hội phải quan tâm hơn nữa đến hoạt đông hát quốc ca của học sinh. Hãy giải thích ý nghĩa của bài ca tổ quốc và cách hát quốc ca một cách nghiêm trang, hùng hồn thể hiện được khí thế và âm điệu của bài hát. Mỗi học sinh phải có ý thức nghiêm túc khi hát bài quốc ca. Quốc ca phải được hát lên bằng lời, hát một cách chân thật, hùng hồn, thể hiện lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, gửi gắm tình yêu và niềm kì vọng lớn lao vào tương lai đất nước. Mỗi học sinh thực hiện hát quốc ca nghiêm túc sẽ truyền cảm hứng cho nhiều học sinh khác làm theo. Bài học nhân thức: Thực hiện hát quốc ca nghiêm túc là thể hiện ý thức tôn trọng bản thân. Hát quốc ca nghiêm túc thể hiện trách nhiệm cao cả đối với dân tộc, đối với đất nước. Cảm xúc thiêng liêng, niềm tự hào sâu sắc trong buổi lễ chào cờ nghiêm trang sẽ tạo một niềm tin tưởng vững chắc vào tương lai đât nước.Nó cỗ vũ tinh thần học tập và ý thức trách nhiệm dựng xây đất nước. Kết bài: Đối với mỗi dân tộc, quốc ca là bài ca thể hiện sức mạnh dân tộc và niềm tin chiến thắng. Đó là lời ca vang lên từ sâu thẳm con tim, là ý chí, nguyện vọng và sự gắn kết thiêng liêng của cả dân tộc. Và mỗi khi đất nước lâm nguy, nền hòa bình bị đe dọa, bài quốc ca là tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc thúc giục ta tiến bước lên đường bảo vệ non sông
2 tháng 4 2018

thủ đô của nước anh: London

thủ đô của nước nga : Mát xcơ va

thủ đô của nước lào: Viêng chăn

 thủ đô của cam - pu-chia: Phnôm pênh

thủ đô của trung quốc: Bắc kinh

2 tháng 4 2018

Thủ Đô của nước Anh

Thủ Đô của nước Nga

Thủ Đô của nước Lào

Thủ Đô của Cam - pu -chia

Thủ Đô của Trung Quốc

2 tháng 4 2018

Truyền thống cao cả và tốt đẹp ấy được phản ánh chân thực qua tác phẩm văn học dân gian mà điển hình là những vần điệu ca dao mượt mà gợi cảm: 

Nhiễu điều phủ lấy giá gương 
Người trong một nước thì thương nhau cùng 

Câu ca dao ấy có ý nghĩa giá trị như thế nào, ta thử cùng nhau tìm hiểu. 

Từ câu ca dao, ta thấy hiện lên hình ảnh khá đẹp. Tấm nhiễu điều bao phủ phía ngoài chiếc giá gương, trải bao nhiêu năm tháng nó hứng chịu hết những bụi bặm của cuộc đời để mặt gương luôn sáng trong , ngời chiếu. Mượn sự vật vô tri, người xưa muốn gửi gắm một bài học làm người. Sống trên cùng một đất nước , con người phải biet yêu thương đùm bọc giúp đỡ nhau, nhất là trong những lúc khó khăn hoạn nạn để cùng nhau tồn tại và vưôn lên trong cuộc sống. 

Mỗi người Việt nam dù miền xuôi hay miền ngược, dù đồng bằng hay vùng đồi núi cao nguyên vẫn có mối quan hệ thân thiết “ người trong một nước”. Vì vậy, cho dù khác nhau về địa phương, dân tộc, phong tục tập quán nưng người dân Việt Nam vẫn có bao điểm chung để làm nên tình nghĩa gắn bó keo sơn. Chung một dải đat cong cong hình chữ S, chung một nền văn hiến lâu đời, chung một lịch sử đấu tranh với bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, chung một bọc trứng Au Cơ, nòi giống Tiên Rồng, chung một kẻ thù đó là thiên tai địch hoạ… 

Những điểm chung ấy đã trở thành mối dây vô hình gắn chặt mọi người với nhau thành một khối. Trong thôn ấp, mối quan hệ tình làng nghiã xóm thắt chặt mọi người lại với nhau thể hiện bằng mối quan tâm tương trợ lẫn nhau mỗi khi tối lửa tắt đèn. Tình cảm yêu thương vượt qua giới hạn của luỹ tre làng để đến với mọi nơi trên đất nước. Một hạt gạo, một gói quà, một tấm áo nghĩa tình gửi đến vùng bị thiên tai ẩn chứa biết bao niềm yêu thương, tình thân ái của những con người thấm nhuần đạo lý sống “ lá lành đùm lá rách”. Từ thành thị đến thôn quê, từ miền xuôi đến miền ngược, đâu đâu ta cũng thấy những tấm lòng yêu thương tương trợ như thế. 

Tinh thần yêu thương, tương trợ nhau thể hiện rõ nhất khi đất nước bị ngoại bang xâm lược. Miền Nam bước vào cuộc chiến đấu, miền Bắc chung vai tương trợ. Những phong trào yêu nước với tinh thần “ Tất cả vì miền Nam thân yêu”, từng đoàn quan Nam tiến “ Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” là tất cả tấm lòng của người dân Việt Nam đối với đồng bào ruột thịt của mình. Có thương yêu nhau ta mới cảm thấy đau đớn xót xa trước cảnh đồng bào bị rên xiết trong xiềng xích gông cùm. Từ tình thương, nhân dân ta chuyển thành sức mạnh, thành tinh thần đoàn kết, thành các hành động góp sức cho công cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược. Nói như lời của Bác, tinh thần yêu nước đoàn kết ay chính là những thứ của báu được gìn giữ truyền đời và phát huy tác dụng vượt cả khộng gian thời gian để tồn tại và phát triển. 

Thế nhưng, trong xã hội không phải không có những người cả đời chỉ lo nghĩ đến quyền lợi cá nhân mình. Họ có thể sống phè phỡn, xa hoa, con em của họ có thể vung tiền qua cửa sổ trong những cuộc chơi thâu đêm suốt sáng, nhưng họ lại không một chút xao động trước nỗi đau của người khác, trước những mảnh đời bất hạnh đang diễn ra xung quanh. Đó là biểu hiện của lối sống ích kỉ nhỏ nhen, đi ngược lại truyền thống đạo lý của dân tộc, đáng cho người đời phê phán. 

Câu ca dao ra đời từ xa xưa, nó là lời đúc kết kinh nghiệm từ thực tế để trở thành bài học đạo lí. Ta có thể bắt gặp bài học này qua nhiều câu có nội dung tương tự: 

“Bầu ơi thương lấy bí cùng 
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn” 

Hay :  

“Khôn ngoan đá đáp người ngoài 
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau” 

Tóm lại, càng thấm nhuần lời dạy của ông cha, tuổi trẻ chúng ta ngày nay phải cố gắng xứng đáng với cha ông ngày trước. Trong giai đoạn đất nước đang trên đà phát triển hiện nay, trước những âm mưu chia rẽ của các thế lực thù địch bên ngoài , việc mỗi người chúng ta phải biết yêu thương đoàn kết với nhau để vượt qua thử thách là điều vô cùng quan trọng.

2 tháng 4 2018

Từ lâu người Việt đã có truyền thống yêu thương đùm bọc lẫn nhau, truyền thống đó càng được thể hiện rõ nếu một cá nhân trong một tập thể, một cộng đồng gặp khó khăn. Để con cháu mãi mãi giữ được truyền thống quý báu đó ông cha ta đã truyền lại câu ca dao mà không con người mang dòng máu Việt Nam quên được:

Nhiễu điều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng

Chúng ta có thể hiểu rằng, nhiễu điều là một tấm vải màu đỏ, có thể nói là vô cùng quí giá và sang trọng trong xã hội thời xưa. Và vật quí giá đó được dùng để phủ lên tấm bài vị của tổ tiên. Tấm vải che chở, đùm bọc cho “giá gương” khỏi những bụi bặm, nhơ bẩn trong cuộc đời. Chính hình ảnh này đã khơi gợi lên hình ảnh yêu thương, sự đùm bọc sẽ chia của nhân dân ta, mà đời đời kiếp kiếp nhân dân giữ gìn, coi trọng nó như một phần của trái tim, một phần của tâm hồn của mình.

Truyền thuyết Con Rồng cháu tiên đã nói cho chúng ta biết chúng ta được sinh ra cùng một tổ tiên. Chúng ta, mỗi người con đất Việt, đều là con cháu của mẹ Âu Cơ và cha Lạc Long Quân, chúng ta cùng sinh ra trong một bọc trăm trứng thần kì. Điều đó có nghĩa là mỗi người, dù ở nơi đâu trên trái đất bao la và rộng lớn này, dù trong bộ phận nhỏ nhất, cũng chảy chung một dòng máu, đó là dòng máu Việt Nam. Chúng ta là anh em, nên yêu thương và che chở cho nhau là một điều tự nhiên và không bao giờ thay đổi. Truyền thuyết là vậy, nhưng cũng từ đó mà nhân dân ta đã tạo nên một sợi dây gắn kết bền chặt, một sợi dây gắn kết những tầm hồn, những tình yêu thương chúng ta dành cho nhau.

Cuộc sống ngày nay đã phát triển, con người được sống sung sướng hơn nhưng vẫn còn đây đó những cảnh đời bất hạnh, đau thương. Dòng đường đời lắm gian truân, nhiều phong ba bão táp, nên sẽ luôn có người ngã xuống, có người thất bại, có người biết tự mình đứng lên, cũng có người sẽ không bao giờ muốn gượng dậy. Nói thì dễ, nhưng để tự đứng dậy khi đã ngã xuống, thì không phải ai cũng làm được. Khi đó, chúng ta sẽ mong mỏi có một bàn tay ấm áp nắm lấy tay ta, kéo ta lên để ta bước tiếp trên con đường phía trước. Và bàn tay đó, không hoa mĩ, không trừu tượng như trong văn thơ đâu, đơn giản: đó là tình yêu. Tình yêu thương con người, tình yêu đồng loại, tất cả, đều là sức mạnh giúp ta đứng lên. Tất nhiên, không phải tình yêu đó sẽ làm cho bạn bất tử, làm cho bạn không bao giờ vấp ngã, nhưng nó sẽ mãi che chở cho ta, làm cho ta ấm lòng, làm cho ta có thêm niềm tin vào cuộc sống này hơn. Để có được tình yêu đó, không phải là điều khó. Nếu ta biết trao sự giúp đỡ, tình yêu của mình cho người khác, thì sẽ có người khác lại giúp đỡ ta, san sẻ tình yêu cho ta. Nếu ai cũng biết chia sẻ tình yêu thương, thì cái thế giới này sẽ thật đầm ấm biết bao.

Sự che chở đùm bọc lẫn nhau sẽ làm cho xã hội ngày càng phát triển, xã hội ngày càng tiến đến sự công bằng, bình đẳng. Nếu như ta coi xã hội này là một vòng xích khổng lồ, thì mỗi cá nhân sẽ là một mắt xích. Một mắt xích bị tách rời, là vòng xích sẽ đứt, nghĩa là một con người không biết gắn kết, thì sẽ là cả một tập thể, cả một xã hội sẽ phần nào bị ảnh hưởng. Thế nên, để cho xã hội có thể phát triển, thì cần phải biết gắn kết người dân lại với nhau, và thứ gắn chặt nhất, chính là tình yêu thương. Vượt lên trên cả điều này, tất cả những điều mà câu ca dao nhắc nhở chúng ta còn là cơ sở cho sự đoàn kết, mà có đoàn kết, chính là có tự do, có sức mạnh, là khẳng định của sự trường tồn vĩnh cửu.

Nếu mỗi chúng ta đều có ý thức tự giác giúp đỡ những con người khó khăn, xã hội sẽ nhanh chóng giàu mạnh. Nhưng có một cái khó khăn, đó là làm sao để 80 triệu con người Việt Nam, 80 triệu con tim cùng hòa chung nhịp đập, cùng biết san sẻ, cùng biết yêu thương lẫn nhau. Để đạt được điều này, đầu tiên, chúng ta cần rèn luyện nhân cách của mình, làm cho bản thân ta biết “cho” và biết “chia sẻ”. Việc rèn luyện là cả một quá trình, ta không thể một sớm một chiều có thể đạt được, mà là phải cố gắng không ngừng, và phải áp dụng nó trong mỗi ngày. Đơn giản nhất, hãy biết đùm bọc, yêu thương những người trong gia đình, những người ta gắn bó nhất. Rồi dần dần, tình cảm đó sẽ nâng lên là yêu thương giúp đỡ người trong một xóm, một phố, một đất nước. Thế giời ngoài kia đang đầy rẫy nhưng bi thảm của những cuộc đời bất hạnh, đang có những bàn tay mong mỏi được giúp đỡ: từ những cơn lũ quét cuốn trôi một tỉnh thành, hay là những bàn tay của trẻ em đang trong độ tuổi đi học lại phải đi ăn xin vì bị bỏ rơi… Điều này đã thối thúc chúng ta cần phải giúp đỡ họ, bằng những công việc cụ thể như quyên góp tiền ủng hộ, hay xây những nhà tình nghĩa cho trẻ em khuyết tật, người già neo đơn, hoặc những chiến dịch hiến máu nhân đạo của các tổ chức, cộng đồng, xã hội. Nó sẽ phần nào đem lại nụ cười cho những người gặp hoạn nạn, một nụ cười hạnh phúc. Tuy nhiên, ngày nay, tình yêu đó còn vượt qua cả biên giới, đó là chúng ta cần phải biết giúp đỡ tất cả mọi người dù họ thuộc quốc gia nào. Điều đó được thể hiện trong chính những hoạt động xã hội như cứu giúp Nhật Bản sau thảm họa, hay việc bảo vệ quyền con người trên các quốc gia. Tất cả góp phần tạo nên sự gắn kết giữa các dân tộc với nhau, làm cho thế giới này trở nên văn minh hơn, tốt đẹp hơn

Truyền tụng câu ca dao trong dân gian không chỉ có ý răn dạy, khuyên nhủ, còn là một trách nhiệm của mỗi con người Việt Nam ta, đó là cần phải biết yêu thương đùm bọc, che chở, đoàn kết giúp đỡ lần nhau. Chúng ta cần phải biết giúp đỡ nhau cùng tiến lên, cùng vượt qua khó khăn để tạo nên một cuộc sống đầy những niềm vui, hạnh phúc và thành công

2 tháng 4 2018

Truyện cổ nào cũng vậy, bao giờ cũng có nói về ông Tiên, ông Bụt,... cho thấy người ở hiền bao giờ cũng gặp lành (được ân trên giúp đỡ). Và trẻ em thì rất thích bởi nó giáo huấn chúng không nên làm điều ác mà phải ở hiền. Chúng yêu mến những câu chuyện có ông, bà Tiên và ông Bụt. Còn riêng em thì em chỉ thích ông tiên trong truyện "Chồng Người, vợ Cá" thôi.

Trong truyện có một anh chàng nghèo, đi chăn trâu cho một lão phú hộ. Có một hôm, anh làm mất trâu; vì không dám quay về (ông phú hộ là người nổi tiếng ác nghiệt nhất trong vùng), sợ lại bị ông đánh nên anh ta đã đi đến một bờ hồ để lẩn tránh và thiếp đi lúc nào không hay. Bỗng có một ông tiên hiện ra đến bên anh và đánh thức anh dậy... Tuy trong câu chuyện không có gì cụ thể về ông Tiên, nhưng theo như trí tưởng tượng của em thì ông sẽ là một ông già, râu dài và trắng buông xuống tận ngực, mái tóc trắng như tuyết, chân mày cũng trắng tựa hoa cúc (trắng), khuôn mặt nhân từ và đẹp. Ông giản dị và giọng nói, giọng cười luôn rành mạch, dứt khoát và mạnh mẽ nhưng lại êm đềm như dòng suối vậy. Tay ống cầm cây phất trần, tướng đi nhẹ nhàng thể hiện vẻ trang nghiêm nhưng giản dị của một người có đầy tài năng. Ông luôn theo bước chân của ta nhưng vì ông đến, rồi đi chỉ theo cơn gió chứ không phải là một con người bằng xương, bằng thịt. Nên chắc rằng các ông Tiên, ông Bụt trong các truyện cổ sẽ như nhau, cũng hiền từ nhân hậu.

Em thích Tiên, Bụt lắm. Vì Tiên, Bụt không làm điều ác và luôn có lòng vị tha, giúp đỡ mọi người. Và để thỏa mãn lòng yêu thích thì em sẽ cố làm một người đầy lòng vị tha giống như các ông vậy.

2 tháng 4 2018

bức thành dài và vững chắc

2 tháng 4 2018

nghĩa là thành dài

(trường là yếu tố Hán-Việt nghĩa là dài)

2 tháng 4 2018

Gulliver du ký" là cuốn sách được cả thế giới đọc trong mấy thế kỷ qua và đã được dịch ra hầu hết các thứ tiếng. Đặc biệt, bạn đọc nhỏ tuổi rất yêu thích những câu chuyện phiêu lưu tưởng tượng kỳ thú, đưa các em đến thế giới của những người tí hon, bé chỉ bằng ngón chân cái, nhưng có cuộc sống chẳng khác gì những người bình thường, rồi lại được đến đất nước của những người khổng lồ, một thế giới kỳ diệu nơi những con người đầy lòng nhân ái, ngay thẳng. Ở đó, con khỉ to bằng con voi và có lần Gulliver phải rút kiếm ra chiến đấu với hai con chuột định xông vào ăn thịt mình... "Gulliver du ký" là cuốn sách của mọi lứa tuổi. Trẻ em tìm thấy ở đó những câu chuyện kỳ lạ, có người tốt, kẻ xấu. Người lớn thì rút ra được những bài học về cách xử thế ở đời. Những nhà tư tưởng thì tìm thấy những lời phê phán chua chát cái xã hội nhỏ nhen là nước Anh đã đương thời, đúng như tầm vóc tí hon của người nước Lilliput và ca ngợi tâm hồn trong sáng, cao đẹp của những người khổng lồ xứ Brobdingnag.

"Gulliver du ký" của Jonathan Swift (1667-1745), được in lần đầu năm 1726 và nhanh chóng được cả thế giới biết đến. Cuốn sách ra đời đã gần ba thế kỷ nhưng đến nay vẫn được nhiều thế hệ độc giả yêu thích và tìm đọc. "Gulliver du ký" là cuốn sách chiến đấu. Nó chống lại những những kẻ thống trị là giai cấp phong kiến và tư sản xấu xa, tàn ác, phản kháng chế độ xã hội bất công, ca ngợi lòng khoan dung, độ lượng và chủ nghĩa nhân đạo. Nhưng tất cả những ước mơ của tác giả chỉ là những tưởng tượng trong thế giới ảo nên ông dễ đi đến bi quan, chán nản.

"Gulliver du ký" là một tác phẩm châm biếm. Tác giả dùng tiếng cười, nhiều khi chua chát, để phê phán thói hư tật xấu của triều đình Lilliput. Nhiều lúc tưởng như ông bênh vực, ca ngợi nước Anh: "Tổ quốc vinh quang", "niềm tự hào của vũ trụ"... nhưng sự thật đó là những lời mỉa mai, chỉ trích sâu sắc. Cũng có khi, tưởng như ông chê bai người nước Brobdingnag "dốt nát", "thiển cận", nhưng sự thật lại là những lời ca ngợi lòng nhân ái, trung thực của những người khổng lồ.

"Gulliver du ký" là một cuốn chuyện "du ký" kể về những cuộc phiêu lưu của Gulliver, có nhiều cảnh tượng hấp dẫn, kỳ thú, nửa như thật, nửa như tưởng tượng, những câu chuyện dí dỏm nhưng mang ý nghĩa sâu xa. Những cảnh tả con tàu trong bão tố hay những con vật khổng lồ, thành phố và cung điện tí hon, chứng tỏ tài năng, óc quan sát tinh tế và trí tưởng tượng phong phú của tác giả. Chính gì vậy, tất cả mọi người - nhất là trẻ em - sẽ còn đọc mãi "Gulliver du ký" của Jonathan Swift.

ĐỖ ĐỨC HIỂU

NHÀ XUẤT BẢN VĂN HÓA THÔNG TIN - 2008

Phần I: Cuộc Du Lịch Đến Xứ Lilliput

Chương 1

Tác giả kể vài ba câu chuyện về bản thân và gia đình - Ông đã ham thích du lịch như thế nào - Đắm tàu - Tác giả thoát chết - Ông bơi được vào bờ biển nước Lilliput - Ông bị cầm tù và giải vào nội địa.

Chương 2

Vua nước Lilliput và đoàn tùy tùng quý tộc đến thăm tác giả lúc bị giam cầm - Miêu tả đức vua, con người và y phục - Những nhà bác học được chỉ định để dạy tiếng Lilliput cho tác giả - Vì tính tình hiền hậu, tác giả được ưu đãi người ta khám xét túi áo, kiếm và súng lục bị tịch thu.

Chương 3

Tác giả giải trí cho đức vua và nam nữ quý tộc một cách hết sức lạ lùng - Miêu tả những trò vui ở cung đình Lilliput - Tác giả được tự do với một số điều kiện.

Chương 4

Miêu tả thủ đô Lilliput, thành phố Mildendo, và cung điện nhà vua. - Câu chuyện trao đổi giữa tác giả và tổng trưởng về việc quốc gia - Tác giả đề nghị phụng sự nhà vua trong chiến tranh.

Chương 5

Nhờ một diệu kế, tác giả đánh tan cuộc xâm lăng - Đức vua phong cho tác giả một tước cao danh dự - Đại sứ nước Blefuscu cầu hòa - Dinh hoàng hậu cháy - Tác giả cứu hỏa.

Chương 6

Nhân dân Lilliput - Khoa học, luật pháp và phong tục - Giáo dục, thiếu nhi - Tác giả sống như thế nào ở xứ sở này - Tác giả bảo vệ một bà phu nhân.

Chương 7

Tác giả suýt bị kết án tử hình, vội trốn sang nước Blefuscu. Nước này nghênh tiếp tác giả như thế nào.

Chương 8

Gặp dịp may mắn, tác giả dời Blefuscu và, sau mấy phen nguy hiểm yên lành trở về Tổ quốc.

Phần II: Cuộc Du Lịch Đến Xứ Brobdingnag

Chương 1

Một trận bão lớn - Chiếc xuồng đi tìm nước ngọt – Tác giả thăm dò hòn đảo, bị bỏ quên trên đảo - Tác giả bị một thổ dân bắt và đưa về nhà một chủ trại - Cuộc đón tiếp và những chuyện sau đó - Miêu tả dân cư trên đảo.

Chương 2

Chân dung cô con gái ông chủ trại - Người ta mang tác giả ra chợ bán, rồi mang lên thủ đô - Chi tiết cuộc hành trình.

Chương 3

Tác giả được lệnh phải vào triều đình - hoàng hậu mua tác giả của ông chủ trại - Hoàng hậu giới thiệu tác cả với đức vua - Bàn luận với những nhà bác học của hoàng thượng - Sửa soạn một căn phòng cho tác giả - Tác giả trở thành thân cận của hoàng hậu và bảo vệ danh dự cho tổ quốc - Xung đột với gã lùn của hoàng hậu.

Chương 4

Miêu tả xứ sở - Đề nghị vẽ lại những bản đồ địa lý tốt hơn - Cung điện nhà vua - Mấy cảnh lượng thủ đô - Tác giả đi du lịch như thế nào - Miêu tả ngôi đền to nhất.

Chương 5

Tác giả gặp nhiều bước gian truân - Một tột phạm bị tử hình - Tác giả trổ tài trong nghề hàng hải.

Chương 6

Mấy sáng kiến làm vui lòng vua và hàng hậu - Tài chơi nhạc của tác giả - Nhà vua hỏi về nước Anh - Lời đáp của tác giả - Nhận xét của nhà vua.

Chương 7

Lòng yêu nước của tác giả - Tác giả đề đạt với vua một kiến nghị có lợi - Kiến nghị bị bác bỏ - Sự dốt nát của nhà vua về vấn đề chính trị - Việc giáo dục thiếu sót và thiển cận ở xứ này - Luật pháp - Đời sống quân sự và các đảng phái trong nước.

Chương 8

Tác giả theo vua và hoàng hậu đi chơi biển - Những chi tiết về việc tác giả dời bỏ xứ này - Trở về nước Anh.

Tập 2 - Lới giới thiệu

"Gulliver du ký" là một cuốn sách gồm bốn phần: "Gulliver đến nước Tí hon", "Gulliver đến nước Khổng lồ", Gulliver đến nước Laputa, Balnibarbi, Luggnagg, Glubbdubdrib, và Nhật bản", "Gulliver đến nước Ngựa-người".

Trước đây, Nhà xuất bản Kim Đồng đã dịch in hai phần đầu, tức là hai cuộc phiêu lưu của Gulliver đến nước Tí hon và Khổng lồ.

Lần này, Nhà xuất bản Kim Đồng sẽ in tiếp hai phần sau.

Ở hai cuộc phiêu lưu sau, vẫn bằng giọng văn vừa hài hước vừa châm biếm, tác giả miêu tả chuyến đi đến Laputa, Balnibarbi, Luggnagg, Glubbdubdrib, và Nhật bản gặp toàn những điều trái với đạo lý, với cuộc sống bình thường, tiếp xúc với những con người dốt nát, kỳ quặc, thiển cận và chuyến đi đến nước Ngựa-người, tiếp xúc với những con người chưa hoàn chỉnh: Ngựa-người, dị dạng, nhưng lại rất tốt, rất trung hậu.

Ở chuyến đi này, tác giả đả kích kịch liệt những thói hư tật xấu của con người chứa chất trong giới quý tộc nước Anh.

Phải nói rằng, ở hai chuyến đi sau, tính triết lý cao hơn, châm biếm sâu cay hơn và do đó có phần cao hơn so với hai phần trước. (Ở hai cuốn phiêu lưu trước, trẻ em sẽ dễ cảm nhận hơn, ít phải suy nghẫm hơn trong khi đọc).

Tuy vậy, toàn bộ các chuyến phiêu lưu của Gulliver đều rất nên in cho trẻ em đọc. Trẻ em đọc "Gulliver du ký" sẽ thấy nhiều điều hài hước ngộ nghĩnh, sẽ tìm thấy nhiều yếu tố giải trí trong cốt truyện.

Chỉ riêng, chỉ riêng người lớn, khi đọc "Gulliver du ký" mới cảm nhận rõ rệt ý đồ sâu sắc của tác giả là thông qua những chuyến đi tưởng tượng, Jonathan Swift phê phán, chỉ trích những thói hư tật xấu, những sự dốt nát của giới quý tộc nước Anh đương thời.

NHÀ XUẤT BẢN KIM ĐỒNG - 1989

Phần III: Cuộc Du Lịch Đến Xứ Laputa, Balnibarbi, Luggnagg, Glubbdubdrib, Và Nhật Bản

Chương 1

Tác giả lên đường đi du lịch lần thứ ba - Tác giả bị bọn cướp biển bắt - Người Hà Lan độc ác - Tác giả trên hoang đảo và được đón vào Laputa.

Chương 2

Tính cách và nếp sống của người Laputa - Khoa học Laputa - Quốc vương và các quần thần của Người - Cuộc tiếp đón tác giả ở hoàng cung - Những nỗi sợ hãi và báo động của người Laputa - Những người vợ Laputa.

Chương 3

Nhiệm vụ được triết học và thiên văn học hiện đại giải quyết - Những thành tựu to lớn của người Laputa trong lĩnh vực thiên văn - Phương pháp của quốc vương đàn áp cuộc khởi nghĩa.

Chương 4

Tác giả rời Laputa - Người ta cho tác giả xuống Balnibarbi - Tác giả thăm thủ đô - Mô tả thủ đô và các vùng phụ cận. Một viên quan hiếu khách tiếp tác giả - Cuộc nói chuyện với viên quan ấy.

Chương 5

Tác giả quan sát Viện Hàn Lâm ở Lagado - Mô tả chi tiết Viện hàn lâm - Các môn khoa học và nghệ thuật mà các giáo sư nghiên cứu.

Chương 6

Tiếp tục mô tả Viện hàn lâm. - Tác giả đưa ra một số cải tiến được mọi người tiếp thu với lòng biết ơn.

Chương 7

Tác giả rời Lagado. - Chuyến đi đến Maldonada. - Trên bến cảng không có một con tàu nào rời đi Luggnagg. - Tác giả thực hiện một chuyến đi ngắn đến Glubbdubdrib. Sự đón tiếp của nhà cầm quyền đảo này với tác giả.

Chương 8

Tiếp tục mô tả Glubbdubdrib - Những sửa đổi đối với lịch sử cổ đại và cận đại.

Chương 9

Tác giả quay lại Maldonada và bơi đến vương quốc Luggnagg - Tác giả bị bắt. - Người ta mời tác giả vào cung đình - Thái độ khoan dung của quốc vương với các thuộc hạ của mình.

Chương 10

Lời khen đối với người Luggnagg - Mô tả chi tiết struldbrug - Cuộc trò chuyện của tác giả về struldbrug với một số người nổi tiếng.

Chương 11

Tác giả rời Luggnagg và đi đến Nhật bản - Từ đây tác giả quay về Amsterdam trên một con tàu Hà Lan và từ Amsterdam về nước Anh.

Phần IV: Cuộc Du Lịch Đến Đất Nước Ngựa-Người

Chương 1

Tác giả rời Luggnagg và đi đến Nhật bản - Từ đây tác giả quay về Amsterdam trên một con tàu Hà Lan và từ Amsterdam về nước Anh.

Chương 2

Ngựa-người dẫn tác giả đến nhà ở của mình - Mô tả căn nhà này - Cuộc đón tiếp với tác giả - Thức ăn của Ngựa-người - Tác giả băn khoăn là mình sẽ ăn gì ở đất nước này - Lối thoát khỏi tình thế khó xử - Ở đây tác giả đã ăn uống như thế nào.

Chương 3

Tác giả chăm chỉ học tiếng đại phương. - Ngựa-người chủ nhân của tác giả giúp ông học tập. - Ngôn ngữ Houyhnhnm. - Nhiều Ngựa-người quý tộc đến xem tác giả. - Ông kể vắn tắt các chuyến du lịch của mình cho chủ nhân.

Chương 4

Khái niệm của Người-ngựa về chân lý và sự giả dối. - Câu chuyện của tác giả dẫn tới sự công phẫn của chủ nhân. - Chuyện kể chi tiết hơn của tác giả về mình và các chuyến đi của mình.

Chương 5

Theo đề nghị của chủ nhân tác giả giới thiệu cho ông về tình hình đất nước Anh. - Các nguyên nhân chiến tranh giữa các quốc gia châu Âu. - Tác giả bắt đầu trình bày về hiến pháp Anh.

Chương 6

Tiếp tục mô tả nước Anh. - Vai trò của thủ tướng hay người đứng đầu cung đình châu Âu.

Chương 7

Tình yêu của tác giả với Tổ quốc. - Các nhận xét của chủ nhân với chính thể Anh. - Các quan sát của ông đối với bản chất con người.

Chương 8

Tác giả mô tả một số đặc điểm của Yahoo. - Những Ngựa-người tốt bụng vĩ đại. - Sự giáo dục thế hệ trẻ. - Tổng Hội đồng của các Ngựa-người.

Chương 9

Các cuộc thảo luận lớn của hội đồng Ngựa-người. - Những công việc của Ngựa-người. - Các công trình của họ. - Các nghi lễ mai táng. - Những thiếu sót trong ngôn ngữ của họ.

Chương 10

Công việc nội trợ của tác giả và cuộc hạnh phúc của ông giữa Ngựa-người. - Ông hoàn thiện các phẩm hạnh. - Chủ nhân báo cho tác giả biết ông cần phải rời khỏi đất nước này. - Nỗi tuyệt vọng của tác giả khi nghe tin này. - Nhờ sự giúp đỡ của những người hầu tác giả sửa chữa con thuyền cho mình. - Tác giả ra khơi tùy vào may rủi.

Chương 11

Chuyến du lịch nguy hiểm. - Tác giả đến New Zealand và dự định ở lại đó. - Một thổ dân đã bắn tên khiến ông bị thương. - Ông bị bắt và cưỡng bức nhốt trong con tàu Bồ Đào Nha. - Thuyền trưởng đối xử tử tế với ông. - Tác giả quay trở lại nước Anh.

Chương 11

Sự ngay thật của tác giả. - Các mục tiêu mà ông đeo đuổi khi công bố tuyển tập này. - Ông chỉ trích các nhà du lịch xa rời chân lý. - Tác giả chứng minh mình không có ý định xấu khi viết cuốn sách này. - Trả lời lại một phản đối. - Phương pháp thiết chế thực dân. - Ca ngợi Tổ quốc. - Quyền lực hiển nhiên của vương miện ở các nước mà tác giả mô tả. - Khó khăn khuất phục họ. - Tác giả chia tay hoàn toàn với các độc giả. - Ông trình bày kế hoạch sống tương lai của mình, đưa ra những lời khuyên tốt và kết thúc cuốn sách.
PHẦN I: CUỘC DU LỊCH ĐẾN XỨ LILLIPUT - CHƯƠNG 1

Cha tôi có một trang trại nhỏ tại vùng Nottingham. Cha tôi có năm con trai, tôi là thứ ba. Năm mười bốn tuổi, tôi đến Cambridge theo học trường Emanuel. Ba năm trời, tôi học chăm chỉ. Chẳng may, số tiền nuôi tôi ăn học tuy chẳng đáng là bao, nhưng số tiền ấy cũng đã trở thành một gánh nặng cho gia đình vốn nghèo túng. Thế là tôi bị gửi đi tập việc tại nhà giải phẫu danh tiếng của ông James Bates, một nhà giải phẫu nổi tiếng ở Luân Đôn. Tôi tập việc ở đấy bốn năm. Thỉnh thoảng, cha tôi gửi cho tôi ít tiền. Tôi dùng số tiền này để học nghề hàng hải và những môn toán cần thiết cho người đi biển, bởi vì tôi luôn luôn nghĩ rằng, một ngày mai đây, đó phải là số mệnh của tôi. Sau khi từ biệt ông Bates, tôi trở về nhà. Cha tôi, chú tôi là John cùng vài ba người họ hàng thân thân nữa gom góp cho tôi món tiền bốn mươi sterling và hứa hằng năm sẽ cung cấp cho tôi ba mươi sterling để tôi ăn học ở Leyden. Tôi học ngành thuốc trong thời gian hai năm, bảy tháng, tôi biết rằng nghề chữa bệnh này rất cần thiết cho những cuộc du lịch lâu dài.

Ở Leyden về nhà chẳng được bao lâu, tôi được ông Bates giới thiệu cho làm một chân thầy thuốc trên tàu Con Nhạn, dưới quyền chỉ huy của thuyền trưởng Abraham Pannel. Tôi làm việc với ông ta ba năm ruỡi, đi một vài chuyến sang vùng biển phương Đông và vài ba nơi khác trên thế giới. Về đến nhà, tôi quyết định ở lại Luân Đôn. Ông Bates khuyến khích tôi ở lại, giới thiệu cho tôi nhiều bệnh nhân của ông. Tôi thuê một ngôi nhà nhỏ ở xóm Jewry. Nghe lời mọi người khuyên nên lấy vợ, tôi cưới cô Mary Burton, con gái thứ hai ông Edmund Burton, một người làm nghề khâu mũ vải ở phố Newgate. Tôi được hưởng của hồi môn trị giá bốn trăm sterling.

Nhưng hai năm sau, ông Bates - thầy học của tôi - qua đời. Tôi vốn ít giao thiệp nên công việc bắt đầu sút dần, vì lương tâm không cho phép tôi bắt chước dùng những mánh khóe như một số bạn đồng nghiệp. Sau khi bàn bạc với vợ tôi và mấy người bạn, tôi quyết định lại đi biển. Tôi nhận chân thầy thuốc trên hai con tàu. Và trong sáu năm trời, tôi đã đi nhiều chuyến sang Nam Dương và sang Mỹ. Nhờ vậy mà số tiền tôi để dành đã được kha khá. Những lúc rỗi, tôi có đọc các tác giả cổ kim hay nhất, vốn lúc nào tôi cũng mang theo sách bên mình. Khi lên đất liền, tôi quan sát phong tục tập quán của người địa phương và học tiếng nói của họ, vì trí nhớ của tôi rất tốt nên tôi học khá dễ dàng.

Chuyến đi cuối cùng của tôi không may mắn lắm, nên tôi chán nghề đi biển và quyết định ở nhà với vợ con. Tôi dời nhà khỏi khu Old Jewry, sang khu Fetter Lane, rồi sang khu Wapping, với niềm hy vọng kiếm được nhiều việc làm với anh em thủy thủ. Nhưng tôi đã tính toán sai. Sau ba năm cố gắng thu xếp công việc không có kết quả, tôi nhận lời thuyền trưởng William Prichard, chỉ huy tàu Antelope đi về biển phương Nam. Ngày 4 tháng 5 năm 1699, chúng tôi dời bến Bristol. Thoạt đầu, chuyến đi rất thuận buồm xuôi gió.

Tôi sẽ làm bạn đọc khó chịu nếu tôi kể tỉ mỉ với các bạn những cuộc phiêu lưu trên mặt biển phương Nam. Bạn đọc chỉ cần biết rằng, khi chúng tôi đang tiến về phía quần đảo Nam Dương, thì một cơn bão dữ dội cuốn thuyền chúng tôi về hướng tây bắc miền Van Diemen. Khi định được phương hướng, chúng tôi thấy mình đang ở vĩ tuyến nam 30 độ 2 phút. Mười hai người trong đoàn thủy thủ đã chết vì kiệt sức và thiếu ăn, những người còn sống trông rất thảm hại. Ngày 5 tháng mười một nghĩa là vào đầu mùa hè ở cái phần quả địa cầu này, qua màn sương mù dày đặc một thủy thủ bỗng thấy một mỏm đá cách tàu có một sải tay. Nhưng gió thổi mạnh quá, tàu đâm sầm vào tảng đá. Sáu anh em chúng tôi thả được chiếc sà-lúp xuống biển, cố sức bơi xa con tàu và mỏm đá. Chèo mãi, chèo mãi, chúng tôi đi được ba dặm. Nhưng kiệt sức vì những công việc chống chọi trên con tàu lúc trước nên chúng tôi không còn hơi để chèo nữa và chúng tôi mặc cho sóng cuốn di. Khoảng nửa giờ sau, một cơn gió giật lật úp sà-lúp.

Số phận năm người bạn và những thủy thủ mắc ở mỏm đá, tôi không biết ra sao. Nhưng chắc họ chết cả rồi. Một mình tôi cứ thế bơi theo hướng gió thổi và thủy triều. Nhiều khi tôi đưa chân quờ quạng xem đã tới đất chưa, nhưng chẳng thấy gì. Đúng lúc tôi đã kiệt sức, định bỏ cuộc chiến đấu, thì chân tôi chạm tới đất, lúc này bão đã ngớt. Dốc thoai thoải kéo dài nên tôi phải lần đi gần một dặm mới tới bờ. Lúc ấy chắc đã tám giờ tối. Tôi tiếp tục đi gần nửa dặm nữa mà chẳng thấy dấu vết nhà cửa hay bóng người. Hoặc, vì mệt quá nên tôi chẳng trông thấy gì. Đã kiệt sức lại thêm nóng bức, và tôi đã uống nửa chai rượu mạnh lúc dời bỏ con tàu, nên lúc này tôi buồn ngủ quá. Tôi nằm lăn xuống bãi cỏ rất mịn, ngủ một giấc say như chết khoảng chín tiếng đồng hồ, vì lúc thức dậy, trời đã hửng sáng. Tôi cố ngồi dậy nhưng không sao động đậy được. Đúng thế, lúc ấy tôi nằm ngửa, tôi thấy hai tay hai chân tôi bị trói chặt xuống đất, cả cái mớ tóc dài và rậm của tôi cũng bị buộc chặt xuống đất. Cả mình tôi, suốt từ nách đến đùi, đầy những dây rợ mỏng manh chằng chịt. Tôi chỉ có thể nằm ngửa nhìn trời mà thôi. Mặt trời đã lên cao làm tôi chói cả mắt. Tôi nghe thấy tiếng rì rầm, nhưng tôi nằm kiểu ấy nên chẳng thấy gì ngoài bầu trời. Một lát sau, tôi thấy một cái gì động đậy, bò bò trên chân trái tôi, nhẹ nhàng tiến lên đến ngực, rồi đến cằm. Tôi cố hết sức cúp mắt nhìn xuống thì thấy đó là một người bé tí xíu cao độ 6 inch, tay cung, tay tên, lưng đeo một cái ống đựng tên. Cùng lúc ấy, tôi đoán phỏng chừng bốn mươi người khác, cũng cỡ ấy đang đi theo anh ta.

Kinh ngạc hết sức, tôi gầm lên làm cả toán khiếp hãi bỏ chạy tán loạn. Sau này, người ta kể cho tôi biết số người tí hon ấy xô nhau nhảy từ sườn tôi xuống đất đã bị thương. Nhưng rồi họ quay trở lại và một người liều mình đến tận mặt tôi xem cho rõ, rồi mắt nhìn lên trời, hai tay giơ cao lên, ra vẻ thán phục lắm và kêu lên một tiếng tuy the thé nhưng rõ ràng: Hekinah degul. Những người khác nhắc lại nhiều lần những tiếng ấy, nhưng tôi chẳng hiểu gì hết. Trong khi ấy, tôi cứ nằm trong cái thế rất bất tiện, như bạn đọc có thể hình dung được. Sau cùng, tôi lấy hết sức bình sinh để tự giải phóng, may thay những dây trói và cọc buộc tay trái tôi đứt bung. Tôi giơ tay lên mặt và biết cách họ đã trói tôi như thế nào. Cùng lúc ấy, tôi lắc đầu mạnh một cái và thấy đau điếng. Những dây buộc tóc tôi về phía trái chùng lại một chút, thế là tôi có thể ngóc đầu được vài phân. Nhưng, những chú bé tí hon ấy lại ù té chạy, tôi chẳng bắt được chú nào. Rồi những tiếng hò vang dậy. Sau đó một người hô to: tolgo phonac. Bỗng tôi thấy hàng trăm mũi tên cắm phập vào bàn tay trái, như hàng trăm mũi kim. Họ còn bắn một loạt súng lên không, như thể ta bắn đại bác vậy. Nhiều mũi tên bắn trúng người tôi (mặc dù tôi chẳng cảm thấy gì), bắn trúng mặt tôi, tôi vội vàng đưa bàn tay trái lên che mặt. Khi cơn mưa tên chấm dứt, tôi rên lên vì buồn bực và đau đớn. Tôi cố giằng cho đứt dây trói một lần nữa, tức thì lại một trận mưa tên vèo vèo, mau hơn đợt trước. Một số kẻ còn lấy giáo đâm vào sườn tôi. Cũng may tôi mặc cái áo da trâu, nên không sao cả. Tôi nghĩ không nên động đậy nữa là khôn hơn cả và định cứ nằm ì ra đó đến tận đêm tối, khi đó tôi sẽ dùng tay trái để cởi tất cả dây trói. Còn đối với dân cư xứ này, tôi tính một mình tôi có thể đương đầu với một đoàn quân lớn, miễn là người nào cũng bé nhỏ như những người tôi vừa trông thấy. Tôi có ý định như vậy, nhưng số phận lại quyết định cách khác. Thấy tôi nằm im, họ thôi không bắn nữa. Nghe tiếng ầm ầm, tôi biết là họ kéo đến ngày một đông hơn. Cách tôi chừng hai fathom [1] về bên tay phải, tôi nghe thấy tiếng những người thợ đang đóng cái gì. Tôi cố hết sức ngoái đầu lại và nhìn thấy một cái bục cao có bốn người đứng và có hai hay ba cái thang.

Đứng trên bục, một người có vẻ quyền cao chức trọng đang đọc một bài diễn văn dài cho tôi nghe, nhưng tôi chẳng hiểu được đến một chữ. Nhưng trước tiên, cần biết rằng trước khi đọc bản hiệu triệu, nhân vật này đã kêu lên ba lần: lang ro dehul san (những tiếng này, cũng như những tiếng tôi đã kể bên trên, sẽ được nhắc lại và sẽ được giải thích ở bên dưới). Sau bài diễn văn, chừng năm chục người đến cắt những sợi dây buộc phía đầu bên trái tôi, thế là tôi tha hồ ngoảnh sang bên phải để quan sát dáng điệu của người vừa đọc diễn văn. Có lẽ anh ta trạc tuổi trung niên và trông có vẻ bệ vệ hơn ba anh kia. Một anh là người hầu, bởi vì tôi thấy anh này nâng vạt áo sau của anh trước và chỉ nhỉnh hơn ngón tay giữa của tôi một chút. Hai người khác thì kẻ đứng bên phải, người đứng bên trái để giúp anh ta. Quả anh ta là một nhà hùng biện có tài, tôi có thể nhận thấy nhiều đoạn đe dọa và nhiều đoạn hứa hẹn, rộng lượng và khoan dung. Tôi đáp lại vài ba lời bằng một giọng quy phục, tay trái giơ lên và mắt ngước nhìn mặt trời như thể muốn là trời làm chứng giám. Tôi đói gần chết, bởi vì trước khi dời con tàu, từ lâu tôi không được ăn uống gì. Thôi thì mặc những phép tắc của lối xã giao tối thiểu, bởi vì dạ dày tôi lúc đó đang gào thét, tôi nóng lòng nóng ruột đưa ngay mấy ngón tay vào mồm, ra ý đòi ăn. Viên quan hurgo (tiếng gọi viên quan đại thần, theo như tôi hiểu từ ấy) hiểu ngay. Ông ta xuống đất và ra lệnh cho bắc nhiều thang bên sườn tôi. Trên một trăm người leo lên thang, tiến về phía miệng tôi, họ vác những thúng thịt đầy ăm ắp. Những thức ăn đó đã được chuẩn bị và cung cấp theo lệnh của nhà vua, ngay từ khi vua được tin tôi đến xứ sở của ngài. Tôi nhận ra các loại thịt của một thú vật, nhưng không phân biệt được đích xác thịt gì. Có thịt vai, có chân giò, lườn, thái từng miếng như thịt cừu, làm rất khéo nhưng nhỏ hơn cánh chim cắt. Tôi nhai hai ba miếng một lần và chén một miếng ba khoanh bánh to bằng viên đạn súng hỏa mai. Những người tí hon ra sức xúc rất nhanh cho tôi, ai nấy đều tỏ vẻ hết sức thán phục và ngạc nhiên trước cái thân hình khổng lồ và sức ăn ghê gớm của tôi. Sau đó tôi ra hiệu muốn uống nước. Thấy tôi ăn nhiều như thế, những người tí hon đoán chắc tôi uống không ít. Rất khéo léo và tài tình, họ đưa được lên bàn tay tôi cái thùng ton-nô to nhất rồi tháo nắp ra. Tôi uống một hơi cạn thùng, cái đó chẳng có gì lạ, bởi vì nó chỉ bằng một chén nước, vị gần giống như rượu vang Burgundy hảo hạng và ra hiệu còn muốn uống nữa, nhưng không còn thùng nào. Sau khi thấy tôi lập những chiến công lừng lẫy như vậy, họ hò reo vui vẻ và vừa nhảy múa trên ngực tôi vừa nhắc lại nhiều lần mấy tiếng lúc trước: hekinah degul. Họ ra hiệu cho tôi ném hai cái thùng xuống. Họ hét lên mấy tiếng: borach mevolah để bảo mọi người tránh ra xa. Khi thấy mấy cái thùng tung lên trời, họ đồng thanh reo lên: hekinah degul. Thú thật là khi họ đi đi lại lại trên người tôi, lắm lúc tôi muốn túm lấy bốn, năm chục chú, vứt xuống đất. Nhưng nhớ lại sự đau đớn, và chắc đó chưa phải là những đòn đau nhất họ có thể dành cho tôi, và nhớ lại lời hứa danh dự khi tôi có vẻ quy phục, tôi vội vàng bỏ cái ý định điên rồ ấy đi. Thêm nữa, bây giờ tôi tự coi như đã bị ràng buộc vào những quy tắc của một người khách đối với một dân tộc đã đón tiếp tôi một cách khoan dung và trang trọng như vậy. Và, càng suy nghĩ, tôi càng khâm phục lòng can đảm của những chú bé tí hon đã có gan trèo lên mình tôi, đi đi lại lại trong khi một tay tôi không bị trói, và họ không hề run sợ khi trông thấy một sinh vật kỳ dị như tôi. Một lát sau, thấy tôi không đòi ăn nữa, một viên quan đại thần, nhân danh đức vua, ra trước mắt tôi. Ông ta trèo lên chân phải tôi, cùng mười hai người tùy tùng tiến lên mặt tôi.

Ông quan đại thần mở ra một giấy ủy nhiệm có áp triện rồng rồi đặt trước mặt tôi, ông ta nói một hồi đến mười phút, giọng không có gì giận dữ nhưng rất kiên quyết, nhiều lần giơ tay về một phía - sau này tôi mới hiểu là phía thủ đô, cách khoảng nửa dặm, nơi hoàng thượng cùng Hội đồng đã quyết nghị dời tôi về đấy. Tôi đáp lại vài ba tiếng, nhưng mất công toi. Tôi liền lấy tay trái làm hiệu tôi muốn được hoàn toàn tự do, bằng cách áp tay trái vào cánh tay phải - cố tránh giơ tay qua đầu viên quan, sợ đụng phải ông ta và đoàn tùy tùng. Hình như ông ta hiểu cả, bởi vì ông ta lắc đầu và lấy tay làm hiệu cho tôi biết rằng tôi sẽ bị khiêng đi như một người tù. Song, ông ta lại ra hiệu cho tôi biết, tôi sẽ được ăn uống đầy đủ và sẽ được đối đãi tốt. Thấy vậy, một lần nữa, tôi muốn dứt những dây trói. Nhưng nghĩ đến nhưng mũi tên cắm tua tủa trên mặt và tay, nay nhiều nốt đã sưng vù và còn nhiều mũi tên vẫn cắm chặt vào thịt, tôi đành quyết định phải quy phục không điều kiện. Thế là viên Hurgo và đoàn tùy tùng rút lui với những lễ nghi rất lịch sự. Một lát, tôi nghe thấy tiếng hò reo, mấy tiếng: peplom selan luôn luôn được nhắc lại. Tôi cảm thấy một đoàn người rất đông đang nới bớt dây trói cho tôi ở phía sườn bên trái. Thế là tôi có thể quay mình sang bên phải, cứ thế đái một bãi to tướng, nhẹ hẳn người. Những người xung quanh hết sức ngạc nhiên, họ thấy tôi cử động và đoán được tôi sẽ làm gì, nên tức khắc giạt ra hai bên để tránh con suối cứ tồ tồ và dữ dội phun ra từ người tôi. Trước đó, họ xoa lên mặt và tay tôi một thứ dầu thơm mát, làm cho chỉ vài phút sau những vết thương dịu hẳn đi. Đã dễ chịu như thế, lại thêm một bữa ăn uống no nê, nhiều chất bổ, nên tôi buồn ngủ díp mắt lại. Tôi đánh một giấc tám tiếng đồng hồ liền - sau này người ta bảo tôi như vậy. Cái đó chẳng có gì lạ, bởi vì, theo lệnh của nhà vua, thầy thuốc đã pha thuốc ngủ vào hai thùng rượu.

Hình như vừa thấy tôi nằm ngủ trên bờ biển, người ta báo tin ngay cho đức vua. Hội đồng họp và quyết nghị tôi sẽ bị trói như đã kể bên trên (tôi bị trói lúc ban đêm, khi tôi ngủ li bì), thức ăn và đồ uống được đưa đến cho tôi và người ta chuẩn bị một cái xe để chở tôi về thủ đô.

Theo tôi, quyết định cuối cùng này táo bạo và nguy hiểm. Và tôi tin rằng, trong những trường hợp tương tự, không một ông vua nào ở châu Âu dám làm như thế cả. Song, theo tôi nghĩ, đó là một hành động khôn ngoan và độ lượng. Bởi vì, giả dụ những người tí hon này định giết tôi bằng cung tên và giáo mác trong lúc tôi ngủ, tôi có thể bị đau mà thức dậy, lúc ấy, tôi sẽ phát cáu lên, và sức khỏe có thể tăng gấp bội, đủ để dứt tung dây trói. Thế là, họ đâu có đủ sức chống lại tôi, họ có thể bị giết sạch.

Những người tí hon là những nhà toán học tuyệt vời và có một kỹ thuật hoàn hảo, bởi vì đức vua của họ vốn nổi tiếng là ưu đãi các nhà khoa học, thường khuyến khích nghiên cứu các công trình kỹ thuật. Vua có nhiều máy đặt trên bánh xe để chuyên chở gỗ và các đồ vật nặng khác. Nhiều khi, vua cho đóng tàu chiến lớn ở ngay trong rừng (có những chiếc tàu dài tới chín mươi foot[2]) và cho vận chuyển đến tận biển, cách đó có khi tới một trăm rưỡi hay hai trăm fathom.

Năm trăm thợ mộc và kỹ sư tức khắc được huy động để làm ngay một cái máy đồ sộ nhất. Đó là một cái khung bằng gỗ, cao hơn mặt đất ba inch dài chừng bảy foot, rộng bốn foot, đặt trên hai mươi hai bánh xe. Những tiếng hò reo tôi nghe thấy lúc nãy là do người ta thấy cái máy ấy được chuyển tới. Cái máy được hoàn thành không quá bốn tiếng đồng hồ. Người ta đặt nó song song với chiều tôi nằm. Điều khó nhất là nhấc được tôi và đặt lên xe. Hai mươi hai cái cọc cao một foot đã được nối bằng những cái móc, móc vào nhưng dây băng dài quấn quanh cổ, tay, chân và mình tôi. Chín trăm người được lựa chọn cẩn thận, có trách nhiệm kéo những dây thừng buộc vào cột có bánh xe. Thế là chưa đến ba tiếng đồng hồ, người ta nhấc được tôi lên và đặt trên xe, rồi trói chặt tôi lại. Tất cả những câu chuyện này, về sau tôi được nghe kể lại, bởi vì lúc ấy tôi ngủ li bì. Một nghìn rưỡi con ngựa khỏe nhất của vua - mỗi con cao chừng bốn inch rưỡi - kéo tôi về thủ đô, ở cách đấy một nửa dặm, như tôi đã nói.

Chúng tôi lên đường được chừng bốn giờ thì bất thần một việc làm ngu ngốc đánh thức tôi dậy. Lúc ấy, chiếc xe dừng lại một lát để sửa một bộ phận bị trục trặc, ba hay bốn cậu thanh niên tò mò muốn xem tôi lúc ngủ. Các cậu leo lên xe, rón rén tiến đến mặt tôi. Một cậu - một sĩ quan cận vệ - lấy ngọn giáo thọc khá sâu vào lỗ mũi bên trái của tôi. Tôi thấy buồn buồn như có cọng rơm cù lỗ mũi, liền hắt hơi một cái. Thế là các cậu nhanh nhẹn lủi mất. Ba tuần lễ sau tôi mới biết tôi bị đánh thức dậy như thế nào. Suốt ngày hôm ấy, chúng tôi đi như vậy. Đêm đến, năm trăm người canh gác tôi, cả bên phải và bên trái, kẻ cầm đuốc, người cầm tên và nỏ, tư thế sẵn sàng nhả tên nếu tôi động đậy. Khi mặt trời mọc, chúng tôi lại đi, đến giữa trưa, thì còn cách cổng thành chừng một trăm fathom. Hoàng thượng và cả triều đình ra đón chúng tôi nhưng các vị tướng cao cấp nhất định không để cho hoàng thượng leo lên mình tôi, sợ nguy hiểm đến tính mệnh.

Nơi cỗ xe đỗ có một ngôi đền cổ, là nơi rộng nhất vương quốc. Cách đây mấy năm, ở nơi này xảy ra một vụ giết người gớm ghiếc, nên theo tôn giáo của xứ sở nơi đó bị coi là một nơi uế tạp. Bởi vậy, nó chỉ còn dùng vào việc bình thường, mọi vật trang hoàng, bàn ghế đều bị mang đi hết. Đấy, tôi phải ở nơi như thế. Cái cổng lớn quay về phương bắc, cao bốn foot, rộng gần hai foot tôi có thể bò toài vào một cách dễ dàng. Hai bên cổng có cửa sổ cao hơn mặt đất gần sáu inch. Những thợ rèn của nhà vua đã luồn qua cửa sổ bên trái chín mươi mốt cái xích to bằng dây đeo đồng hồ của phụ nữ châu Âu, người ta quấn dây xích vào cổ chân tôi rồi khóa lại bằng ba mươi sáu cái khóa. Bên kia đường cái, trước mặt ngôi đền, cách xa chừng hai mười foot, có một cái tháp cao ít nhất là năm foot. Vua thường leo lên đấy cùng với các quan đại thần để nhìn tôi - sau này người ta kể lại cho tôi biết, bởi vì tôi không thể trông thấy họ. Người ta ước tính có đến trên mười vạn dân thủ đô ra ngoại thành để xem tôi. Và mặc dù lính gác ngăn cản, tôi tính có đến một vạn người dùng thang leo lên mình tôi. Về sau, một sắc lệnh cấm mọi người làm như vậy, ai vi phạm sẽ bị xử tử. Khi những người thợ chắc chắn rằng tôi không thể dứt xiềng xích ra được, người ta mới cởi mọi dây trói. Thế là tôi ngồi dậy, lòng buồn tê tai. Thấy tôi ngồi dậy, mọi người tỏ vẻ sửng sốt và ngạc nhiên không sao tả được. Xích quấn chân trái tôi dài khoảng sáu foot, khiến tôi không những đi lại được một nửa vòng tròn, mà còn có thể bò toài được vào ngôi đền và nằm dài trong đó.

2 tháng 4 2018

Phần I: Cuộc Du Lịch Đến Xứ Lilliput

Chương 1

Tác giả kể vài ba câu chuyện về bản thân và gia đình - Ông đã ham thích du lịch như thế nào - Đắm tàu - Tác giả thoát chết - Ông bơi được vào bờ biển nước Lilliput - Ông bị cầm tù và giải vào nội địa.

Chương 2

Vua nước Lilliput và đoàn tùy tùng quý tộc đến thăm tác giả lúc bị giam cầm - Miêu tả đức vua, con người và y phục - Những nhà bác học được chỉ định để dạy tiếng Lilliput cho tác giả - Vì tính tình hiền hậu, tác giả được ưu đãi người ta khám xét túi áo, kiếm và súng lục bị tịch thu.

Chương 3

Tác giả giải trí cho đức vua và nam nữ quý tộc một cách hết sức lạ lùng - Miêu tả những trò vui ở cung đình Lilliput - Tác giả được tự do với một số điều kiện.

Chương 4

Miêu tả thủ đô Lilliput, thành phố Mildendo, và cung điện nhà vua. - Câu chuyện trao đổi giữa tác giả và tổng trưởng về việc quốc gia - Tác giả đề nghị phụng sự nhà vua trong chiến tranh.

Chương 5

Nhờ một diệu kế, tác giả đánh tan cuộc xâm lăng - Đức vua phong cho tác giả một tước cao danh dự - Đại sứ nước Blefuscu cầu hòa - Dinh hoàng hậu cháy - Tác giả cứu hỏa.

Chương 6

Nhân dân Lilliput - Khoa học, luật pháp và phong tục - Giáo dục, thiếu nhi - Tác giả sống như thế nào ở xứ sở này - Tác giả bảo vệ một bà phu nhân.

Chương 7

Tác giả suýt bị kết án tử hình, vội trốn sang nước Blefuscu. Nước này nghênh tiếp tác giả như thế nào.

Chương 8

Gặp dịp may mắn, tác giả dời Blefuscu và, sau mấy phen nguy hiểm yên lành trở về Tổ quốc.

Phần II: Cuộc Du Lịch Đến Xứ Brobdingnag

Chương 1

Một trận bão lớn - Chiếc xuồng đi tìm nước ngọt – Tác giả thăm dò hòn đảo, bị bỏ quên trên đảo - Tác giả bị một thổ dân bắt và đưa về nhà một chủ trại - Cuộc đón tiếp và những chuyện sau đó - Miêu tả dân cư trên đảo.

Chương 2

Chân dung cô con gái ông chủ trại - Người ta mang tác giả ra chợ bán, rồi mang lên thủ đô - Chi tiết cuộc hành trình.

Chương 3

Tác giả được lệnh phải vào triều đình - hoàng hậu mua tác giả của ông chủ trại - Hoàng hậu giới thiệu tác cả với đức vua - Bàn luận với những nhà bác học của hoàng thượng - Sửa soạn một căn phòng cho tác giả - Tác giả trở thành thân cận của hoàng hậu và bảo vệ danh dự cho tổ quốc - Xung đột với gã lùn của hoàng hậu.

Chương 4

Miêu tả xứ sở - Đề nghị vẽ lại những bản đồ địa lý tốt hơn - Cung điện nhà vua - Mấy cảnh lượng thủ đô - Tác giả đi du lịch như thế nào - Miêu tả ngôi đền to nhất.

Chương 5

Tác giả gặp nhiều bước gian truân - Một tột phạm bị tử hình - Tác giả trổ tài trong nghề hàng hải.

Chương 6

Mấy sáng kiến làm vui lòng vua và hàng hậu - Tài chơi nhạc của tác giả - Nhà vua hỏi về nước Anh - Lời đáp của tác giả - Nhận xét của nhà vua.

Chương 7

Lòng yêu nước của tác giả - Tác giả đề đạt với vua một kiến nghị có lợi - Kiến nghị bị bác bỏ - Sự dốt nát của nhà vua về vấn đề chính trị - Việc giáo dục thiếu sót và thiển cận ở xứ này - Luật pháp - Đời sống quân sự và các đảng phái trong nước.

Chương 8

Tác giả theo vua và hoàng hậu đi chơi biển - Những chi tiết về việc tác giả dời bỏ xứ này - Trở về nước Anh.

MK CHỈ KỂ TÓM TẮT THÔI NHA MUỐN ĐẦY ĐỦ THÌ BN LÊN MẠNG MÀ XEM NHA

2 tháng 4 2018

- Sinh sản vô tính là hình thức sinh sản không có sự kết hợp giữa tế bào sinh dục đực và cái

- Sinh sản hữu tính là hình thức sinh sản có sự kết hợp giữa tế bào sinh dục đực và cái

2 tháng 4 2018

- Sinh sản vô tính là hình thức sinh sản không có sự kết hợp giữa tế bào sinh dục đực và cái

- Sinh sản hữu tính là hình thức sinh sản có sự kết hợp giữa tế bào sinh dục đực và cái.

Chúc bn hk tốt !