Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
Bài học hướng dẫn các em trình bày ý kiến của mình về một vấn đề trong đời sống.
Hai hình ảnh sau gợi ra vấn đề gì trong cuộc sống? Hãy điền từ thích hợp vào chỗ trống để trả lời câu hỏi này.
Trong bức tranh đầu tiên, trong cuộc sống chúng ta thường bắt gặp hình ảnh các em nhỏ sử dụng điện thoại thông minh, và vấn đề được gợi ra từ đây là việc trẻ em với điện thoại. Còn bức tranh thứ hai minh hoạ cho một tác phẩm văn học mà các em đã học là "". Trong chương trình lớp 6, các em đã được học một trích đoạn của tác phẩm có tên "Bài học đường đời đầu tiên". Chuyện kể về chàng Dế Mèn và gợi ra vấn đề cần bàn luận là .
NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÔ ĐỘC GIỮA RỪNG
ĐOÀN GIỎI
1. Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt ra, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. "A! Thế là đến nhà chú Võ Tòng rồi!" Tôi ngồi dậy, dụi mắt trông lên. Ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình nhưng khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu "ché... ét, ché... ét" trong lều, và tiếng chú Võ Tòng nói: thằng bé của anh nó lên đấy!".
- Vào đây, An! - Tía nuôi tôi gọi.
Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng lại trước cửa. Con vượn bạc má ngồi vắt vẻo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà ràng lửa cháy riu riu, trên cà ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít.
2. - Ngồi xuống đây, chú em!
Chú Võ Tòng đứng dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa. Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka-ki còn mới, nhưng đã coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần lính Pháp có những sáu túi). Bên hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi đã tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ.
Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên ở bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy. Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra.
- Ngủ đẫy giấc rồi à? Tía thấy con ngủ say, tía không gọi. Thôi, đã dậy rồi thì ngồi đây chơi!
- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà - Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay tôi.
Con vượn bạc má lại kêu "Ché... ét ché.,. ét..." ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm phức cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều. [...] Mùi lông khét xông khói lâu ngày tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi "ục... ục..." trên bếp cà ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kì loài người mới tìm ra lửa vậy.
3. Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. [...] Một buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng" hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng, cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ hết mực bèn liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba toong đánh lên đầu gã. "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà... thì số mày tới rồi!". Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc bó tay chịu tội.
Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh. Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên "Võ Tòng" từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội. Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn rực trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kì hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy...
4. Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe "pưng... pưng" rồi lại đặt xuống. Chú Võ Tòng rót rượu ra bát uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:
- Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy. Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ? Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. [...]
Trong giọng nói bỡn cợt của Võ Tòng có pha đượm một nỗi buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi bùi ngùi.
- Chú em cầm hộ lọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! - Chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi. [...]
5. Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây chung quanh lều. Chú Võ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi:
- Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.
Tía nuôi tôi vội đỡ lời:
- Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín dị đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì... chú cứ tin lời tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu.
- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.
Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn chạy theo ra cửa nhe răng nháy nhó, dọa tôi. Tía nuôi tôi đập đập tay vào lưng chú Võ Tòng:
- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!
- Có gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!
Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:
- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!
- Ờ thể nào cũng có chứ? Chú nuôi đầy rừng, muốn con cỡ nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy! - Chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.
(Đất rừng phương Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2010)
***
BUỔI HỌC CUỐI CÙNG
1. Buổi sáng hôm ấy, đã quá trễ giờ đến lớp, tôi rất sợ bị quở mắng, càng sợ vì thầy Ha-men (Hamel) đã dặn trước rằng thầy sẽ hỏi bài chúng tôi về các phân từ mà tôi chẳng thuộc lấy một chữ. Tôi thoáng nghĩ hay là trốn học và rong chơi ngoài đồng nội.
Trời sao mà ấm đến thế, trong trẻo đến thế! Nghe thấy sáo hót ven rừng và trên cánh đồng Ríp-pe (Rippert), sau xưởng cưa, lính Phổ đang tập. Tất cả những cái đó cám dỗ tôi hơn là quy tắc về phân từ; nhưng tôi cưỡng lại được, và ba chân bốn cẳng chạy đến trường.
Khi qua trước trụ sở xã, tôi thấy có nhiều người đứng trước bảng dán cáo thị có lưới che. Từ hai năm nay, chính từ chỗ ấy, lan đến chúng tôi mọi tin chẳng lành, những cuộc thất trận, những vụ trưng thu, những mệnh lệnh của ban chỉ huy Đức; và tôi nghĩ mà không dừng chân: “Lại có chuyện gì nữa đây?”.
Bác phó rèn Oát-stơ (Wachter) đang đọc cáo thị cùng cậu học việc thấy tôi chạy qua liền lớn tiếng bảo:
- Đừng vội vã thế cháu ơi, đến trường lúc nào cũng vẫn còn là sớm!
Tôi tưởng bác nhạo tôi và tôi hổn hển thở dốc, bước vào khoảng sân nhỏ nhà thầy Ha-men.
Thông thường, bắt đầu buổi học, tiếng ồn ào như vỡ chợ vang ra tận ngoài phố, nào tiếng ngăn bàn đóng mở, tiếng mọi người vừa đồng thanh nhắc lại rất to các bài học, vừa bịt tai lại cho dễ thuộc và tiếng chiếc thước kẻ to tướng của thầy gõ xuống bàn:
- Yên một chút nào!
Tôi định nhân lúc ồn ào, hỗn độn ấy lẻn vào chỗ ngồi để không ai trông thấy; nhưng đúng ngày hôm đó, mọi sự đều bình lặng y như một buổi sáng Chủ nhật. Qua cửa sổ mở, tôi thấy các bạn đã ngồi vào chỗ, và thầy Ha-men đi đi lại lại với cây thước sắt khủng khiếp kẹp dưới nách. Phải mở cửa đi vào giữa sự lặng ngắt đó, các bạn tưởng tượng xem tôi đỏ mặt tía tai và sợ đến chừng nào!
2. Thế mà không. Thầy Ha-men nhìn tôi chẳng giận dữ và bảo tôi thật dịu dàng:
- Phrăng, vào chỗ nhanh lên con; lớp sắp bắt đầu học mà vắng mặt con.
Tôi bước qua ghế dài và ngồi ngay xuống trước bàn mình. Chỉ đến lúc ấy, đã hơi hoàn hồn, tôi mới nhận ra thầy giáo chúng tôi mặc chiếc áo rơ-đanh-gốt màu xanh lục, diềm lá sen gấp nếp mịn và đội cái mũ tròn bằng lụa đen thêu mà thầy chỉ dùng vào những hôm có thanh tra hoặc phát phần thưởng. Ngoài ra, lớp học có cái gì đó khác thường và trang trọng. Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên hơn cả, là trông thấy ở phía cuối lớp, trên những hàng ghế thường bỏ trống, dân làng ngồi lặng lẽ giống như chúng tôi, cụ già Hô-de (Hauser), trước đây là xã trưởng với cái mũ ba sừng, bác phát thư trước đây, và nhiều người khác nữa. Ai nấy đều có vẻ buồn rầu; và cụ Hô-de mang theo quyển tập đánh vần cũ đã sờn mép để mở rộng trên lòng, cặp kính lớn đặt ngang trang sách.
Tôi còn đang ngạc nhiên về tất cả những điều đó thì thầy Ha-men đã bước lên bục, rồi vẫn với giọng dịu dàng và trang trọng như lúc tôi mới vào, thầy nói với chúng tôi:
- Các con ơi, đây là lần cuối cùng thầy dạy các con. Lệnh từ Béc-lin là từ nay chỉ dạy tiếng Đức ở các trường vùng An-dát và Lo-ren… Thầy giáo mới ngày mai sẽ đến. Hôm nay là bài học Pháp văn cuối cùng của các con. Thầy mong các con hết sức chú ý.
Mấy lời đó làm tôi choáng váng. A! Quân khốn nạn, thì ra đó là điều chúng vừa niêm yết ở trụ sở xã.
3. Bài học Pháp văn cuối cùng của tôi!...
Mà tôi thì mới biết viết tập toạng! Vậy là sẽ chẳng bao giờ được học nữa ư, phải dừng ở đó ư?... Giờ đây tôi tự giận mình biết mấy về thời gian bỏ phí, về những buổi trốn học đi bắt tổ chim hoặc trượt trên hồ. Những cuốn sách vừa nãy tôi còn thấy chán ngán đến thế, mang nặng đến thế, quyển ngữ pháp, quyển thánh sử của tôi giờ đây dường như những người bạn cố tri mà tôi sẽ rất đau lòng phải giã từ. Cũng giống như thầy Ha-men. Cứ nghĩ thầy sắp ra đi và tôi không còn được gặp thầy nữa, là tôi quên cả những lúc thầy phạt, thầy vụt thước kẻ.
Tội nghiệp thầy!
Chính để tôn vinh buổi học cuối cùng này mà thầy đã vận y phục đẹp ngày Chủ nhật và bây giờ tôi hiểu vì sao các cụ già trong làng lại đến ngồi ở cuối lớp học. Điều đó như nói rằng các cụ tiếc đã không lui tới ngôi trường này thường xuyên hơn. Dường như đó cũng là một cách để tạ ơn thầy giáo chúng tôi về bốn mươi năm phụng sự hết lòng, và để trọn đạo với Tổ quốc đang ra đi…
Tôi đang suy nghĩ mung lung thì bỗng nghe gọi tên mình. Đến lượt tôi đọc bài. Giá mà tôi đọc được trót lọt cái quy tắc về phân từ hay ho ấy, đọc thật to, thật dõng dạc, không phạm một lỗi nào thì dù có phải đánh đổi gì cũng cam; nhưng tôi lúng túng ngay từ đầu và tôi cứ đứng đung đưa người trước chiếc ghế dài, lòng rầu rĩ, không dám ngẩng đầu lên. Tôi nghe thấy thầy Ha-men bảo tôi:
- Phrăng ạ, thầy sẽ không mắng con đâu, con bị trừng phạt thế là đủ rồi… con thấy đó. Ngày nào người ta cũng tự nhủ: “Chà! Còn khối thì giờ. Ngày mai ta sẽ học”. Và rồi con thấy điều gì xảy đến… Ôi! Tai hoạ lớn của xứ An-dát chúng ta là bao giờ cũng hoãn việc học đến ngày mai. Giờ đây những kẻ kia có quyền bảo chúng ta rằng: “Thế nào! Các người tự nhận là dân Pháp, vậy mà các người chẳng biết đọc, biết viết tiếng của các người!...” Dù thế nào, thì Phrăng tội nghiệp của thầy ạ, con vẫn chưa phải là người đáng tội nhất! Mà tất cả chúng ta ai cũng có phần đáng tự chê trách. Cha mẹ các con không thiết tha lắm với việc thấy các con có học thức. Cha mẹ thích cho các con làm việc đồng áng hoặc vào làm nhà máy sợi để kiếm thêm dăm xu. Cả thầy cũng không có gì để trách mình ư? Thầy đã chẳng sai các con tưới vườn thay vì học hành đó sao? Và khi thầy muốn đi câu cá hương, thầy có ngại ngùng cho các con nghỉ học đâu?...
4. Thế rồi, từ điều này sang điều khác, thầy Ha-men nói với chúng tôi về tiếng Pháp, bảo rằng đó là ngôn ngữ hay nhất thế giới, trong sáng nhất, vững vàng nhất: phải giữ lấy nó trong chúng ta và đừng bao giờ quên lãng nó, bởi vì khi một dân tộc rơi vào vòng nô lệ, chừng nào họ vẫn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác gì nắm được chìa khoá chốn lao tù…
Rồi thầy cầm một quyển ngữ pháp và đọc bài học cho chúng tôi. Tôi kinh ngạc thấy sao mình hiểu đến thế. Tất cả những điều thầy nói, tôi thấy thật dễ dàng, dễ dàng. Tôi cũng cho là chưa bao giờ mình chăm chú nghe đến thế, và cả thầy giáo nữa, chưa bao giờ thầy kiên nhẫn giảng giải đến thế. Cứ như thể trước khi ra đi, con người tội nghiệp muốn truyền thụ toàn bộ tri thức của mình, muốn đưa ngay một lúc tri thức ấy vào đầu óc chúng tôi.
Xong bài giảng, chuyển sang viết tập. Thầy Ha-men đã chuẩn bị cho ngày hôm đó những tờ mẫu mới tinh, trên có viết bằng chữ rông thật đẹp: Pháp, An-dát, Pháp, An-dát. Những tờ mẫu treo trước bàn học trông như những lá cờ nhỏ bay phấp phới khắp xung quanh lớp. Ai nấy đều chăm chú hết sức và cứ im phăng phắc! Chỉ nghe thấy tiếng ngòi bút sột soạt trên giấy. Có lúc những con bọ dừa bay vào nhưng chẳng ai để ý, ngay cả những trò nhỏ nhất cũng vậy, chúng đang cặm cụi vạch những nét sổ với một tấm lòng, một ý thức, như thể cái đó cũng là tiếng Pháp… Trên mái nhà trường, chim bồ câu gù thật khẽ, và tôi vừa nghe vừa tự nhủ:
- Liệu người ta có bắt cả chúng nó cũng phải hót bằng tiếng Đức không nhỉ?
Chốc chốc, ngước mắt khỏi trang giấy, tôi thấy thầy Ha-men đứng lặng im trên bục và đăm đăm nhìn những đồ vật quanh mình như muốn mang theo trong ánh mắt toàn bộ ngôi trường nhỏ bé của thầy… Bạn nghĩ mà xem! Từ bốn mươi năm nay, thầy vẫn ngồi ở chỗ ấy, với khoảng sân trước mặt và lớp học y nguyên không thay đổi. Có chăng những chiếc ghế dài, những bàn học dùng nhiều đã nhẵn bóng, những cây hồ đào ngoài sân đã lớn, và cây hu-blông tự tay thầy trồng giờ đây quấn quýt quanh các khung cửa sổ lên tận mái nhà. Con người tội nghiệp hẳn phải nát lòng biết mấy khi giã từ tất cả những vật ấy, khi nghe thấy tiếng người em gái đi đi lại lại, đóng hòm xiểng, ở gian phòng bên trên, vì ngày mai họ phải ra đi, rời khỏi xứ sở này mãi mãi.
Tuy nhiên, thầy vẫn đủ can đảm dạy chúng tôi cho đến hết buổi. Sau tiết viết tập đến bài Lịch sử, rồi những trò nhỏ cất tiếng đọc đồng thanh như hát Ba Be Bi Bo Bu. Đằng kia, cuối phòng học, cụ Hô-de đã đeo kính lên, và nâng cuốn sách vỡ lòng bằng hai tay, cụ đánh vần từng chữ theo bọn trẻ. Cả cụ cũng chăm chú, giọng cụ run run vì xúc động; nghe cụ đọc thật kỳ cục, đến nỗi tất cả chúng tôi muốn cười và cũng muốn khóc… Ôi! Tôi sẽ nhớ mãi buổi học cuối cùng này!
5. Bỗng đồng hồ nhà thờ điểm mười hai giờ, rồi đến chuông cầu nguyện buổi trưa. Cùng lúc đó, tiếng kèn của bọn lính Phổ đi tập về vang lên ngoài cửa sổ… Thầy Ha-men đứng dậy trên bục, người tái nhợt. Chưa bao giờ tôi cảm thấy thầy lớn lao đến thế.
- Các bạn, thầy nói, hỡi các bạn, tôi… tôi…
Nhưng cái gì đó khiến thầy nghẹn ngào, không nói được hết câu.
Thầy bèn quay về phía bảng, cầm một hòn phấn và dằn mạnh hết sức, thầy cố viết thật to:
“NƯỚC PHÁP MUÔN NĂM!”.
Rồi thầy đứng đó, đầu dựa vào tường, và chẳng nói, giơ tay ra hiệu cho chúng tôi: “Kết thúc rồi… đi đi thôi!”.
***
DỌC ĐƯỜNG XỨ NGHỆ
1. Ba cha con Phó bảng lại thủng thẳng bước trên con đường mà sông núi mây trời đẹp như bức gấm thêu. Đi hết dãy núi Cấm, sang địa phận Diễn Châu, mảnh đất nổi tiếng trong lịch sử với tên gọi Châu Diễn, Côn tần ngần nhìn ngôi đền cổ kính có nhiều toà từ trên đỉnh núi xuống tận chân núi, sát đường Thiên lí. Côn ngạc nhiên hơn khi đứng trên dốc nhìn về phía tây, đối diện với ngôi đền, dãy núi xa xa rất nhiều hình nhiều vẻ, càng ngắm, núi càng biến hoá những hình ảnh theo sự tưởng tượng của Côn. Hòn lèn gần nhất, nằm ở giữa cánh cổng bát ngát màu xanh, lại y như một con người cụt đầu đứng hiên ngang giữa đời. Côn nói với cha:
- Thưa cha, con muốn được cha chỉ bảo chúng con về sự tích ngôi đền ni, về tên của các hòn núi kia, trông lạ mắt quá cha ạ.
Thấy con ham muốn tìm hiểu về cội nguồn, ông Sắc bước đến bên gốc cây tùng già, giở cơm nắm cho hai con ăn. Dưới bóng cây cổ thụ, ba cha con quan Phó bảng cùng nhìn về phía núi non biêng biếc trải tận chân trời xa, ông kể cho con nghe trọn câu chuyện tình sử Mỵ Châu - Trọng Thuỷ. Côn ngạc nhiên hỏi cha:
- Thành Cổ Loa ở mãi tận đâu, thưa cha?
- Cha chưa đi tới đó, nhưng cha đọc sách thấy xa... xa lắm, con ạ.
Khiêm lắc đầu, giọng hơi kéo dài:
- Người đời xưa có lẽ họ bịa chuyện chứ nàng Mỵ Châu kiếm đâu cho đủ lông ngỗng mà rải khắp con đường dài ấy cha?
Ông Sắc cười. Côn nói, vẻ thán phục:
- Chuyện Mỵ Châu - Trọng Thuỷ hay tuyệt, tài tình lắm. Con nhận thấy vua nhà Triệu nước Tàu nham hiểm ghê gớm. Chàng Trọng Thuỷ ngoan ngoãn làm theo mẹo của cha bày đặt. Còn vua nhà Thục nước ta lại trọng chữ tín, thành thật muốn hai nước ở kề nhau có hoà hiếu để dân được sống yên ổn làm ăn. Nhưng vua nước ta lại không đề phòng sự gian giảo, bội ước của vua nhà Triệu. Nàng Mỵ Châu lại ruột để ngoài da. Cha vậy, con vậy thì giữ nước làm sao được? Nhưng câu chuyện lại cho thấy điều đáng trọng, không khinh được của vua Thục là: Người đã phải tự chém con gái mình và tự xử án mình bằng hành động nhảy xuống biển về tội để mất nước chứ không cam chịu nộp mình cho giặc.
2. Quan Phó bảng Sắc hơi sững sờ nhìn hai con, nhìn ngôi đền thờ Thục Phán:
- Con nói đúng. Nước có lúc thịnh, lúc suy. Đó là điều thường thấy trong trời đất. Nhưng con người ta lại phải biết giữ trọn khí tiết. Vua Thục Phán thuộc loại đó. Con hãy để ý về phong cảnh núi non, đền đài. Con vừa hỏi cha về hòn núi kia giống một người cụt đầu. Người ta thường gọi nó là hòn Hai Vai hoặc là núi “Tướng quân rơi đầu” đó con ạ. Còn phía xa xa kia là hòn Trống Thủng. Từ hòn Trống Thủng, một dãy núi dài dằng dặc sát chân trời, đó là núi Cờ Rách.
Hai mắt Côn chơm chớp nhìn theo hướng tay chỉ của cha. Khiêm thì ngạc nhiên thốt lên:
- Ai tưởng tượng ra đầu tiên hình dáng các hòn núi nớ hẳn là mắt tiên, cha nhể?
- Từ lòng người mà suy ngẫm ra... con ạ. Người ta còn gọi vùng núi ấy là vùng Ba Hòn. Theo chuyện kể từ hồi xửa hồi xưa thì nước ta có giặc từ phương Bắc tràn vào, dân ở khắp miền đất nước ta nhất tề đứng dậy chống giặc giữ nước. Từ vùng Nghệ Tĩnh ni có một vị tướng kéo đại binh ra Bắc đánh dư trăm trận, chẳng may trong một trận giáp chiến, con ngựa của ông vấp phải cọc, quy chân trước, bọn giặc xúm lại, ông bị một lát đại đao đi qua cổ, đầu rơi xuống đất. Ông nhoại người ra lấy được đầu lắp lên cổ và phi ngựa mở đường máu chạy trở về. Quân sĩ của ông cũng kéo cờ mở trống về theo. Trên đường về, vị tướng này đã gặp một ông lão tại phía bắc sông Mã (Thanh Hoá). Vị tướng dừng ngựa, hỏi:
- Thưa ông, từ xưa đã có người nào bị chặt đầu, lại chắp lên cổ mà sống được không?
- Thưa tướng quân, sống được ạ.
Vị tướng lại thúc ngựa phi về tới Diễn Châu, quân sĩ bủa ra tận vùng Yên Thành. Vị tướng gặp một bà già ở phía nam sông Bùng liền hỏi:
- Thưa cụ, xưa nay có người nào bị chặt đầu, lại tự mình chắp vào cổ mà vẫn sống được không?
Bà cụ lắc đầu:
- Loài quỷ, loài yêu tinh thì mới có thể bị chặt đầu này mọc ra đầu khác, còn loài người thì nếu bị chặt đầu là chết.
Bà cụ vừa nói dứt lời, đầu vị tướng quân rơi xuống đất. Và ông đã hoá thành hòn núi Hai Vai. Ngựa của ông chạy thêm một đoạn lên vùng Yên Thành, hoá núi Mã Phục, tại làng Yên Mã. Trống, cờ cũng hoá thành núi Trống Thủng, núi Cờ Rách...
Nghe cha kể xong câu chuyện, Khiêm vẻ mặt đăm chiêu nghĩ ngợi... Côn mắt vẫn nhìn về hòn Hai Vai, nói:
- Cha ơi! Ước vọng của dân ta thật là đẹp. Tưởng tượng của người ta đến là tuyệt! Phải không cha?
- Con nói đúng. Dáng núi non của quê ta thường thể hiện khát vọng của con người.
3. [...] Quan Phó bảng Sắc đã dẫn hai con trai đi hầu khắp những nơi nổi tiếng về phong cảnh đẹp, về di tích lịch sử của Nghệ An. Ông lại đưa hai con sang Hà Tĩnh. Hai anh em Khiêm, Côn được cha dẫn về thăm nhà thờ họ Nguyễn Tiên Điền, thăm mộ đại thi hào Nguyễn Du. Côn tần ngần đứng bên cha, bên anh trước mộ Nguyễn Du và chạnh lòng thầm nhớ những câu thơ trong Truyện Kiều: Sè sè nấm đất bên đường / Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng, nửa xanh / Rằng sao trong tiết Thanh minh / Mà đây hương khói vắng tanh thế mà?...
Côn hỏi cha:
- Nguyễn Du đã để lại Truyện Kiều mà bà ngoại thuộc, mẹ của con thuộc, dì An và bao nhiêu người ở làng ta đều thuộc. Công lao lớn ấy sao dân lại không làm đền thờ ông Nguyễn Du, hả cha?
- Người quê mình không coi công việc làm thơ, làm văn là trọng, con ạ. Thậm chí lại coi những người đàn giỏi hát hay là “đồ xướng ca vô loài”.
- Sao con lại thấy có ngôi đền thờ thằng ăn trộm bị đánh chết, hả cha?
Quan Phó bảng phì cười:
- Cha làm sao giải thích nổi những điều ấy với con được?
Khiêm chau da trán, nhưng đã kìm được, chỉ nói “mát” em:
- Việc đời đã dớ dận, mi lại “thông minh” dớ dận nốt.
- Hứ, - Côn lườm anh Khiêm - anh đừng có khinh em là dớ dận. Anh không để ý chứ vừa rồi ta đi qua một cái miếu thờ cả cái tên ăn trộm, ăn cướp nữa. Trước cửa miếu có một hàng chữ lớn, đắp nổi: “Đạo tặc tối linh tôn thần”.
Khiêm im lặng. Ba cha con quan Phó bảng như rơi vào khoảng không và trong dòng suy nghĩ của mỗi người hiện lên một câu hỏi lớn về những việc đời...
(Búp sen xanh, NXB Kim Đồng, Hà Nội, 2005)
Các nhân vật trong ba văn bản Người đàn ông cô độc giữa rừng, Buổi học cuối cùng và Dọc đường xứ Nghệ đã thể hiện tình yêu nước như thế nào?
Sau khi tìm ý, chúng ta cần lập dàn ý cho bài nói (Chọn 2 phương án)
Tiếng nói dân tộc là ngôn ngữ chung được một cộng đồng xã hội sử dụng để giao tiếp. Dùng tiếng nói thống nhất là một đặc điểm chủ yếu của dân tộc. Giữ vững được tiếng nói thì sẽ không bao giờ quên Tổ quốc, sẽ luôn ấp ủ lòng nhiệt tình yêu nước. Trong các cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cùng với chủ trương đường lối lãnh đạo đúng đắn, thời cơ và những điều kiện vật chất khác thì ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá, tình yêu tiếng nói dân tộc sẽ tạo ra một sức mạnh tổng hợp về tinh thần đoàn kết, ý chí quyết chiến, quyết thắng để đấu tranh bảo vệ dân tộc. Vứt bỏ tiếng nói dân tộc, khước từ tiếng nói dân tộc là từ chối bản sắc văn hoá của dân tộc. Một dân tộc thực sự độc lập không chỉ tự do về mặt chủ quyền, lãnh thổ mà hơn hết là giữ vững được bản sắc văn hoá riêng. Văn hoá lại kết tinh trong ngôn ngữ dân tộc. Một khi ngôn ngữ đã bị đồng hoá, bị lai căng mất đi tinh hoa dân tộc thì việc tự đánh mất mình, trở thành kẻ phụ thuộc “ăn nhờ ở đợ” sẽ là điều tất yếu. Vì lẽ đó, trong tất cả cuộc xâm lăng, kẻ xâm lược luôn đặt vấn đề nô dịch văn hoá lên hàng đầu. Như vậy, tình yêu tiếng nói dân tộc giữ một vai trò nhất định, một sức mạnh to lớn trong quá trình đấu tranh, bảo vệ và giữ gìn phát triển một đất nước.
Nguyễn Thị Mỹ Lan - Phú Thọ
Đọc đoạn văn sau và sắp xếp các ý chính theo đúng trật tự mà người viết trình bày.
- Ngôn ngữ thể hiện bản sắc văn hoá riêng, thể hiện sự độc lập tự chủ của một dân tộc.
- Tình yêu tiếng nói dân tộc giữ một vai trò nhất định, một sức mạnh to lớn trong quá trình đấu tranh, bảo vệ và giữ gìn phát triển một đất nước. giữ gìn phát triển một đất nước.
- Dùng tiếng nói thống nhất là đặc điểm chủ yếu của một dân tộc.
- Tình yêu tiếng nói dân tộc tạo nên sức mạnh đoàn kết.
- Giữ vững tiếng nói là ấp ủ lòng nhiệt tình yêu nước.
Khi trình bày ý kiến của mình thì người nói và người nghe cần lưu ý những điều gì? Hãy xếp các từ khoá vào nhóm thích hợp.
- Theo dõi
- Ngôn ngữ cơ thể
- Khích lệ
- Nội dung
- Giọng điệu
- Trao đổi
Người nói
Người nghe
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- Xin chào mừng kem đã đến với khoa học
- Ngữ Văn lớp 7 bộ xe cánh diều cùng trang
- web
- lm.vn Cô rất vui khi được đồng hành cùng
- các em trong khóa học này trong giờ học
- nói và nghe Hôm nay khu sẽ hướng dẫn các
- em trình bày ý kiến về một vấn đề trong
- đời sống và để xác định đúng yêu cầu mục
- đích của bài nói chúng ta cùng nhau đến
- với phần đầu tiên phần định hướng để có
- được bài trình bày về một vấn đề trong
- đời sống đúng hướng trọng tâm và hấp dẫn
- chúng ta cần trả lời những câu hỏi sau
- thứ nhất Trình bày ý kiến về một vấn đề
- trong đời sống là gì thứ hai vẫn này ấy
- bắt nguồn từ đâu và thứ ba khi Trình bày
- chúng ta cần có những lưu ý gì sách giáo
- khoa đã giúp chúng ta trả lời câu hỏi
- đầu tiên trình bày ý kiến về một vấn đề
- trong đời sống là Nêu lên những suy nghĩ
- của từ trước một hiện tượng nào đó trong
- cuộc sống đưa ra được Lý lễ và bằng
- chứng để làm sáng tỏ ý kiến của mình
- nhằm thuyết phục người nghe tiếp theo
- những vấn đề mà chúng ta trao đổi là
- hiện tượng trong cuộc sống gắn liền với
- đời sống xã hội vì thế mà những vấn đề
- này sẽ bắt nguồn từ chính cuộc sống
- chúng ta bên cạnh đó những vấn đề còn có
- thể được gợi ra từ các tác phẩm văn học
- bởi những tác phẩm văn học tiêu được
- khơi nguồn từ cuộc sống con người vậy
- theo các em hay hình ảnh sau gợi cho em
- vấn đề gì trong cuộc sống
- em rất chính xác hai em bé trong bức
- tranh này Đang sử dụng điện thoại thông
- minh chúng ta có thể bắt gặp hình ảnh
- này rất nhiều trong cuộc sống hàng ngày
- và vấn đề được gợi ra ở đây chính là
- việc trẻ em tiếp xúc sớm với điện thoại
- thông minh
- còn bức tranh thứ hai minh họa cho một
- tác phẩm văn học thiếu nhi nổi tiếng là
- Dế Mèn Phiêu Lưu Ký trong chương trình
- lớp 6 kem đã được học một trích đoạn từ
- tác phẩm này có tên Bài học đường đời
- đầu tiên trên kể về Chàng dế mèn và gợi
- ra vấn đề cần bàn luận là thói hung hăng
- ngạo mạn của con người và để trình bày
- tốt ý kiến của mình về một vấn đề trong
- đời sống Chúng ta cần lưu ý một số những
- điểm sau Thứ nhất chúng ta cần xác định
- chủ đề việc này giúp các em đi vào trọng
- tâm vấn đề cần bàn luận và tránh lạc đề
- thứ hai là tìm ý và lập sẽ giúp cho bài
- nói có hệ thống ý rõ ràng mạch lạc và
- logic khi nói chúng ta không quên nội
- dung cần phải trình bày và cuối cùng là
- khi Trình bày thì chú ý điệu bộ và cử
- chỉ của mình tiếp theo chúng ta đến với
- phần thực hành sách giáo khoa đã đưa ra
- đề bài các văn bản đã học người đàn ông
- cô độc giữa rừng của tác giả đoàn ròi
- sắp đường xứ nghệ của Sơn Tùng và buổi
- học cuối cùng của anphongxô dode Ê đều
- nói đến những biểu hiện của lòng yêu
- nước ý kiến của em như thế nào để trình
- bày bài nói về vấn đề này được hiệu quả
- sách giáo khoa đã gợi ý cho chúng ta
- thực hành theo các bước sau Bước thứ
- nhất là chuẩn bị
- sau khi chuẩn bị chúng ta cần tìm ý và
- lập dàn ý
- tôi thứ ba chúng ta sẽ nói và nghe và
- cuối cùng là chúng ta sẽ kiểm tra và
- chỉnh sửa sau khi trình bày anh với bài
- tập được đưa xa chúng ta cần chuẩn bị
- những điều sau Thứ nhất là xem lại nội
- dung đọc hiểu của 3 văn bản thứ hai là
- xác định các biểu hiện của lòng yêu nước
- có trong ba văn bản này và cuối cùng là
- chuẩn bị các phương tiện như tranh ảnh
- nếu có sau khi xem lại nội dung của 3
- văn bản chúng ta có thể thấy điểm chung
- của ba văn bản này là đều nói về lòng
- yêu nước như vậy Nhận định đưa ra trong
- đề bài là hoàn toàn đúng vậy mỗi nhân
- vật trong các tác phẩm đã thể hiện lòng
- yêu nước như thế nào
- cùng biết về lòng yêu nước nhưng mỗi tác
- giả lại lựa chọn một cách thể hiện riêng
- trong người đàn ông cô độc giữa rừng
- chúng ta thấy được tinh thần kiên trung
- bất khuất sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ
- tổ quốc trong buổi học cuối cùng thì
- tình yêu nước chính là yêu và chân Ừ mẹ
- đề đau đớn khi không còn được học ngôn
- ngữ của dân tộc còn dọc đường Xứ Nghệ
- lại chọn cách thể hiện tình yêu nước qua
- sự am hiểu lịch sử nước nhà tự hào về
- những di tích cùng lịch sử hào hùng của
- dân tộc bên cạnh nội dung hấp dẫn thì để
- cho bài nói được người nghe chú ý hơn
- chúng ta có thể chuẩn bị thêm tranh ảnh
- để tạo ấn tượng thị giáp hay các video
- để tạo ấn tượng thính Giáp và đặc biệt
- để chạm đến cảm xúc cũng như thuyết phục
- người nghe chúng ta cần làm tốt bước thứ
- hai tìm ý và lập dàn ý khi tình ý để có
- thể tìm và chọn lọc được những ý đúng đủ
- và hai chúng ta cần trả lời 3 nội dung
- sau thế nào là lòng yêu nước lòng yêu
- nước được biểu hiện cụ thể trong mỗi văn
- bản như thế nào và cuối cùng Tại sao đó
- lại là những biểu hiện của lòng yêu nước
- sau khi tìm được các ý chúng ta sẽ lập
- dàn ý anh nói của mình có bạn cho rằng
- khi nói thì cứ nói tự nhiên và tự do
- theo các em vì sao chúng ta cần phải lập
- dàn ý
- không chỉ khi viết mới cần phải lập dàn
- ý mà Dàn ý còn có ý nghĩa quan trọng khi
- chúng ta chuẩn bị bài nói vậy Dàn ý của
- bài nói trình bày về một vấn đề trong
- đời sống Chúng ta cần đảm bảo đủ 3 phần
- mở đầu nội dung chính và kết thúc với đề
- bài mà sách giáo khoa đưa xa trong phần
- mở đầu chúng ta cần nêu lên vấn đề cần
- trình bày ở phần nội dung chính chúng ta
- cần đảm bảo các ý sau đây giải thích vấn
- đề biểu hiện của lòng yêu nước cụ thể ở
- mỗi văn bản và đưa ra lý lẽ lập luận
- giải thích vì sao những biểu hiện đó
- được coi là lòng yêu nước phần nội dung
- chính được coi là phần trọng tâm vì vậy
- mà chúng ta cần phải lựa chọn các ý và
- sắp xếp chúng Thành Ừ để duy trì sự mạch
- lạc và rõ ràng cho bài nói và cuối cùng
- trong phần kết thúc chúng ta cần khẳng
- định lại vấn đề và liên hệ với cuộc sống
- hiện nay sau đây cô sẽ giới thiệu tới
- các em Dàn ý minh họa để chúng ta có thể
- hình dung chi tiết hơn nhé chúng ta có
- thể mở đầu như sau yêu nước là tình cảm
- trân quý thiêng liêng và mỗi người lại
- thể hiện nó bằng những cách riêng của
- mình điều này chúng ta có thể thấy rõ
- trong các văn bản người đàn ông cô độc
- giữa rừng dọc đường xứ nghệ buổi học
- cuối cùng các nhân vật đều bày tỏ lòng
- yêu nước thiết tha nhưng mà những màu
- sắc rất riêng ở phần nội dung chính
- chúng ta có thể triển khai như sau thứ
- nhất Chúng ta cần giải thích yêu nước là
- dành tình cảm yêu thương cho quê hương
- đất nước ở phần biểu hiện cô sẽ Phân
- tích chi tiết trong một tác phẩm và cô
- lựa chọn tác phẩm Buổi Học Cuối Cùng
- Tình Yêu khi được thể hiện bằng tình yêu
- tiếng mẹ đề đau xót khi không được học
- tiếng nói dân tộc mình và tin tưởng và
- sự trường tồn của tiếng nói dân tộc và
- trong phần giải thích Lý do vì sao có
- thể khẳng định yêu tiếng nói dân tộc
- chính là một biểu hiện của lòng yêu nước
- thì chúng ta cần đưa ra các lý lẽ và dẫn
- chứng thuyết phụ phần trả lời cho câu
- hỏi vì sao có thể nói là phần khó nhất
- đòi hỏi chúng ta suy nghĩ và thể hiện rõ
- nhất được ý kiến của bản thân mình sau
- đây cô sẽ đưa ra bài làm nêu phần lí lẽ
- và dẫn chứng của một bạn học sinh để các
- em cùng phân tích và học hỏi nhé Em hãy
- đọc đoạn văn sau và sắp xếp các ý chính
- theo đúng trật tự mà Người viết trình
- bày
- Ừ
- để chứng minh cho lòng yêu nước thể hiện
- qua tình yêu tiếng nói dân tộc người
- biết ở đây đã đưa ra hệ thống ý được
- trình bày rõ ràng logic và thuyết phục
- đầu tiên người viết trả lời cho câu hỏi
- tiếng nói dân tộc là gì và khẳng định
- vai trò to lớn của tiếng nói dân tộc như
- giữ vững tiếng nói là ấp ủ lòng nhiệt
- tình yêu nước hay tình yêu tiếng nói dân
- tộc tạo nên sức mạnh đoàn kết và thứ ba
- tiếng nói dân tộc góp phần khẳng định
- độc lập tự do cho dân tộc và đi đến kết
- luận tình yêu tiếng nói dân tộc giữ một
- vai trò nhất định một sức mạnh to lớn
- trong quá trình đấu tranh bảo vệ và giữ
- gìn phát triển một đất nước sau khi đưa
- ra lễ người viết đưa ra dẫn chứng Tình
- Yêu tiếng Việt của người Việt chúng ta
- có thể thấy trong phần nêu lên dẫn chứng
- tác giả đã đưa ra một ví dụ thuyết phục
- tình yêu tiếng Việt một biểu hiện cho
- lòng yêu nước ở Việt có sức mạnh to lớn
- trong quá trình đấu tranh bảo vệ và phát
- triển đất nước lịch sử tiếng Việt gắn
- với lịch sử dựng nước và giữ nước tình
- yêu tiếng Việt của người Việt ở các thời
- kỳ Bắc thuộc hai kháng chiến chống Pháp
- và trải qua nhiều thử thách thì tiếng
- Việt vẫn được bảo tồn lưu giữ như vậy
- chúng ta thấy người viết không chỉ nêu
- ra dẫn chứng mà còn Phân tích chi tiết
- dẫn chứng để làm sáng tỏ cho lý lẽ của
- mình sau khi Nêu nội dung chính chúng ta
- sẽ đến với phần kết thúc tình cảm yêu
- nước là tình cảm đáng quý cần có ở mỗi
- người trong thời bình đặc biệt là trong
- cuộc sống hiện đại ngày nay mỗi người có
- thể lựa chọn những cách khác nhau để
- hướng về Tổ quốc mẹ sao đó là tình cảm
- trong sáng tự nhiên không vụ lợi như vậy
- cô đã cùng với các em dựng dàn ý cũng
- như tìm hiểu một dàn ý minh họa với hai
- tác phẩm còn lại các em cũng có thể làm
- theo ca em tự như trên cô tin chắc rằng
- chúng ta cũng sẽ đưa ra được những lí lẽ
- và dẫn chứng thuyết phục cho đề bài này
- sau khi lập dàn ý giờ là lúc chúng ta
- trình bày bài nói của mình cũng như làm
- nghe phần trình bày của các bạn khác ở
- bước nói và nghe trong vai người nói
- người nghe thấy em cần lưu ý những điều
- gì
- như vậy khi trình bày ý kiến về một vấn
- đề trong đời sống người nói cần chú ý
- tới nội dung trình bày của mình tránh
- viết thành văn để đọc thứ hai là chú ý
- đến giọng nói giọng điệu quan sát Thái
- độ lắng nghe ý kiến phản hồi của người
- nghe và cuối cùng là chú ý thể hiện ngôn
- ngữ cơ thể từ cử chỉ điệu bộ ánh mắt sao
- cho phù hợp với phần trình bày của mình
- còn người nghe khi Trình bày thì cần
- theo dõi và nắm được thông tin có người
- nói ghi chép các ý chính và các điểm
- Chưa rõ cần hỏi lại bên cạnh đó thì
- người nghe cần trao đổi cũng như đặt
- những câu hỏi về những vấn đề chưa rõ
- hoặc muốn mở rộng hiểu biết và cuối cùng
- thì sử dụng cử chỉ nên mặt ánh mắt để
- khích lệ người nói sau khi nói và nghe
- xong chúng ta đến với bước cuối cùng
- kiểm tra và chỉnh sửa
- đối với người nói thì cần xem lại nội
- dung ý kiến đã trình bày thứ hai là rút
- kinh nghiệm về cách phát biểu và thứ ba
- là xem xét lại nội dung cách thức trả
- lời câu hỏi và ý kiến trao đổi với các
- bạn
- còn người nghe khi cần hiểu đúng và tóm
- tắt các thông tin từ người nói bằng văn
- bản tập trung dõi theo phần trình bày
- của người nói thể hiện thái độ lịch sự
- cởi mở khi trao đổi với người nói kỹ
- năng nào cũng gần thời gian để luyện tập
- về kiểm tra và chị sẽ giúp các em rút ra
- những kinh nghiệm để kỹ năng nói dần
- hoàn thiện hơn không mong rằng các em sẽ
- luôn thật tự tin trình bày ý kiến của
- bản thân với người khác trước đám đông
- và có những bài nói những bài thuyết
- trình thật ấn tượng và thuyết phục bài
- học của chúng ta đến đây là kết thúc cảm
- ơn các em đã chú ý quan sát và lắng nghe
- hẹn gặp lại các em ở những bài giảng
- tiếp theo cùng olm.vn
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây