K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

4 tháng 12 2017

vì tim người này bị ngừng đập

4 tháng 12 2017

boi vi no thich chet thi no chet  thoi

6 tháng 12 2017

3. Những cơn mưa ngày thường kéo tôi đến với những nỗi buồn bất tận nhưng có lẽ lúc đó những người thân trong gia đình thường quan tâm đến nhau nhiều hơn. Có những khi xa nhau nghìn trùng cách trở chỉ cần nhìn vào những cơn mưa lại kéo mọi người xích gần lại nhau hơn.

Trong cơn mưa tâm hồn thường được gột rửa một cách lạ kỳ. Tôi phát hiện ra khi lũ qua mọi người thường hướng đến nhau và cơn mưa như một sợi dây liên kết vô hình. Và trong lòng luôn mong sóng yên biển lặng, “biết tới khi nào mưa thôi rơi”...

Khúc ruột miền Trung quê tôi thường hứng chịu bão lũ, mỗi lần như thế tôi thường nghe người bà chắp tay nguyện cầu: xin mưa đừng gió, khi cuộc đời bà đã chứng kiến và trải qua hằng trăm cơn bão như thế.

Mưa bão đến mới thấy hết trách nhiệm và tình thương của con người dành cho nhau để vượt qua khổ nạn , giải quyết những mâu thuẫn nhỏ để từ đó đoàn kết hơn , tôn trọng nhau hơn .

:)

4 tháng 12 2017

làm cách nào để gửi câu hỏi

4 tháng 12 2017


Nguyên Hồng (1918 – 1982) là nhà văn đã có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam hiện đại. 18 tuổi (năm 1936) ông bắt đầu viết văn, trình làng với truyện ngắn "Linh Hồn" (đăng trên Tiểu thuyết thứ 7). Nhưng ông chỉ thực sự gây tiếng vang trên văn đàn với tiểu thuyết đầu tay “Bỉ Vỏ” khi mới 19 tuổi. “Bỉ Vỏ” được đánh giá là “bức tranh xã hội sinh động về thân phận những con người nhỏ bé dưới đáy" như Tám Bính, Năm Sài Gòn... “Bỉ Vỏ” không chỉ có ý nghĩa là một giải thưởng văn chương danh giá của "Tự lực văn đoàn, 1937", mà điều quan trọng kể từ đó, tác phẩm đã xác lập vị trí, uy tín, danh tiếng của nhà văn Nguyên Hồng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Gần 50 năm miệt mài lao động sống và viết - viết đều, viết nhiều, viết không ngừng nghỉ cho đến khi buộc phải “nhắm mắt xuôi tay” ở tuổi 64, nhà văn Nguyên Hồng đã để lại một di sản văn hóa đồ sộ, vạm vỡ với hơn 40 tác phẩm văn học. Và nỗi day dứt về bộ tiểu thuyết “Núi rừng Yên Thế” viết về cuộc khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám đang dang dở… Năm 1981, tập 1 bộ tiểu thuyết vừa in xong, thì ngay sau năm ấy - năm 1982 bệnh tai biến mạch máu não đã mang Nguyên Hồng ra đi quá đột ngột, không kịp trăng trối. Đến 1993, tập 2 “Núi rừng Yên Thế” mới ra mắt độc giả.


Sinh ra và lớn lên trong một gia đình nghèo ở Nam Định, ông  mồ côi cha từ năm 12 tuổi. Mẹ đi bước nữa trong sự ruồng bỏ, hắt hủi và nhất là chịu cảnh “cấm vận” của gia đình nhà chồng, không được gần gũi, chăm sóc con mình. Thiếu tình yêu thương, Nguyên Hồng sống nhờ cô và chịu sự rẻ rúng, khinh miệt của bà. Vốn là người rất nhạy cảm, dễ xúc động, ông cảm thông, chia sẻ những nỗi khổ đau, oan trái với những con người cùng khổ, bất hạnh trong gia đình và cả ngoài xã hội và cũng bất bình trước hành vi vô nhân đạo.


Năm 16 tuổi khi mới học hết bậc tiểu học, ông cùng mẹ ra Hải Phòng kiếm sống trong các xóm chợ nghèo; rồi về Thủ đô Hà Nội công tác và cuối cùng Nguyên Hồng vẫn là người “dứt áo” khỏi chốn thị thành thực hiện cuộc “xê dịch” cuối cùng về Bắc Giang.


Có thể nói, Hải Phòng đã trở thành quê hương thứ 2 của ông. Hải Phòng đã chứng kiến những năm tháng hàn vi nhất của cuộc đời. Hải Phòng là nơi tác động, ảnh hưởng sâu sắc đến nghiệp văn chương của ông. 

Đất lạ đã hóa quê hương. Mảnh đất, con người đất Cảng đã thấm vào ông tới từng mạch máu để làm nên một Nguyên Hồng nhân hậu, giản dị, thẫm đẫm tình người, tình đời. Đây là một bước ngoặt trong cuộc đời dâu bể, nhưng cũng chính ở mảnh đất đầy sóng gió này đã găm neo, bền chặt trong tâm hồn ông những giá trị nhân văn. Nguyên Hồng như thuộc về mảnh đất này với từng gương mặt, thân phận con người nơi đây như thể từng con đường, hẻm phố, ga tàu, bến sông, xóm thợ nghèo ở thành phố cửa biển đã trong ông máu thịt để rồi nó chiết xuất thành trang đời, trang văn.


Tuổi thơ bầm dập những nỗi đau, bần hàn, cơ cực, cay đắng, đói ăn, thiếu mặc, chính Hải Phòng đã giang tay đón ông trong hoàn cảnh gần như hai mẹ con “chạy trốn” khỏi quê hương vì một “cái án ở tuổi vị thành niên” chỉ vì trái tim đa cảm không dung thứ cho hành vi bạo lực, ngược đãi của chú dượng. Ông đã tâm sự trong hồi ký: “Năm ấy tôi 16 tuổi, hết hạn tù, được tha. Mẹ tôi lên tận nhà giam đón tôi. Chúng tôi không về Nam Định – quê hương – mà dắt nhau ra Hải Phòng… Ra Hải Phòng, chúng tôi càng khổ sở, trông vào vài hào làm vốn buôn trầu cau, mẹ con tôi được bữa sớm mất bữa tối. Lắm phen, luôn mấy hôm chỉ được bữa cháo lót lòng”. Ông phải lăn lóc vào đời kiếm sống bằng cách đánh đáo kiếm tiền ăn học và nhất là phải sống chung đụng với đủ hạng trẻ hư hỏng của lớp “cặn bã”, “dưới đáy” nơi đầu đường, xó chợ, vườn hoa, bến tàu, bến xe… Trong hoàn cảnh “Gần bùn” ấy sẽ có 2 khả năng xảy ra, một là bị trộn vào kiếp đời lăn lóc để thành “những Tám Bính, Năm Sài Gòn…”; hai là vẫn giữ được những phẩm chất vốn có nguyên vẹn. Nguyên Hồng ở trường hợp thứ hai, nghĩa là may mắn không sa chân lỡ bước…mà trở thành một nhà văn chân chính. Niềm tin để ông neo đậu chính là sự lựa chọn một giải pháp sống tích cực, thông minh bằng văn chương nghệ thuật. Ông mê văn chương như một thứ Tôn giáo kỳ lạ. Thì ra, ngày nhỏ, ông đã có thói quen đọc sách. Ông đọc tinh thông vạn quyển Đông Tây kim cổ. Đất nước, con người Việt Nam Việt Nam từ trong sử sách đã thấm vào tâm hồn tuổi thơ của ông một cách tự nhiên với những Phù Đổng Thiên vương, Mai An Tiêm, Trưng Trắc, Trưng Nhị… Ông tích lũy cho mình những câu ca dao, điệu ru, lời hát… Đôi tai tinh diệu của ông lắng nghe mọi biến động cuộc sống. Một cách tự nhiên như mưa dầm thấm đất, di sản văn hóa của dân tộc và nhân loại đã thấm vào máu thịt, hòa quyện trong tâm hồn ông.


Hoàn cảnh sống khắc nghiệt và cá tính đã định hướng thị hiếu thẩm mỹ của nhà văn Nguyên Hồng. Điều đó đã tác động đến cảm hứng và tư duy nghệ thuật của nhà văn, khiến những trang văn cuộc đời bao giờ cũng thấm đượm tinh thần nhân đạo chủ nghĩa, chan chứa tình cảm yêu thương, tin tưởng ở con người, nhất là những con người cùng khổ. Ông trải lòng trong những dòng nhật ký tuổi thơ đẫm nước mắt: “Ngày 14.11.1931 – Phải nhớ cái tát và câu rủa sả này cho đến chết: “Hồng ơi! Bố mày nó chết đi nhưng còn có mẹ mày nó dạy mày. Cầm bằng mẹ mày đánh đĩ theo giai, bỏ mày lêu lổng thì đã có chúng tao… Mẹ ơi! Con khổ quá mẹ ơi! Sao mẹ đi lâu thế? Mãi không về! Người ta đánh con vì con dám cướp lại đồ chơi mà con người ta giằng lấy. Người ta lại còn chửi con, chửi cả mẹ nữa. Mẹ xa con, mẹ có biết không?”[1]. Không dễ để có cái nhìn cảm thông với mọi kiếp đời, nếu như chính ông lại “hà khắc” với chính hoàn cảnh mẹ mình khi cha mất sớm. Sự thành thật là một tố chất trong con người nhân hậu ấy. Vì thế, ngay từ khi lên bảy, lên tám tuổi, Nguyên Hồng đã cảm nhận được một cách hồn nhiên và nhớ rất kỹ trong ký ức tuổi thơ, đã thành thực trải lòng về mối quan hệ của song thân trong cuốn hồi ký: “Hai thân tôi lấy nhau không phải vì quen biết nhau lâu mà thương yêu nhau. Chỉ vì hai bên cha mẹ, một bên hiếm hoi muộn cháu và có của, một bên sợ nguy hiểm giữ con gái đến thì ở trong nhà và muốn cho người con ấy có chỗ nương tựa chắc chắn, được cả một dòng họ trọng đãi nếu mắn con”. Nhà phê bình Vũ Ngọc Phan thán phục cho là ông “can đảm lắm” mới viết được như thế.


Chủ nghĩa nhân đạo là tư tưởng chủ đạo trong hầu hết tác phẩm của ông. Kể cả khi viết về cái ác, cái xấu thì ngòi bút của ông bao giờ cũng chan chứa tình yêu thương con người và canh cánh một nỗi đau. Nguyên Hồng đã tiếp nhận tư tưởng bác ái của Thiên Chúa giáo một cách hồn nhiên. Mặt khác, chính bản thân Nguyên Hồng đã trải qua những ngày thơ ấu xót đau, quẫn bách, tưởng như không có tương lai, tiền đồ. Trong hoàn cảnh như thế, muốn vượt lên số phận, nhà văn trong chừng mực nhất định, cũng đã tìm đến tư tưởng bác ái của Thiên Chúa giáo và lấy nó làm chỗ dựa để chống chọi với đời, để tồn tại và hy vọng.


Hải Phòng đã cho ông “chất bột” để ông “gột nên hồ” với hàng loạt tác phẩm văn xuôi. Đó là 20.000 trang in 4 tập bộ tiểu thuyết "Cửa biển" đồ sộ trong thời gian dài từ 1961-1976: "Sóng gầm" (1961), "Cơn bão đã đến" (1963),"Thời kỳ đen tối" (1973), "Khi đứa con ra đời" (1976) ngồn ngộn hơi thở cuộc sống lao động, đấu tranh ở miền đất đầy sóng và gió. Đây cũng là bộ tiểu thuyết đồ sộ nhất, dài nhất của đời văn Nguyên Hồng. Và, có lẽ cũng là một trong những tiểu thuyết dài nhất của văn học hiện đại Việt Nam.


Gắn với đất Cảng từ năm 16 tuổi, cuộc đời Nguyên Hồng gắn bó máu thịt với từng góc phố, bến tàu, ngõ chợ, cùng những con người lam lũ cùng khổ nơi đất Cảng. Chất liệu cuộc sống đó đã trở thành nguồn là cảm hứng cho thiên tiểu thuyết “ Bỉ Vỏ”, “ Cửa biển” ra đời. Trong lời đề tựa cuốn "Bỉ vỏ" (tái bản lần thứ tư), Nguyên Hồng viết: “Bỉ vỏ” đã viết xong trên một cái bàn kề khung cửa trông ra vũng nước đen ngầu bọt của bãi đất lấp dở dang và chuồng lợn ngập ngụa phân tro; “Bỉ vỏ” đã viết xong trong một căn nhà cứ đến chập tối là ran lên tiếng muỗi và tiếng trẻ khóc; “Bỉ vỏ” đã viết xong trong một đêm lạnh lẽo, âm thầm mà mọi vật như là rung lên cùng với lòng thương yêu của một đứa trẻ ham sống dạt dào trong những bụi mưa thấm thía”. Khi hoàn thành cuốn “Bỉ vỏ”, ông đã kính dâng tặng mẹ: “Thưa mẹ, người mẹ hiền từ của con, con xin dâng “Bỉ vỏ” cho mẹ với tất cả tấm lòng kính mến trong sạch của con và xin tặng nó cho bạn đọc với tất cả tình đằm thắm tươi sáng của tôi”.


Trái tim đồng cảm với mọi mảnh đời bất hạnh. Cuộc sống lam lũ đã khiến ông gắn bó với những con người chân đất, những con người dưới đáy xã hội. Trong cuộc sống đời thường, nhiều người được tiếp xúc với nhà văn đều khẳng định rằng Nguyên Hồng rất dễ xúc động, dễ khóc. Ông khóc khi nhớ đến bạn bè, đồng chí từng chia bùi sẻ ngọt, khóc khi nghĩ đến đời sống cực khổ của nhân dân mình ngày trước, khóc khi nói đến công ơn của Tổ quốc, quê hương đã sinh ra mình, đến công ơn của Đảng, của Bác Hồ đã đem đến cho mình lý tưởng cao đẹp của thời đại. Khóc cả khi kể lại những khổ đau, oan trái của những nhân vật là những đứa con tinh thần do chính mình hư cấu nên...


Năm 1958, Nguyên Hồng lặng lẽ rời cả gia đình từ thủ đô để trở về thôn Cầu Đen, Quang Tiến, Bắc Giang. Chính ở vùng đất này, ông đã gắn bó, đã thương yêu, sống với bà con để viết cuốn tiểu thuyết “Núi rừng Yên Thế” – cuốn tiểu thuyết sử thi về lãnh tụ khởi nghĩa Hoàng Hoa Thám. Đây là mảnh sống gắn bó nhiều kỷ niệm với ông những năm tháng cuối đời. Nhà văn Nguyễn Tuân đã viết: “Nguyên Hồng diễn tả người thành phố rất tài, nhất là các tầng lớp dân nghèo, nhưng lại là người không thích chen vào chốn phức tạp của phố phường. Ba chục năm nay, anh vẫn đóng ở quả đồi vùng Đề Thám Bắc Giang, vừa viết vừa làm vườn, đánh gộc rừng, bổ củi, quảy nước từ suối lên, quần quật cả ngày như người nông dân”[2].


Sự giản dị đã làm nên nhân cách văn hóa của nhà văn Nguyên Hồng. Nhà văn Pháp Pierre Abraham, chủ biên Tạp chí Văn học Châu Âu rất ấn tượng với nhà văn Nguyên Hồng trong một lần sang thăm Việt Nam. Thịnh tình, mến khách, nhà văn Nguyên Hồng đã tới phòng riêng trong khách sạn Métropole (khách sạn Thống Nhất, Hà Nội) để gặp nhà văn Pierre Abraham. Trong cuộc nói chuyện, hai nhà văn cùng đề cập tới nhà văn Romain Rolland. Khi về nước,  nhà văn Pierre Abraham đã nhận xét “nhà văn Nguyên Hồng đã mang đến tất cả phù sa quý giá của đồng ruộng ven sông Hồng”.


Tình yêu thương con người là điểm tựa để nhà văn đến với cách mạng


Nguyên Hồng là nhà văn của những người cùng khổ. Từng trang văn ông là từng trang đời thấm đẫm nước mắt số phận con người những năm tháng trước Cách mạng -  những người sống dưới đáy xã hội, những người nghèo, những thân phận bất hạnh, cô đơn, những con người yếu thế nhưng bao giờ cũng cố vươn lên đấu tranh để bảo vệ nhân phẩm của mình – là nước mắt của nỗi khổ đau cùng cực luôn đi cùng con người và ẩn chứa cả tấm lòng cảm thông sâu sắc của một nhà văn lớn.


Là một nhà văn của nhân dân, với những cống hiến quan trọng, Nguyên Hồng là một trong số 14 nhà văn Việt Nam vinh dự được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt đầu tiên (năm 1996).

Những trải nghiệm của bản thân trong thế giới những người cùng khổ qua hoàn cảnh gia đình và môi trường sống cụ thể của một trái tim đặc biệt giàu xúc cảm là nguồn gốc của cảm hứng thương cảm của Nguyên Hồng. Từ đó, Nguyên Hồng nguyện dấn thân với những phong trào đòi quyền lợi cho nhân dân. Ông tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ (1936-1939) ở Hải Phòng. Tháng 9/1939, ông bị mật thám bắt và bị đưa đi trại tập trung ở Bắc Mê (Hà Giang). Năm 1943, Nguyên Hồng tham gia Hội Văn hóa Cứu quốc bí mật cùng với các văn nghệ sĩ như: Học Phi, Nam Cao, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Huy Tưởng, Nguyễn Đình Thi, Trần Huyền Trân... Là Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, ông là một trong những hội viên sáng lập Hội nhà văn Việt Nam (1957).

Kỷ niệm 95 năm ngày sinh nhà văn Nguyên Hồng trong thời điểm Đảng ta kỷ niệm 70 năm Đề cương văn hóa Việt Nam và đang tiến hành tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VIII). Dưới ánh sáng của Đề cương Văn hóa Việt Nam, Hội Văn hóa cứu quốc – tiền thân của Hội Văn nghệ Việt Nam được thành lập tại Hà Nội theo tinh thần của Nghị quyết Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (2-1943) đã đặt ra: “Đảng cần phải phái cán bộ chuyên môn vào hoạt động về văn hóa, đặng gây ra một phong trào văn hóa tiến bộ, văn hóa cứu quốc chống lại văn hóa phát xít thụt lùi…phải gây ra những tổ chức văn hóa cứu quốc và phải dùng những hình thức công khai hay bán công khai đặng đoàn kết các nhà văn hóa và trí thức…”.  Hội văn hóa cứu quốc nhanh chóng tập hợp được một đội ngũ tiên phong tiêu biểu tham gia cách mạng và trở thành lực lượng nồng cốt của ngành văn hóa, văn nghệ nước nhà. Đội ngũ nhà văn đi theo cách mạng từ ngày ấy đã đặt những “viên gạch đầu tiên” đặt nền móng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hôm nay./.

14 tháng 12 2017

Nhân vật bé Hồng có một hoàn cảnh vô cùng bất hạnh. Cha mất, mẹ bỏ đi theo người khác nên bị gia đình chồng thù ghét, Hồng ở với họ hàng bên nội. Sau khi cha Hồng mất gần một năm, sắp đến ngày giỗ đầu của ông, mẹ ở Thanh Hóa vẫn chưa về. Người bà cô của Hồng gọi chú bé lại trò chuyện với một tâm địa xấu xa, độc ác. Bà ta vừa cười vừa hỏi Hồng. Đây không phải là sự lo lắng, nghiêm nghị, cũng không phải âu yếm. Cái cười này thể hiện một sự không thiện chí. Câu hỏi của mụ ta: có muốn vào Thanh Hoá thăm mợ mày không cũng chứa đựng ý nghĩa cay độc một sự giả dối.

Nhận ra ý nghĩ cay độc của cô, Hồng cúi đầu không đáp. Nhưng sau đó, chú cười đáp lại: "không cháu không muốn vào, cuối năm thế nào mợ cháu cũng về". Thái độ đó chứng tỏ chú rất yêu thương và kính trọng mẹ, chú nhận ra được ý nghĩ cay độc của bà cô trong giọng nói và nét mặt khi cười rất kịch của bà cô. Em không thể để tình yêu thương và lòng kính mến mẹ bị những rắp tâm tanh bẩn xâm phạm đến.

Người bà cô "Giọng vẫn ngọt'', "sao không vào mợ mày phát tài lắm, có như dạo trước đâu!", "Hai con mắt long lanh của cô chằm chặp nhìn" vào Hồng rồi “Vỗ vai cười nói” “mày dại quá, vào bắt mẹ mày may vá sắm sửa cho và bế em bé chứ”. Giọng mụ ta bình thản nhưng mỉa mai. Cái nhìn của bà chứng tỏ bà cô rắp tâm muốn kéo đứa cháu đáng thương vào một trò chơi độc ác đã dàn tính sẵn. Cử chỉ vỗ vai, cười nói - thể hiện sự giả dối độc ác. Câu nói "mày dại quá..." không chỉ lộ rõ sự ác ý mà còn chuyển sang chiều hướng châm chọc, nhục mạ với một giọng điệu cay nghiệt, độc ác.

Vẫn chưa chịu buông tha Hồng, bà cô tiếp tục kể về tình cảnh tội nghiệp của mẹ Hồng. Đó là sự vô cảm sắc lạnh đến ghê người. Chúng khiến tâm trạng của Hồng đau đớn, uất ức đến cực điếm. Cử chỉ đổi giọng, vỗ vai, nghiêm nghị của bà cô thực chất là sự thay đổi đấu pháp tấn công. Khi thấy cháu tức tưởi phẫn uất bà mới hạ giọng tỏ sự ngậm ngùi thương xót người đã mất. Khi đó, sự giả dối thâm hiểm trơ trẽn của bà cô đã phơi bày toàn bộ.

Qua đoạn trích "Trong lòng mẹ" (Những ngày thơ ấu của Nguyên Hồng) người bà cô bộc lộ bản chất là một kẻ lạnh lùng, độc ác, thâm hiểm. Đây là hình ảnh mang ý nghĩa tố cáo hạng người sống tàn nhẫn, khô héo cả tình máu mủ ruột rà trong xã hội thực dân nửa phong kiến lúc đó.

Nhân vật bà cô trong đoạn trích nói riêng và toàn bộ tác phẩm nói chung mang giá trị hiện thực sâu sắc. Nó ẩn chứa sức mạnh tố cáo hạng người giả dối, tàn nhẫn, mất hết sự trắc ẩn của tình người, tình máu mủ.. Đồng thời, nó cùng khẳng định tấm lòng đồng cảm, yêu thương của nhà văn đối với những số phận bất hạnh trong xã hội phong kiến nửa thực dân xưa.

3 tháng 12 2017

câu1:  PTBĐ: Tự sự

câu2: ND chính: Bé hồng gặp lại mẹ

3 tháng 12 2017

không đăng câu hỏi linh tinh

3 tháng 12 2017

mún ớn quá.............

3 tháng 12 2017

Môi trường sống của chúng ta ngày càng ô nhiễm trầm trọng do rác thải từ túi ni lông. Túi nilông lẫn vào đất ngăn cản oxy đi qua đất, làm chậm sự tăng trưởng của cây trồng, gây xói mòn đất. Túi nilông lọt và cống, rãnh, kênh, rạch sẽ làm tắc nghẽn gây ngập úng. Nếu chúng ta không có những biện pháp hạn chế sử dụng túi nilông ngay thì không bao lâu nữa kênh rạch, ruộng đồng, mọi nơi sẽ tràn ngập rác nilông, môi trường sẽ bị ô nhiễm nặng nề. Vì vậy, khi sử dụng các túi đựng nhất là gói thực phẩm, các bạn hãy dùng các vật liệu thay thế như giấy, lá. Chúng ta cần tuyên truyền cho mọi người xung quanh về tác hại của túi nilông đối với môi trường và cùng nhau thay đổi thói quen xấu này.

5 tháng 12 2017

Việt Nam nổi tiếng bơi nững lễ hội và kì nghỉ đặc biệt là lễ tết. Nó thường xảy ra từ ngày 1 đến ngày 3 tháng một âm lịch. Mặc dù diễn ra trong thời gian ngắn, nó được tin là kì nghỉ quan trọng và nổi tiếng của Việt Nam. Có rất nhiều món ăn đặc biệt được chế biến để chuẩn bị cho mâm cơm tết như: bánh chưng, chả giò, xôi và mứt. Đồ ăn được xem như phản ánh phong tục và tập quán cũng như cách sống của người VN. Ngoài ra, bữa ăn cũng có những món ngon khác như cá, rau củ như để bày tỏ hy vọng về một năm mới thành công và thịnh vượng. Về tâp quán, trẻ con nhận bao lì xì từ ngừoi lớn, chúc tết nhà họ hàng và đi lễ chùa là những hoạt động phổ biến. Tiền lì xì được cho là đem lại hy vọng và sức khoẻ cho trẻ con. Chùa là biểu tượng của sự yên bình, bởi thế mọi người tới đây và cầu nguyện cho năm mới thành công. Theo truyền thống, mỗi nhà được trang trí với cây hoa đào ở miền bắc và cây hoa mai ở miền nam. Ngoài ra, nhà và đường luôn sạch sẽ, và đẹp đẽ bởi vì tất cả đều sẵn sang cho một năm mới. mọi người có không gian ấm cúng và khảong thời gian vui vẻ với các thành viên trong gia đình. Đây là thời điểm để mọi người sống ở mọi miền đất nước sum họp và dành thời gian cho nhau. Tết là cơ hội để mọi người quay trở về nhà sau những áp lực và căng thẳng từ môi trường học tập và làm việc. Tết không chỉ là một ngày lễ thong thường, nó là văn hoá à lối sống của người Việt bởi vì ý nghĩa sâu xa của nó rất thiêng liêng và quan trọng. Nhìn chung, tết không chỉ mang đến niềm vui mà còn là ngày lễ lâu đời vì nó giúp con người trưởng thành qua những trải nghiệm

3 tháng 12 2017

trả lời giúp mik  không bít tl ra sao 

3 tháng 12 2017

- Châu Á là châu lục lớn nhất thế giới, nằm kéo dài từ vùng cực Bắc đến vùng Xích Đạo

- Khí hậu châu Á thuộc kiểu môi trường nhiệt đời gió mùa 

 - Châu Á có ố dân đông nhất thế giới, chiếm 61% dân số thế giới 

- Sông ngòi châu Ácó mạng lưới  khá phát triển, có nhiều hệ thống sông lớn , phân bố không đồng đều và chế độ nước khác phức tạp

- Hệ thống sơn lớn nhất châu Á : Hoàng Hà, Trường Giang, Mê Kông, Ấn, Hằng, .........

3 tháng 12 2017

Ngô Quyền (còn gọi là Tiền Ngô Vương), là vị vua đầu tiên trong lịch sử nhà Ngô của Việt Nam. Năm 938, ông đã lãnh đạo nhân dân ta đánh quân Nam Hán trong trận Bạch Đằng nổi tiếng, chính thức chấm dứt hơn một thiên niên kỷ bắc thuộc, mở ra một thời kỳ độc lập lâu dài  của Việt Nam. Sau chiến thắng này, ông lên ngôi vua, trị vì đất nước từ năm 939 đến năm 944.

Sinh năm 898 trong một dòng họ hào trưởng có thế lực ở châu Đường Lâm, Ngô Quyền được sử sách mô  tả là bậc anh hùng hào kiệt có trí dũng. Ngô Quyền lớn lên khi chính quyền đô hộ của nhà Đường đang suy yếu và dần tan rã, khó lòng khống chế các thế lực hào trưởng của người Việt ở địa phương, do đó dẫn tới sự xác lập quyền lực của họ Khúc ở phủ thành Đại la vào năm 905 và họ Dương vào năm 931.

Sau khi trở thành con rể của Dương Đình Nghệ, Ngô Quyền được tin cậy giao cai quản Ái  Châu, đất bản bộ của họ Dương. Năm 937, hào trưởng đất Phong Châu là KIều Công Tiễn, sát hại Dương Đình Nghệ, trở thành Tỉnh Hải quân Tiết độ sứ. Nhưng vị tân Tiết độ sứ lại không có chỗ dựa chính trị vững chắc, hành động tranh giành quyền lực của ông bị phản đối bởi nhiều thế lực địa phương và thậm chí nội bộ họ Kiều cũng chia rẽ trầm trọng. Bị cô lập, Kiều Công Tiễn vội vã cầu cứu nhà Nam Hán. Ngô Quyền nhanh chóng tập hợp lực lượng, kéo quân ra Bắc, giết chết Kiều Công Tiễn rồi chuẩn bị quyết chiến với quân Nam Hán. Thắng lợi của Ngô Quyền trên sông Bạch Đằng năm 938 đã đặt dấu chấm hết cho mọi âm mưu xâm lược của nhà Nam Hán, đồng thời kết thúc thời kỳ bắc thuộc ở nước ta.

Năm 939 Ngô Quyền xưng vương, đóng đô ở Cổ Loa, lập ra nhà Ngô.  Ngô Vương qua đời ở tuổi 47, trị vì được 6 năm. Sau cái chết của ông, nhà Ngô suy yếu nhanh chóng, không khống chế được các thế lực cát cứ địa phương và sụp đổ vào năm 965.

Ngô Quyền nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc tiêu biểu của Việt Nam, là vị "vua đứng đầu các vua", là vị Tổ trung hưng của Việt Nam. 

3 tháng 12 2017

Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan ba mươi vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói hồi thứ mười bốn trong tác phẩm “Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm Ngô gia văn phái đã phán ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.

Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà Hoàng Thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn” nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân: "... Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh lại có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chính như bứa trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...” Trong khi nói những lời ấy chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc” thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.

Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống”, phần nào bị quan điểm “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn.

Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác. Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc xuất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm tết Nguyên Đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bởi vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyền Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sì: "... Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? ... Người phương Bác không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng di. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các Ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lònq người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng là đuổi được chúng về phương Bắc...” Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả "Hoàng Lê nhất thống chí" hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình “Biết nhẫn nhịn để tránh mũi nhọn”, “bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho qiặc kiêu căng" ... Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: “Lần này ta ra thân hành cầm quân,, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh”. Nhưng ông cũng luôn luôn đề phòng hậu họa: “Quân Thanh thua trận ắt lẩy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt”. Và ông đã dự định chọn người “ khéo lời lẽ" đế “dẹp việc binh đao” đó cũng là lời Ngô Thì Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung, ta thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: "Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phú kín. Qâán Thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả”. Đó là cái giỏi cũng là cái tâm của người cầm quân.

Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong hồi mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải. Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần” mà còn là một vị tướng giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.