K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 4 2018

Nếu ai đó muốn vẽ một bức tranh đẹp về làng quê Việt Nam, hẵn sẽ không quên vài nét chấm phá 
cho một hàng tre, một khóm trúc.Thật vậy, có thể nói ” cây tre ” là biểu trưng cho làng quê Đất Việt, 
từ Bắc chí Nam. 
Kế Môn quê tôi cũng là một làng quê Việt Nam, mà màu xanh của tre hầu như chiếm lĩnh cả thảm 
thực vật. Ở đây tre mọc khắp nơi : tre mọc thành hàng ở hai bên đường Xóm, ngọn tre đan vào nhau 
thành vòm, tre vươn lên từng khóm ở góc vườn, tre ôm ấp mái nhà tranh còn vương vấn khói màu lam. 
Nhớ ngày xưa ai đó đã mở đầu bài tập làm văn tả cảnh bằng câu ” Làng tôi có lũy tre bao bọc…” 
Lũy tre xanh,khóm tre, vòm tre… là những từ nghe thật êm tai, thật gần gủi và mang nhiều âm vang xào 
xạc của tiếng gió … 
Nếu bạn là nhà thơ, thì cảnh trăng lên sau hàng tre thưa một đêm hè gió nhẹ là có cả một bài thơ 
tuyệt vời. Nhưng nếu bạn từng chứng kiến cảnh nhìn lên những ngọn tre già đang cúi rạp mình trong 
giông bão, hẵn sẽ là một nỗi ám ảnh về sức chịu đựng của thiên nhiên. 
Tre là loài thực vật luôn vươn thẳng lên cao và sống thật mạnh mẽ, dù trong điều kiện nghèo nàn 
của thổ nhưỡng như ở dãi đất duyên hải miền Trung. Chỉ cần một gốc tre khiêm tốn lúc ban đầu, qua 
một thời gian ngắn, tre sẽ phát triển thành khóm, và nếu không khống chế,khóm tre sẽ bành trướng 
không ngừng và không giới hạn. Hình ảnh thường thấy nhất là bên cạnh những gốc tre già bạn sẽ thấy 
xuất hiện vài ” búp măng non “.Đó là tính ” kế tục “, một quá trình kế tục không ngừng để vươn lên và phát triển. 
Quê Viêt Nam có nhiều giống tre, nhưng ở làng tôi chỉ có hai loại phổ biến, đó là tre gai và tre tầm 
vông ( dân làng tôi gọi là tre hàng giáo ) . Tre gai có thể cao trên mười mét, thân có nhiều đốt , đường 
kính gốc có thể lên đến 12 cm,cành tre có nhiều gai, lõi tre đặc chứ không rỗng như loại tre lồ ô. Tre 
tầm vông nhỏ hơn, cây cao nhất cũng chỉ đến sáu mét, đ ường kính thân nhỏ chỉ chừng từ năm đến 
sáu cm, đặc biệt rất dễ uốn. 
Măng tre là món thích hợp nhất để xáo với thịt các loài họ chim cũng như gà, vịt. Gà xáo măng, vịt 
xáo măng là món không thể thiếu ở quê tôi trong những bữa cúng giỗ. Đó là món quà đầu tiên của tre 
tặng cho dân làng. 
Nhưng đó chỉ là món quà nhỏ, rất nhỏ. Qùa của cây tre dành cho con người, nhất là người nông 
dân Việt Nam ngày xưa còn lớn hơn gấp bội. 
Ta đều biết trước đây, khi các loại vật liệu xây dựng còn thô sơ và lạc hậu, tre là loại vật liệu chủ 
đạo để xây nên nhà cửa, đặc biệt là ở miền đồng bằng,nơi không có nhiều gỗ từ cây rừng. Từ cột 
nhà cho đến kèo, đòn tay, rui mè đều sử dụng tre gai. Vách cũng đan bằng tre trước khi phủ lên một 
lớp bùn nhào với rơm rạ. Nông dân đều biết, nếu là tre già được ngâm lâu trong bùn, khi đem ra sử 
dụng sẽ là loại ” gỗ ” không còn loại mối mọt nào đục phá được. 
Vì vậy có một thời, người ta đã dùng tre để đóng cọc làm móng ( thay cho cừ tràm như ở miền 
Nam hiện nay ) , thậm chí có nơi còn dùng thân tre như cốt lõi để ép bê-tông đà kiềng cho những 
căn nhà tương đối nhỏ.Chưa kể thời Pháp thuộc, những biệt thự ( mà một số còn tồn tại đến ngày 
nay) thường dùng tre đan trét vôi vữa để làm trần nhà. Trần phẳng và đẹp khiến thoạt nhìn lên có 
người cứ ngỡ đó là trần bê-tông hay thạch cao ngày nay vậy. 
Về nông và ngư cụ, làng Kế Môn quê tôi ngày xưa là làng nông nghiệp chính hiệu, trong đó hạt 
lúa làm nên tất cả. Mà để có hạt lúa hạt gạo,củ khoai,củ sắn thì ngoài sức người, các phương tiện 
sản xuất đóng góp phần chủ lực : gầu tát nước, xuồng nhỏ, các loại thúng, mủng đựng lúa, sàng, dần 
nốn ( hay nia ) đựng gạo,…rỗ,rá, đúa đựng khoai sắn,…tất cả đều làm bằng tre đan. Cả đến đòn xóc, 
đòn gánh để gánh lúa gánh gạo, cho đến cái cán cuốc,cán cào, cán rựa…tất cả đều làm từ cây tre. 
Chưa nói đến cái cối xay lúa mà phần thân phải đan bằng loại tre già. 
Ngoài hạt gạo để chi cho đủ mọi thứ, nhiều lúc còn không đủ, bà con dân làng từ già đến trẻ,còn 
phải tận dụng khai thác các con sông,dòng khe, dòng hói,các đầm, bàu để đánh bắt tôm cá nhằm 
cải thiện bữa ăn hàng ngày. Muốn vậy thì các phương tiện đánh bắt ( ngư cụ ) không thể thiếu : 
chơm ( hay nơm ) để nơm cá, đúa dậm để xúc cá, rồi lờ, oi đựng cá,cả đến cần câu các loại đều 
phải nhờ đến cây tre. 
Đó là chưa kể hết những món linh tinh như cái quạt tre chẳng hạn vân vân và vân vân mà không 
ai có thể kể hết. 

Qủa thật đối với người nông dân Việt Nam ngày xưa, không có gì đa dụng và hữu ích bằng cây 
tre làng. Có thể nói tre là người bạn đã san sẻ khó nhọc với người nông dân một nắng hai sương. 
Người nông dân nói riêng và xã hội nói chung cần phải xem cây tre như là ân nhân của mình vậy. 

Nhưng đó lại là câu chuyện ngày xưa. 
Hơn nửa thế kỷ qua đi đã mang lại nhiều thay đổi. Khoa học tiến bộ đã khai sinh ra nhiều chất 
liệu để thay thế dần cây tre trong xây dựng cũng như trong sản xuất nông ngư nghiệp. Vì thế vai 
trò của cây tre ngày càng giảm đi. Mặt khác, vai trò che chắn,bao bọc của những hàng tre, khóm 
tre,lũy tre đối với làng xóm như những bức tường tự nhiên ngăn gió ngăn bão,che nắng che mưa, 
cũng đang dần dần bị loại bỏ. 
Ngày nay, bước vào trong xóm, hai bên không còn là hai hàng tre sánh đôi và ngọn tre giao nhau 
thành vòm như xưa mà nó đang dần dần được thay thế bằng những hàng rào xi măng cứng nhắc và 
có phần vô cảm. Những con đường làng, đường xóm quê tôi ngày càng tiện dụng nhưng trống trải 
và xa lạ hơn.Không khí mùa hè ngày càng trở nên oi bức trong khi mùa đông gió bấc thì không gian 
ngày càng tê buốt lạnh lẽo. 
Nhiều lúc tôi hình dung đến một ngày nào đó,cảnh quan kiến trúc của làng tôi , theo đà phát triển, 
sẽ mang dáng dấp của một ” thị trấn ” với những dãy ” nhà phố ” bên những con đường không còn 
bóng mát của cây cỏ ! Điều gì sẽ xảy ra ? Chỉ biết có một điều chắc chắn rằng lúc ấy, bóng dáng cây 
tre sẽ chỉ còn lại trong ký ức và hoài niệm của mỗi người với bao tiếc nuối không thể nào nguôi …

25 tháng 4 2018

được chứ nhưng mà đừng đăng câu hỏi lung tung nha! ^.^

25 tháng 4 2018

kb rồi chat vs mk luôn nha

25 tháng 4 2018

Truyền thuyết “Vua Hùng trồng kê ra lúa” 

Một hôm các con gái vua Hùng theo dân đi đánh cá ven sông thấy từng đàn chim bay lượn khắp bãi, nhảy nhót trong đám lau cỏ, khiến các nàng rất vui thích. Có một nàng công chúa, mải ngắm đàn chim, dừng tay quăng lưới, chợt có con chim thả một bông kê rơi trên mái tóc. Công chúa mang bông kê về trình với Vua, Vua mừng, cho là điềm tốt lành, hạt này chim ăn được chắc người cũng ăn được liền bảo các Mỵ nương ra bãi tuốt các bông đó đem về.

Tới mùa xuân, Vua đem các hạt kê ra và phái các công chúa gọi dân đi quải. Nhân dân vui mừng rước Vua ra đồng. Trống mõ đi đầu rồi tới người rước lúa, rước kê. Tới bên sông, Vua xuống bãi lấy que nhọn chọc đất tra lúa và gieo kê trên bãi. Làm xong, Vua cắm một cành tre để chim sợ khỏi ăn hạt. Các Mỵ nương và dân đều làm theo.

25 tháng 4 2018

k mk

Một hôm các con gái vua Hùng theo dân đi đánh cá ven sông thấy từng đàn chim bay lượn khắp bãi, nhảy nhót trong đám lau cỏ, khiến các nàng rất vui thích. Có một nàng công chúa, mải ngắm đàn chim, dừng tay quăng lưới, chợt có con chim thả một bông kê rơi trên mái tóc. Công chúa mang bông kê về trình với Vua, Vua mừng, cho là điềm tốt lành, hạt này chim ăn được chắc người cũng ăn được liền bảo các Mỵ nương ra bãi tuốt các bông đó đem về.

Tới mùa xuân, Vua đem các hạt kê ra và phái các công chúa gọi dân đi quải. Nhân dân vui mừng rước Vua ra đồng. Trống mõ đi đầu rồi tới người rước lúa, rước kê. Tới bên sông, Vua xuống bãi lấy que nhọn chọc đất tra lúa và gieo kê trên bãi. Làm xong, Vua cắm một cành tre để chim sợ khỏi ăn hạt. Các Mỵ nương và dân đều làm theo.

Truyền thuyết “Vua Hùng dạy dân cấy lúa
Thuở xưa, nhân dân chưa biết cày cấy làm ra thóc gạo mà ăn, chỉ sống bằng thịt thú rừng, rễ cây, quả cây và các loại rau dại, lúa hoang nhặt được. Các vùng đất ven sông hàng năm được phù sa bồi thêm màu mỡ. Vua Hùng thấy đất ấy tốt mới gọi dân đến bảo tìm cách đắp bờ giữ nước. Vua thấy lúa mọc hoang nhiều mới bày cách cho dân gỡ hạt, gieo mạ. Khi mạ lên xanh thì đem cấy vào các tràn ruộng có nước.

Lúc đầu dân không biết cấy, tìm hỏi Vua. Vua Hùng nhổ cây mạ lên, đem tới ruộng nước, lội xuống cấy cho dân xem. Mọi người làm theo, cấy tới khi mặt trời đứng bóng, Vua cùng mọi người lên gốc đa lớn nghỉ ngơi ăn uống.

Truyền thuyết “hát Xoan

Ngày ấy vợ Vua Hùng mang thai đã lâu, tới ngày sinh nở, đau bụng mãi mà không sinh được. Có một người hầu gái tâu rằng: Có một người con gái đẹp tên là Quế Hoa, múa giỏi hát hay, ở trong một làng tre xanh gần thành Phong Châu. Nếu đón nàng về múa hát có thể làm cho đỡ đau và sinh nở được. Vợ vua nghe lời, Quế Hoa vâng theo lời triệu đến chầu vợ Vua. Bấy giờ bà đang lên cơn đau dữ dội. Quế Hoa đứng bên giường múa hát. Nàng đẹp lắm: môi đỏ, mắt đen, tóc dài, da trắng, giọng hát trong vắt khi trầm, khi bổng như chim ca, suối chảy, tay uốn chân đưa, người mềm như tơ, chân dẻo như bún, ai cũng phải mê. Vợ Vua Hùng mải xem múa hát, không thấy đau nữa liền sinh được ba người con trai khôi ngô, tuấn tú. Vua hết sức vui mừng và khen ngợi Quế Hoa, liền truyền cho các Mỵ nương học lấy các điệu múa hát ấy. Vì lúc này nàng Quế Hoa hát chầu Vợ Vua là vào mùa xuân nên các Mỵ nương gọi hát ấy là hát Xuân (hay hát Xoan)”. Sự tích hát Xoan còn được ghi lại trong chuyện kể nối đời của dân làng Cao Mại – Việt Trì với một vài chi tiết khác. Tuy nhiên, thông qua những truyền thuyết này, chúng ta cũng có thể hình dung được phần nào sinh hoạt múa hát đầu xuân của tổ tiên ta. Những “Sinh hoạt văn hoá cơ sở” ấy qua thời gian và sáng tạo, nhận thức thẩm mỹ của con người đã được trau chuốt thêm, làm giàu thêm để ngày hôm nay có được một làn điệu dân ca mà cả nước biết đến.

Truyền thuyết “Bách nghệ khôi hài

“Bách nghệ khôi hài”, một trò vui đầu xuân có gốc từ thời Hùng Vương. Chuyện kể rằng: Mỵ nương Ngọc Hoa sau khi lấy Sơn Tinh, ở núi Tản được ít lâu thì về với bố mẹ ở thành Phong Châu. Ba năm sau vẫn chưa trở lại với chồng, Tản Viên phải về thành Phong Châu xin vua cha cho đón nàng về.

Ngọc Hoa ra khỏi cung điện, tới làng Trẹo thì nhất định không chịu đi nữa, Tản Viên dỗ thế nào cũng không nghe, chỉ cúi đầu, nước mắt chảy ướt má. Ngọc Hoa nhớ bố, nhớ mẹ, nhớ nơi nàng đã sống không nỡ rời. Tản Viên không biết làm thế nào, mới vào trong thôn tìm người giúp. Dân làng mừng rỡ ra đón Ngọc Hoa, bấy giờ mọi người bầy ra các trò vui, để Ngọc Hoa nguôi lòng thương nhớ. Người thì múa nhảy, người kể chuyện cười. Các cô gái hát với trai làng. Công chúa vui vẻ cười và hát theo, mọi người rước Ngọc Hoa lên kiệu. Đám rước có người già làm kẻ đánh cá, đi săn, lại mang những dụng cụ nhà nông đã hư hỏng, vừa đi vừa nói những câu bông lơn cho công chúa cười. Ngọc Hoa trong lòng vui vẻ cùng với Tản Viên trở về quê chồng…

25 tháng 4 2018

a )danh tu : vang trang , anh trang , khu rung

   dong tu :   toa 

b) danh tu : gio , la cay , dan co , may

   dong tu : thoi , roi, bay

c)danh tu :chuong chua , mat trang

 ko co dong tu nha ban

25 tháng 4 2018

Ly Gia Han: Cảm ơn bạn nhiều nha. À bạn ơi? Cho mình hỏi là từ: "bắt đầu" trong câu b có phải là động từ không ạ?

25 tháng 4 2018

"Dù ai đi ngược về xuôi

 Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”.

Em cũng đã có dịp may mắn một lần được hành hương về đất Tổ, phong cảnh Đền Hùng đã in sâu trong tâm trí em.

Đền Hùng là tên gọi chung cho quần thể đền thờ các vị vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc tỉnh Phú Thọ. Đứng trên núi Nghĩa Lĩnh nhìn ra bốn bề, ta có thể thấy phía xa xa là Ngã ba Hạc, nơi sông Lô nhập dòng với sông  Hồng. Phía bên trái là dãy Tam Đảo hùng vĩ. Phía bên phải là ngọn Ba Vì mờ mờ xanh ẩn hiện.. Đồng ruộng, đồi cọ, vườn chè, làng xóm trù phú, cảnh đẹp như tranh, vùng trung du trải rộng ra trước mắt. Đây đó rải rác những đầm hồ lớn lấp loáng như gương dưới ánh xuân.

Khu di tích lịch sử Đền Hùng bao gồm ba đền chính là Đền Hạ, Đền Trung và Đền Thượng theo thứ tự từ dưới chân núi đi lên. Từ những bậc đầu tiên dưới chân núi, ta sẽ bước lên nhiều bậc đá để đi qua cổng, cổng được xây kiểu vòm cuốn cao, tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cống tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, bốn góc tầng mái trang trí hình rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một có đề bức đại tự: “Cao son cảnh hành” (Lên núi cao nhìn xa rộng). Còn có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” (Đức lớn như núi cao). Mặt sau công đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần.

Đền Hạ theo tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 nguời con trai, nguồn gốc “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây. Đền Hạ được xây theo kiến trúc kiểu chữ “nhị” (hai vạch ngang chồng lên nhau) gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian. Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với có hình lục giác, có sáu mái. Trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, sáu mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có sáu cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945:

“Các Vua Hùng đã có công dựng nước

Bác cháu la phải cùng nhau giữ lấy nước ”

Gần Đền Hạ có chùa Thiên Quang thiền tự. Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Bác Hồ đã nói chuyên với cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Trước sân chùa có hai tháp sư hình trụ bốn tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa.

Qua đền Hạ, ta lên đến đền Trung. Tương truyền đây là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu - người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh giày. Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất (một vạch ngang), có ba gian quay về hướng nam.

Đền Thượng nằm cao nhất, được đặt trên đỉnh núi Hùng. Đền Thượng có tên chữ là “Kinh thiên lĩnh điện” (Điện cầu trời). Trong Đền Thượng co bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ” ( khai sáng nước Việt Nam). Bên phía tay trái Đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước.

Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Lăng hình vuông, cột liền tường, có đao cong tám góc, tạo thành hai tầng mái. Tầng trên và dưới bốn góc đều đắp bốn con rồng, đỉnh lăng đắp hình “quá ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”. Trong lăng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài, có mái hình mui. Phía trong lăng có bia đá ghi: Biểu chính (lăng chính). Phía trên ba mặt lăng đều có đề: Hùng Vương lăng (lăng Hùng Vương).

"Đi qua xóm núi Thậm Thình

Bâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm"

Quả thực, ai đã từng đến với Đền Hùng, được một lần sống trong cảm giác thiêng liêng nhuốm sắc màu huyền thoại như thế của lịch sử thì đâu cần đi qua "xóm núi Thậm Thình", dù ở bất cứ nơi đâu, trong lòng ta cũng luôn nhớ đến "nước non mình nghìn năm".

25 tháng 4 2018

"Dù ai đi ngược về xuôi

 Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”.

Em cũng đã có dịp may mắn một lần được hành hương về đất Tổ, phong cảnh Đền Hùng đã in sâu trong tâm trí em.

Đền Hùng là tên gọi chung cho quần thể đền thờ các vị vua Hùng nằm trên núi Nghĩa Lĩnh thuộc tỉnh Phú Thọ. Đứng trên núi Nghĩa Lĩnh nhìn ra bốn bề, ta có thể thấy phía xa xa là Ngã ba Hạc, nơi sông Lô nhập dòng với sông  Hồng. Phía bên trái là dãy Tam Đảo hùng vĩ. Phía bên phải là ngọn Ba Vì mờ mờ xanh ẩn hiện.. Đồng ruộng, đồi cọ, vườn chè, làng xóm trù phú, cảnh đẹp như tranh, vùng trung du trải rộng ra trước mắt. Đây đó rải rác những đầm hồ lớn lấp loáng như gương dưới ánh xuân.

Khu di tích lịch sử Đền Hùng bao gồm ba đền chính là Đền Hạ, Đền Trung và Đền Thượng theo thứ tự từ dưới chân núi đi lên. Từ những bậc đầu tiên dưới chân núi, ta sẽ bước lên nhiều bậc đá để đi qua cổng, cổng được xây kiểu vòm cuốn cao, tầng dưới có một cửa vòm cuốn lớn, đầu cột trụ cống tầng trên có cửa vòm nhỏ hơn, bốn góc tầng mái trang trí hình rồng, đắp nổi hai con nghê. Giữa cột trụ và cổng đắp nổi phù điêu hai võ sỹ, một người cầm giáo, một người cầm rìu chiến, mặc áo giáp, ngực trang trí hổ phù. Giữa tầng một có đề bức đại tự: “Cao son cảnh hành” (Lên núi cao nhìn xa rộng). Còn có người dịch là “Cao sơn cảnh hạnh” (Đức lớn như núi cao). Mặt sau công đắp hai con hổ là hiện thân vật canh giữ thần.

Đền Hạ theo tương truyền là nơi mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, sau nở thành 100 nguời con trai, nguồn gốc “đồng bào” (cùng bọc) được bắt nguồn từ đây. Đền Hạ được xây theo kiến trúc kiểu chữ “nhị” (hai vạch ngang chồng lên nhau) gồm hai toà tiền bái và hậu cung, mỗi toà ba gian. Ngay chân Đền Hạ là Nhà bia với có hình lục giác, có sáu mái. Trên đỉnh có đắp hình nậm rượu, sáu mái được lợp bằng gạch bìa bên trong, bên ngoài láng xi măng, có sáu cột bằng gạch xây tròn, dưới chân có lan can. Trong nhà bia đặt bia đá, nội dung ghi lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Đền Hùng ngày 19/9/1945:

“Các Vua Hùng đã có công dựng nước

Bác cháu la phải cùng nhau giữ lấy nước ”

Gần Đền Hạ có chùa Thiên Quang thiền tự. Trước cửa chùa có cây thiên tuế là nơi Bác Hồ đã nói chuyên với cán bộ và chiến sĩ Đại đoàn quân tiên phong trước khi về tiếp quản Thủ đô Hà Nội. Trước sân chùa có hai tháp sư hình trụ bốn tầng. Trên nóc đắp hình hoa sen. Lòng tháp xây rỗng, cửa vòm nhỏ. Trong tháp có bát nhang và tấm bia đá khắc tên các vị hoà thượng đã tu hành và viên tịch tại chùa.

Qua đền Hạ, ta lên đến đền Trung. Tương truyền đây là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn ngắm cảnh thiên nhiên và họp bàn việc nước. Nơi đây vua Hùng thứ 6 đã nhường ngôi cho Lang Liêu - người con hiếu thảo vì đã có công làm ra bánh chưng, bánh giày. Đền được xây theo kiểu hình chữ nhất (một vạch ngang), có ba gian quay về hướng nam.

Đền Thượng nằm cao nhất, được đặt trên đỉnh núi Hùng. Đền Thượng có tên chữ là “Kinh thiên lĩnh điện” (Điện cầu trời). Trong Đền Thượng co bức đại tự đề “Nam Việt triệu tổ” ( khai sáng nước Việt Nam). Bên phía tay trái Đền có một cột đá thề, tương truyền do Thục Phán dựng lên khi được Vua Hùng thứ 18 truyền ngôi để thề nguyện bảo vệ non sông đất nước.

Lăng Hùng Vương tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ nằm ở phía đông Đền Thượng, có vị trí đầu đội sơn, chân đạp thủy, mặt quay theo hướng Đông Nam. Lăng hình vuông, cột liền tường, có đao cong tám góc, tạo thành hai tầng mái. Tầng trên và dưới bốn góc đều đắp bốn con rồng, đỉnh lăng đắp hình “quá ngọc” theo tích “cửu long tranh châu”. Trong lăng có mộ Vua Hùng. Mộ xây hình hộp chữ nhật dài, có mái hình mui. Phía trong lăng có bia đá ghi: Biểu chính (lăng chính). Phía trên ba mặt lăng đều có đề: Hùng Vương lăng (lăng Hùng Vương).

"Đi qua xóm núi Thậm Thình

Bâng khuâng nhớ nước non mình nghìn năm"

Quả thực, ai đã từng đến với Đền Hùng, được một lần sống trong cảm giác thiêng liêng nhuốm sắc màu huyền thoại như thế của lịch sử thì đâu cần đi qua "xóm núi Thậm Thình", dù ở bất cứ nơi đâu, trong lòng ta cũng luôn nhớ đến "nước non mình nghìn năm".

Nó hơi lạc một tí nhưng mong bạn

29 tháng 4 2018

Vì nơi đây là quê cha đất tổ của tôi nên tôi không thể quên được mảnh đất này. Tuy thời gian đã lùi xa nhưng tôi vẫn nhớ như in những kỉ niệm thời thơ ấu Chẳng những tôi nhớ những món ăn của quê nhà mà tôi còn nhớ cả những đêm liên hoan văn nghệ tràn ngập niềm vui nơi xóm nhỏ Nếu ta không có tình yêu mãnh liệt với quê hương thì ta khó có thể nhớ được những kỉ niệm thờ thơ ấu

12 tháng 5 2020

2922% : 3 + 9927% : 3 = bao nhiêu

25 tháng 4 2018

mk nghĩ là gia đình.hoặc là con cái

25 tháng 4 2018

 con cái, trẻ, trẻ em, dòng, hậu, gia đình,

k mk na <3

25 tháng 4 2018

nhất cận thị nhị cận giang tam cận lộ

lắm kẻ yêu mới nhiều kẻ ghét

chuột sa chĩnh gạo

cháy nhà mới ra mặt chuột

mk ko tra nha , làm rùi 

25 tháng 4 2018

1.giang

2.ghét

3.hũ

4.lòi

25 tháng 4 2018

Theo quan niệm dân gian ở hầu hết các quốc gia thì ma (hay hồn ma) là một từ để chỉ linh hồn của người chết (hoặc các sinh vật khác như động vật, thực vật) xuất hiện ở thế giới của người đang sống.[1][2] Những phác hoạ về hình thái tồn tại của ma rất đa dạng và có thể khác nhau tùy theo từng khu vực, nền văn hóa; từ những trường hợp mô tả ma vô hình, bóng mờ cho đến những mô tả ma có thể xác như một người sống.

Mặc dù khoa học công nghệ hiện đại ngày nay đang phát triển mạnh mẽ, những phân tích và nghiên cứu về ma nói riêng hay về lĩnh vực tâm linh nói chung vẫn còn gây ra nhiều tranh cãi. Những quan niệm lâu đời về sự sống sau cái chết cũng là một trong những điều khiến nhiều người tin rằng ma hay sự trở về của linh hồn người chết là có thật.

25 tháng 4 2018

Tả một ngày mới bắt đầu ở quê em

Nghỉ hè vừa qua, em được về quê ngoại và thưởng thức một buổi bình minh rực rỡ trên quê hương yêu dấu. Buổi sớm hôm ấy thật là đẹp!

Trời vừa sớm nhưng em đã thức dậy đi dạo quanh làng. Tiếng gà gáy râm ran khắp xóm. Khi trời mát mẻ, không gian thoáng đãng. Một làn gió thoảng qua làm xao động cành lá để lộ ra những hạt sương sớm long lanh. Bầu trời cao, rộng mênh mông, đây đó một vài đám mây trắng lững lờ trôi. Từ các mái bếp, những làn khói nghi ngút bay lên hoà quyện với sương sớm tạo thành những dải lụa mềm uốn lượn trên bầu trời. Ngoài đồng những bông lúa ngả đầu vào nhau thì thầm trò chuyện. Nhìn từ xa, cánh đồng trông như một tấm thảm màu xanh pha vàng trải rộng mênh mông. Đây đó trên cánh đồng lác đác một vài bác nông dân ra thăm ruộng. Từ các ngõ xóm, trên đường làng, các bà các chị gánh những gánh hàng, rau tươi su hào, cải bắp … mang ra chợ bán. Các em bé xúng xính trong những bộ quần áo sặc sỡ lon ton theo mẹ ra chợ. Những chú lợn eng éc đòi ăn, những chú kêu ăng ẳng, mọi người ý ới gọi nhau đi làm. Đằng đông, mặt trời tròn xoe, ửng hồng đang từ từ nhô lên sau bụi tre, chiếu những tia nắng ấm áp xuống mặt đất, xua tan màn sương sớm, nhuộm vàng những bông lúa làm cả xóm làng như sáng bừng lên giữa ánh bình minh. Bầu trời lúc này như trong và sáng hơn, mây trắng hiền hoà, từng đàn chim bay lượn thật là đẹp. Trên các cành cây, những chú chim hót líu lo chào ngày mới. Ngoài đường, xe cộ đi lại nườm nượp, các bạn học sinh vui vẻ đến trường. Tất cả các màu sắc, cảnh vật, âm thanh đó như hoà quện với nhau tạo nên phong cảnh làng quê thật trù phú, tươi vui.

Em rất yêu quê hương em - một làng quê thanh bình và trù phú. Em tự nhủ sẽ cố gắng học thật giỏi để mai sau xây dựng quê hương ngày càng tươi đẹp ấm no hơn.

25 tháng 4 2018

Dàn ý bài văn miêu tả ngôi trường của em

I. Mở bài:

- Giới thiệu về trường em.

Trường Tiểu học Hòa Bình là nơi đã gắn bó thân thiết với em. Nơi em có nhiều kỉ niệm ở tuổi ấu thơ.

II. Thân bài

a. Nhìn từ xa

- Ngôi trường sừng sững như cái hộp khổng lồ.

- Mái ngói đỏ tươi thấp thoáng dưới hàng cây xanh tốt.

b. Đến ần

- Tấm biển màu xanh nổi bật hàng chữ sơn trắng ghi tên trường.

- Cổng sắt đồ sộ, sơn màu xanh đậm.

- Tường thành xây cao chừng hai mét.

c. Vào trong

- Đường hiệu bộ được tráng xi măng nhám.

- Sân trường được lát gạch nung màu đỏ thẫm.

- Giữa sân là cột cờ, lá cờ tung bay trong gió.

- Dọc hàng hiên là những khóm hoa nhiều màu sắc.

- Những cây bàng, cây phượng tiếp nối nhau như những cái ô che mát một nửa sân trường.

- Các lớp học tiếp nối nhau theo một hình chữ u, cửa lớn màu xanh lam, cửa sổ xanh đậm.

- Bàn ghế trong lớp kê ngay ngắn.

- Trên đầu tường mỗi lớp có ảnh Bác, có những lẵng hoa rực rỡ.

- Cuối mỗi phòng học là bảng thi đua của các lớp học.

- Dãy nhà lớn nhìn ra cổng là văn phòng, thư viện, phòng nghe nhìn và phòng truyền thống.

- Dụng cụ trang trí ở các phòng chức năng rất khoa học, gọn gàng.

III. Kết bài

- Ngôi trường tiểu học là nơi nuôi dưỡng tâm hồn em, giúp em mỗi ngày một hiểu biết.

- Em rất yêu trường yêu lớp.

- Mong rằng ngôi trường em mỗi ngày một khang trang và tươi đẹp.

Dàn ý bài văn miêu tả cơn mưa rào

1. Mở bài: Giới thiệu khung cảnh trước cơn mưa:

- Trời nắng kéo dài. Không khí oi bức. Cây cối như muốn khô héo.

- Bỗng có gió thổi mạnh, mát rượi. Mây xám đục đuổi nhau trên bầu trời.

- Bầy chuồn chuồn bay bay là là gần mặt đất, báo hiệu trời sắp mưa rất to.

2. Thân bài: Tả các bộ phận của cảnh vật theo trình tự thời gian.

- Lúc sắp mưa:

+ Mây đen kéo đến đen kịt bầu trời.

+ Gió nổi lên dữ dội, mỗi lúc một mạnh.

+ Cây cối ngả nghiêng theo gió.

+ Cát và bụi tung lên mù mịt, không còn nhìn rõ lối …

- Lúc bắt đầu mưa:

+ Mưa bắt đầu tuôn xối xả, mạnh mẽ xuống vạn vật.

+ Cây cối hai bên đường ve vẩy tha hồ tắm mưa.

+ Người đi đường vội vã tìm chỗ trú mưa.

+ Hạt mưa to, trắng xóa. Mưa như trút nước.

+ Tiếng sấm ì ầm, chớp nhoang nhoáng loằng ngoằng trên bầu trời như muốn xé toạc màn mây đen kịt.

+ Nước chảy thành những dòng lớn trên mặt đất.

+ Đường phố bỗng chốc vui mắt với những chiếc áo mưa đủ màu.

+ Ô tô lao nhanh trên phố làm nước bắn tung tóe.

+ Có mưa khí trời mát mẻ hơn, ai cũng cảm thấy dễ chịu.

- Lúc mưa tạnh:

+ Hạt mưa nhỏ dần, thưa dần rồi ngớt hẳn.

+ Cầu vòng hiện ra. Bầu trời trở lại xanh trong, mát mẻ.

+ Chim chóc rời chỗ nấp vỗ cánh hót vang,

+ Cây cối xanh tươi, đẫm nước long lanh dưới ánh mặt trời.

+ Mọi người tiếp tục công việc của mình.

3. Kết bài:

- Bầu trời sau cơn mưa quang đãng, không khí mát mẻ.

- Vạn vật và con người vui tươi, dễ chịu.

Dàn ý tả cảnh công viên vào buổi sáng

I. Mở bài: Giới thiệu công viên mà bạn sẽ tả

Công viên là nơi mọi người tụ tập sinh hoạt và vui chơi. Em hay ra công viên tập thể dục vào buổi sáng. Cảm giác buổi sáng ở công viên thật tuyệt vời, ở đây mang lại cho e cảm giác thật yên bình. Mỗi sáng em đều thích ra công viên tập thể dục.

II. Thân bài

1. Tả bao quát

- Công viên ở đâu: ở gần nhà, ở xa hay gần,….

- Công viên rộng hay nhỏ

- Không gian, quang cảnh: mọi vật vẫn đang chìm trong giấc ngủ, hay là mọi vật bừng tỉnh chào đón buổi sáng tươi đẹp,…

2. Tả chi tiết

- Ông mặt trời: ông mặt trời còn ngái ngủ lấp ló sau tấm màn mây lơ đãng

- Nắng: dịu,… gió nhè nhẹ

- Cây cối: những giọt sương vẫn còn đọng trên lá,….

- Chim chóc (chim, chuồn chuồn, cá,….): bắt đầu cất tiếng hót cho một ngày tươi đẹp

- Con đường

- Ghế đá

- Con người: nhộn nhịp, người thì chạy bộ, tập thể dục, nhảy,….

Kết thúc một buổi sáng ra sao?

III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ về buổi sáng tại công viên.

Buổi sáng trong công viên thật là tuyệt. Nó là không gian làm cho thành phố chật chội này trong lành, mát mẻ hơn. Em thật vui vì đã được thư giãn thoải mái và tắm mình với thiên nhiên tươi xanh vào buổi sáng tại công viên.

Dàn ý cho bài văn tả quang cảnh trường em trước buổi học

1. Mở bài:

Giới thiệu cảnh sẽ tả (trường em)

- Vào lúc nào (buổi sáng, trước giờ vào học)

- Từ vị trí nào (từ ngoài cổng bước dần vào trường)

2. Thân bài:

a) Tả bao quát:

Nhìn từ xa, ngôi trường như một cánh cổng thần kì đưa em đến với biết bao điều mới lạ.

Mọi cảnh vật dường như sáng hơn, đẹp hơn bởi ánh nắng ban mai mát dịu.

b) Tả chi tiết

  • Cả khu trường như người mới ngủ dậy vẫn còn chưa thật tỉnh giấc. Sân trường rộng thênh thang mới có lác đác đôi ba nhóm bạn. Văn phòng đã mở cửa, nhưng vẫn chưa làm việc. Các phòng học, lớp đã mở cửa, thấp thoáng bóng đôi ba người, lớp còn đóng im ỉm. Bao trùm lên mọi cảnh vật vẫn là một sự vắng vẻ, im lìm. Tưởng chừng như mọi người, mọi vật đều cố không để gây ra tiếng động.
  • Sân trường: sạch sẽ, không có lấy một cọng rác, một tờ giấy vụn. Nắng chiếu từng vệt trên ngọn cây. Hàng ghế đá đặt dọc tường hoa chỉ có vài ba bạn đang ngồi ôn bài. Dưới gốc cây bàng với những tán lá tròn xoe như ba cái dù to ai nghịch xếp chồng lên nhau, một bạn đến sớm đang xem lại bài học.
  • Khung cảnh một lúc càng sôi nổi, nhộn nhịp bởi học sinh đến trường ngày càng đông.
  • Lớp học: các bạn trực nhật đang vội vã làm nốt công việc vệ sinh phòng học, bàn ghế để chuẩn bị cho buổi học sớm.
  • Một lúc sau, tiếng trống quen thuộc báo hiệu giờ vào lớp cất lên.
  • Các học sinh tập trung trước sân trường để chuẩn bị tập thể dục đầu giờ, rồi sau đó vào lớp học một tiết học đầy hứng thú.

3. Kết bài:

Cảm xúc và suy nghĩ của em về ngôi trường: Quang cảnh buổi sáng ở trường thật đẹp. Mai đây, dù cho phải xa ngôi trường thân yêu này, thế nhưng em vẫn nhớ về những thời gian em đã được học với thầy cô, với mái trường đầy thân thương.

Dàn ý cho bài văn tả cảnh buổi sáng trên cánh đồng

1. Mở bài:

Giới thiệu về cánh đồng vào buổi sáng: Em vốn là một người con của nông thôn, của mảnh đất bao la bát ngát đồng xanh. Tuổi thơ của em luôn gắn liền với hình ảnh của những cánh đồng thơm mùa sữa chín hay cánh đồng thơm mùi rơm rạ vào mùa gặt. Em rất yêu cánh đồng quê em vào buổi sáng sớm, nó luôn cho em một cảm giác bình yên và thư thái. Chỉ có ai sống tại nông thôn, gần gũi với cánh đồng thì mới hiểu rõ được cảm giác này. Cánh đồng quê em vào buổi sáng vô cùng đẹp.

2. Thân bài:

a) Tả khái quát

Buổi sáng quê em rất bình yên và thanh bình

Tiếng gà gáy vang xa, báo hiệu một ngày làm việc mới đã đến

Mặt trời thức giấc sau một giấc ngủ dài

Cánh đồng tựa như một tấm lụa trải dài mang màu áo xanh tươi mát

b) Tả chi tiết

  • Khi bình minh xuất hiện, cánh đồng như được bao phủ bởi một lớp sương mù dày đặc.
  • Khi mặt trời lên cao, sương dần tan, cánh đồng hiện lên, màu xanh của lúa đang thời con gái che kín cả mặt ruộng, đẹp hệt như một tấm thảm xanh.
  • Gió xuân từ phía trên đồi cao tuôn về thung lũng tạo nên những đợt sóng lúa đuổi nhau vội vàng.
  • Đây đó, thấp thoáng bóng người ra thăm ruộng, làm cho những chú chim bắt sâu lúa giật mình bay vọt lên cao.
  • Những chú trâu đang lim dim mắt, chuẩn bị một ngày làm việc mới
  • Những chú cò bay lượn, ngã mình xuống từng cọng lúa như đang tận hương vị buổi sáng
  • Con đường làng trải dài, thẳng tắp
  • Nắng nhẹ khẽ luồn qua nhánh cây, kẽ lá

c) Tả hoạt động:

  • Mọi người dần bắt đầu công việc của mình
  • Các cô chú nói cười vui vẻ vác cuốc ra đồng
  • Thấp thoáng có vài bóng tát nước dưới đồng ruộng
  • Cậu bé chăn trâu ngồi trên lưng trâu
  • Còn em thì đang tung tăng trên đường đi học

Kết bài: Nắng đã lên cao mà em vẫn thẫn thờ ngắm mãi dải lụa xanh này không biết chán. Màu xanh hôm nay, màu xanh của niềm tin hi vọng, chắc chắn sẽ báo hiệu một mùa gặt bội thu.

Dàn ý cho bài văn tả cảnh đêm trăng ở quê em

1. Mở bài: Giới thiệu cảnh đêm trăng: Thời gian, địa điểm, hoàn cảnh tiếp xúc

2. Thân bài:

a) Trước khi trời tối:

Nhà nhà chuẩn bị lên đèn điện.

Cảnh vật đều trở nên trang nghiêm khi chờ trăng lên.

b) Trời tối:

  • Một vầng trăng tròn vằng vặc từ từ bay lên theo gió. Ánh trăng sáng đến nơi nào, nơi đó lại cất tiếng hát, tiếng cười vui vẻ.
  • Bầu trời thăm thẳm trong vắt, sao chi chít, lấp lánh đẹp vô cùng.
  • Dưới ánh trăng, mọi vật đều dường như to hơn, cao lớn hơn. Luỹ tre làng in từng chiếc lá tre lên mặt cỏ.
  • Trên sông, con thuyền lững lờ tựa như một du khách đang dạo chơi ngắm cảnh. Tiếng mái chèo đều đặn khua động cả mặt nước yên ả.
  • Con đường làng trải rộng dưới ánh trắng vàng.
  • Trẻ em nô đùa chạy nhảy tiếng nói tiếng cười vui vẻ. Những chú chó cũng ra sân hóng mát, thỉnh thoảng chúng lại ngó ra đường, cất tiếng sủa vu vơ.

c) Trời về khuya

  • Không gian trong vắt, tiếng con trùng kêu rả rích.
  • Càng lúc thì trăng càng nhỏ dần nhưng lại sáng hơn.

3. Kết bài: Giữa đồng quê, ngắm cảnh một đêm trăng đẹp như vậy, em chợt cảm thấy yêu thiên nhiên, cảnh vật quê quê hương hơn bao giờ hết. Em sẽ cố gắng học giỏi để sau này lớn lên có thể xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp.

Dàn ý cho bài văn tả cảnh giờ ra chơi ở trường em

1. Mở bài:

Tiếng trống báo hiệu giờ ra chơi đã đến

Sân trường vắng vẻ bỗng chốc trở nên rộn rã tiếng nói cười

2. Thân bài:

a) Bắt đầu giờ ra chơi:

Các học sinh đổ ra từ các cánh cửa lớn của lớp học.

Tập thể dục.

Tản mát khắp nơi, những chiếc áo trắng và những khăn quàng đỏ xuất hiện khắp sân trường.

Không khí hết sức vui nhộn.

b) Những hình ảnh và sinh hoạt trong giờ ra chơi:

Hoạt động vui chơi của từng nhóm: Dưới bóng me tây, các bạn nữ đang nhảy dây; Đằng xa, bụi bốc mù mịt, tiếng nói huyên náo, các bạn nam đang cùng nhau chơi trò “mèo bắt chuột”

Bãi cỏ rộng: Thủ thành đang cố gắng để có thể bắt được những quả phạt mười một mét. Những đám cổ động viên reo cười, vỗ tay ủng hộ và khen ngợi thành tích của đội bóng.

Đâu đó vài nhóm không thích chơi đùa thì ngồi ôn bài, hỏi nhau bài tập khó vừa học.

Các hành lang: thầy cô đang nhìn chúng em vui chơi.

c) Cảnh sân trường sau giờ chơi: Vắng lặng, lác đác vài chú chim sà xuống sân trường nhặt vài mẩu bánh vụn.

Kết luận: Nêu lợi ích của giờ chơi: giải tỏa nỗi mệt nhọc, thoải mái, tiếp thu bài học tốt hơn.

Dàn ý cho bài văn tả cảnh một khu vui chơi giải trí vào ngày nghỉ

1. Mở bài: Ngày nghỉ bao giờ em cũng được bố mẹ dẫn đi chơi khu vui chơi giải trí. Nơi này vào ngày chủ nhật thật đông.

2. Thân bài

Vị trí: Khu vui chơi nằm ở phía nam thành phố, rất rộng, chu vi đến bốn, năm cây số.

  • Tả quang cảnh bao quát: cây to bóng mát được phân bố đều; các loại cây đẹp được trồng theo từng khu vực; hoa được trồng theo bồn; các tượng đài, ghế đá, khu vực giải khát, ki - ốt hàng hóa, các khu vui chơi được bố trí một cách hợp lí.
  • Tả chi tiết vài loại cây cối: hàng cây hoa ban Tây Bắc, một bồn hoa đẹp nhất,...
  • Các khu vui chơi của trẻ em: đu quay, tàu bay, tàu hỏa, bể bơi, bóng nước, đi ca nô ra đảo, trò chơi cảm giác mạnh lên trời, vào hầm sâu, lao xuống nước,...
  • Khu giải trí của người lớn: các trò chơi ten – nít, cầu lông, cờ tướng.

3. Kết bài

  • Sau một buổi vui chơi tại khu vui chơi giải trí, em thấy thật thoải mái và khỏe người.
  • Nơi đây là một không gian thiên nhiên đẹp, mang lại không khí trong lành, rất cần cho con người.

Dàn ý tả quang cảnh phiên chợ thôn quê bằng trí tưởng tượng của em

1. Mở bài:

Em sinh ra và lớn lên ở thành phố. Chính vì vậy, em chưa bao giờ được đi một phiên chợ quê

Qua những bài văn, bài thơ viết về chợ quê, em nghĩ phiên chợ quê chắc hẳn là vui lắm và có nhiều điều thú vị mà chợ ở thành phố không có được

Em tưởng tượng mình đang cùng mẹ đi một phiên chợ quê vào ngày Tết cổ truyền của dân tộc.

2. Thân bài:

a) Cảnh trước khi họp chợ

  • Dường như thiên nhiên cũng ủng hộ người dân quê có một cái Tết thật vui vẻ nên thời tiết hôm đó đẹp vô cùng.
  • Khí hậu ngày Tết không rét đến cắt da, cắt thịt như những ngày mùa đông. Trời bỗng trở nên ấm áp hơn.
  • Từng đoàn người gồng gồng, gánh gánh, bưng, khiêng, vác,... đủ mọi thứ hàng đến chợ để bán.
  • Nhiều người đến chợ để mua những thứ cần thiết phục vụ cho ngày Tết.
  • Chẳng mấy lúc, chợ đông nghịt,...

b). Cảnh họp chợ

  • Hàng hóa ngày Tết nhiều vô kể
  • Các khu hàng hóa được sắp xếp một cách riêng biệt
  • Mỗi khu dành cho một loại hàng khác nhau: Khu thì dành cho việc mua bán các loại con vật như lợn (heo), gà, ngỗng,... Khu thì dành để mua bán tôm, cua, cá, mực,... Khu lại dành để mua bán các loại nông sản như gạo, vừng (mè), đậu, lạc,... Vào thời điểm này, thì khu bán lá dong, thịt heo, đậu xanh vẫn là đông nhất, bởi lẽ mọi người đều chuẩn bị cho việc gói bánh chưng. Đâu đó, tiếng lợn kêu eng éc vang trời, tiếng vịt kêu cạp cạp, tiếng mèo kêu meo meo...
  • Tiếng người bán, người mua đòi giá, trả giá ồn ào và vô cùng náo nhiệt.
  • Em lại rất thích thú với khu bán đồ chơi cho trẻ em. Em cứ đứng ngắm mãi những con tò he chỗ người bán hàng. Chỉ vài cái nặn nặn, bóp bóp là đã có một con vật bằng bột xanh đổ hay một nhân vật hoạt hình hiện lên dưới bàn tay tài hoa của những người bán.

c). Cảnh chợ tan

  • Những ai đã mua sắm đủ lần lượt ra về. Trên trên tay mỗi người đều có những thứ hàng cần thiết và nét mặt ai cũng tươi vui. Tiếng hỏi nhau, tiếng cười nói ồn ã trên con đường từ trong chợ ra đến ngoài cổng chợ
  • Người bán hàng cũng vãn dần, những hàng hóa còn lại cũng vơi đi
  • Trong chợ chỉ còn lại những dãy quần áo trẻ em treo đủ màu sặc sỡ. Những bà, những cô bán hàng xén bày đủ mọi loại hàng. Mọi người cố gắng ngồi lại mong rằng có thể bán thêm được chút nào hay chút đó.

3. Phần kết bài:

Trong trí tưởng tượng của em, chợ quê vào ngày đẹp trời là thế đó

Nhất định, em sẽ xin ba mẹ cho em được ăn Tết ở quê một lần để em có thể được đi chợ quê vào ngày Tết, để em xem chợ quê có giống như trong tưởng tượng của em không.

Dàn ý cho bài văn tả cảnh đầm sen vào mùa hoa nở

1. Mở bài: Giới thiệu quang cảnh đầm sen vào mùa hoa nở

2. Thân bài:

a) Tả thiên nhiên

Trong sáng sớm tinh sương đầm sen hiện lên thật sự rất đẹp. Cả đầm sen giống như một tiên cảnh trên thiên đường vậy.

Những tia nắng như làm tươi thêm cái màu hồng nhạt của màu hoa sen.

b) Tả bao quát: mùa hè đã đến, hoa sen bắt đầu nở. Đầm sen quê em không rộng lắm, nhưng nhìn từ xa nó hệt như 1 tấm thảm hoa tuyệt đẹp

c) Tả chi tiết:

  • Lá sen: che kín mặt đầm, có cái lá xoè rộng như cái mâm nằm trên mặt nước, có những chiếc lá vươn cao tựa như chiếc dù màu xanh
  • Búp sen: vươn cao khỏi tầm lá xanh thẫm như đôi bàn tay úp vào nhau
  • Hoa: xoè những cánh hồng tao nhã thấp thoáng trong đám lá xanh mướt vẫn còn đọng lại những giọt sương đêm. Cánh hoa sen mềm và mịn, từng lớp cánh được khéo léo sắp sen kẽ, chụm lại với nhau hệt như ánh lửa bập bùng. Hoa sen đẹp, một vẻ đẹp giản dị mà vô cùng đằm thắm.
  • Tả một vài bông hoa sen đã tàn, để lộ đài sen màu xanh ngọc bích cùng nhị sen vàng óng

d) Hoạt động con người: hái sen

e) Giá trị của sen:

  • Lá sen gói xôi hay dùng làm vị thuốc
  • Tâm sen dùng làm thuốc chữa bệnh mất ngủ rất hiệu quả
  • Với người dân quê thì đầm sen còn góp phần tăng thu nhập cho gia đình.
  • Hoa sen tượng trưng cho sự cao quý, thanh khiết của con người Việt Nam

f) Kỉ niệm với đầm sen

  • Đi hái sen cùng mẹ
  • Đi ăn trộm sen

3. Kết bài: Suy nghĩ, cảm xúc của em về đầm sen và về cảnh sắc quê hương.