Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
Về nhà văn Đoàn Giỏi
- Nhà văn Đoàn Giỏi (17/05/1925-02/04/1989), ông sinh ra tại thị xã Mỹ Tho, tỉnh Mỹ Tho. Nay thuộc xã Tân Hiệp, Huyện Châu Thành, Tỉnh Tiền Giang. Xuất thân trong một gia đình địa chủ lớn trong vùng và giàu lòng yêu nước.
- Vào năm 1939, sau khi học xong bậc tiểu học ở quê nhà, ông lên Sài Gòn tiếp tục học trung học. Vốn là người say mê hội họa, ông đã trốn gia đình và quyết định thi vào Trường Mỹ thuật Gia Định và theo học ở trường được 1 năm, buộc phải nghỉ học khi gia đình phản đối.
- Không thành ở con đường hội họa, ông nhất quyết không theo học nguyện vọng của gia đình, ông lại theo đuổi con đường văn chương của mình.
- Sau chiến dịch Điện Biên Phủ thành công năm 1954, nhà văn Đoàn Giỏi được tập kết ra ngoài Miền Bắc và công tác tại Đài tiếng nói Việt Nam. Sau đó, ông chuyển sang làm việc ở hội nhà văn Việt Nam.
- Trong những năm tháng sống và làm việc ở Miền Bắc, ông cũng có điều kiện để chuyên tâm vào sự nghiệp viết văn của mình. Hầu hết những tác phẩm của ông viết ra đều viết về con người và mảnh đất Nam Bộ.
Đọc văn bản sau và hoàn thiện những thông tin về tác giả Đoàn Giỏi.
Tiểu sử | Cuộc đời | Sự nghiệp |
- Từng theo đuổi , ông quyết theo nghiệp văn chương. - Tham gia kháng chiến . |
- Chủ yếu viết về con người và núi rừng . |
NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÔ ĐỘC GIỮA RỪNG
ĐOÀN GIỎI
1. Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt ra, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. "A! Thế là đến nhà chú Võ Tòng rồi!" Tôi ngồi dậy, dụi mắt trông lên. Ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình nhưng khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu "ché... ét, ché... ét" trong lều, và tiếng chú Võ Tòng nói: thằng bé của anh nó lên đấy!".
- Vào đây, An! - Tía nuôi tôi gọi.
Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng lại trước cửa. Con vượn bạc má ngồi vắt vẻo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà ràng lửa cháy riu riu, trên cà ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít.
2. - Ngồi xuống đây, chú em!
Chú Võ Tòng đứng dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa. Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka-ki còn mới, nhưng đã coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần lính Pháp có những sáu túi). Bên hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi đã tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ.
Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên ở bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy. Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra.
- Ngủ đẫy giấc rồi à? Tía thấy con ngủ say, tía không gọi. Thôi, đã dậy rồi thì ngồi đây chơi!
- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà - Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay tôi.
Con vượn bạc má lại kêu "Ché... ét ché.,. ét..." ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm phức cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều. [...] Mùi lông khét xông khói lâu ngày tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi "ục... ục..." trên bếp cà ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kì loài người mới tìm ra lửa vậy.
3. Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. [...] Một buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng" hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng, cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ hết mực bèn liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba toong đánh lên đầu gã. "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà... thì số mày tới rồi!". Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc bó tay chịu tội.
Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh. Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên "Võ Tòng" từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội. Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn rực trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kì hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy...
4. Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe "pưng... pưng" rồi lại đặt xuống. Chú Võ Tòng rót rượu ra bát uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:
- Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy. Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ? Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. [...]
Trong giọng nói bỡn cợt của Võ Tòng có pha đượm một nỗi buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi bùi ngùi.
- Chú em cầm hộ lọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! - Chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi. [...]
5. Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây chung quanh lều. Chú Võ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi:
- Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.
Tía nuôi tôi vội đỡ lời:
- Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín dị đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì... chú cứ tin lời tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu.
- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.
Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn chạy theo ra cửa nhe răng nháy nhó, dọa tôi. Tía nuôi tôi đập đập tay vào lưng chú Võ Tòng:
- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!
- Có gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!
Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:
- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!
- Ờ thể nào cũng có chứ? Chú nuôi đầy rừng, muốn con cỡ nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy! - Chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.
(Đất rừng phương Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2010)
Nhan đề Người đàn ông cô độc giữa rừng gợi lên ấn tượng nào dưới đây?
NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÔ ĐỘC GIỮA RỪNG
ĐOÀN GIỎI
1. Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt ra, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. "A! Thế là đến nhà chú Võ Tòng rồi!" Tôi ngồi dậy, dụi mắt trông lên. Ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình nhưng khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu "ché... ét, ché... ét" trong lều, và tiếng chú Võ Tòng nói: thằng bé của anh nó lên đấy!".
- Vào đây, An! - Tía nuôi tôi gọi.
Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng lại trước cửa. Con vượn bạc má ngồi vắt vẻo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà ràng lửa cháy riu riu, trên cà ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít.
2. - Ngồi xuống đây, chú em!
Chú Võ Tòng đứng dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa. Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka-ki còn mới, nhưng đã coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần lính Pháp có những sáu túi). Bên hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi đã tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ.
Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên ở bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy. Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra.
- Ngủ đẫy giấc rồi à? Tía thấy con ngủ say, tía không gọi. Thôi, đã dậy rồi thì ngồi đây chơi!
- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà - Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay tôi.
Con vượn bạc má lại kêu "Ché... ét ché.,. ét..." ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm phức cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều. [...] Mùi lông khét xông khói lâu ngày tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi "ục... ục..." trên bếp cà ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kì loài người mới tìm ra lửa vậy.
3. Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. [...] Một buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng" hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng, cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ hết mực bèn liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba toong đánh lên đầu gã. "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà... thì số mày tới rồi!". Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc bó tay chịu tội.
Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh. Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên "Võ Tòng" từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội. Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn rực trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kì hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy...
4. Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe "pưng... pưng" rồi lại đặt xuống. Chú Võ Tòng rót rượu ra bát uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:
- Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy. Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ? Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. [...]
Trong giọng nói bỡn cợt của Võ Tòng có pha đượm một nỗi buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi bùi ngùi.
- Chú em cầm hộ lọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! - Chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi. [...]
5. Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây chung quanh lều. Chú Võ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi:
- Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.
Tía nuôi tôi vội đỡ lời:
- Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín dị đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì... chú cứ tin lời tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu.
- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.
Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn chạy theo ra cửa nhe răng nháy nhó, dọa tôi. Tía nuôi tôi đập đập tay vào lưng chú Võ Tòng:
- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!
- Có gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!
Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:
- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!
- Ờ thể nào cũng có chứ? Chú nuôi đầy rừng, muốn con cỡ nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy! - Chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.
(Đất rừng phương Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2010)
Chọn những sự kiện xảy ra trong văn bản. (Chọn đáp án đúng)
Đất rừng phương Nam là tiểu thuyết của nhà văn Đoàn Giỏi, viết về cuộc đời phiêu bạt của cậu bé An. An theo cha mẹ chạy giặc Pháp hết vùng này tới vùng khác của miền Tây Nam Bộ rồi lạc mất gia đình, trở thành cậu bé lang thang. Trong lúc lưu lạc, em đã gặp và trở thành con nuôi gia đình ông Hai bán rắn, làm anh em với thằng Cò và làm bạn với chú Võ Tòng. Đoạn trích Người đàn ông cô độc giữa rừng kể lại việc tía nuôi dắt An đi thăm chú Võ Tòng.
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống để tái hiện lại bối cảnh chung của tác phẩm.
Không gian: .
Thời gian: .
NGƯỜI ĐÀN ÔNG CÔ ĐỘC GIỮA RỪNG
ĐOÀN GIỎI
1. Chắc tôi ngủ một giấc lâu lắm thì phải. Khi tôi mở mắt ra, thấy xuồng buộc lên một gốc cây tràm. Không biết tía nuôi tôi đi đâu. Nghe có tiếng người nói chuyện rì rầm bên bờ. "A! Thế là đến nhà chú Võ Tòng rồi!" Tôi ngồi dậy, dụi mắt trông lên. Ánh lửa bếp từ trong một ngôi lều chiếu qua khung cửa mở, soi rõ hình nhưng khúc gỗ xếp thành bậc thang dài xuống bến. Tôi bước ra khỏi xuồng, lần theo bậc gỗ mò lên. Bỗng nghe con vượn bạc má kêu "ché... ét, ché... ét" trong lều, và tiếng chú Võ Tòng nói: thằng bé của anh nó lên đấy!".
- Vào đây, An! - Tía nuôi tôi gọi.
Tôi bước qua mấy bậc gỗ trơn tuột, và dừng lại trước cửa. Con vượn bạc má ngồi vắt vẻo trên một thanh xà ngang, nhe răng dọa tôi. Tía nuôi tôi và chú Võ Tòng ngồi trên hai gộc cây. Trước mặt hai người, chỗ giữa lều, có đặt một cái bếp cà ràng lửa cháy riu riu, trên cà ràng bắc một chiếc nồi đất đậy vung kín mít.
2. - Ngồi xuống đây, chú em!
Chú Võ Tòng đứng dậy, lôi một gộc cây trong tối đặt bên bếp lửa. Chú cởi trần, mặc chiếc quần ka-ki còn mới, nhưng đã coi bộ đã lâu không giặt (chiếc quần lính Pháp có những sáu túi). Bên hông, chú đeo lủng lẳng một lưỡi lê nằm gọn trong vỏ sắt, đúng như lời má nuôi tôi đã tả. Lại còn thắt cái xanh-tuya-rông nữa chứ.
Tôi không sợ chú Võ Tòng như cái đêm đã gặp chú lần đầu tiên ở bờ sông, mà lại còn có đôi chút cảm tình xen lẫn với ngạc nhiên hơi buồn cười thế nào ấy. Tía nuôi tôi ngó tôi, cười cười nhấc cái tẩu thuốc lá ở miệng ra.
- Ngủ đẫy giấc rồi à? Tía thấy con ngủ say, tía không gọi. Thôi, đã dậy rồi thì ngồi đây chơi!
- Nhai bậy một miếng khô nai đi, chú em. Cho đỡ buồn miệng mà - Chú Võ Tòng nhặt trong lửa ra một ra một thỏi khô nướng to nhất đặt vào tay tôi.
Con vượn bạc má lại kêu "Ché... ét ché.,. ét..." ở phía trên đầu tôi. Tôi cứ mặc kệ nó, vừa xé miếng thịt khô ướp muối sả nướng thơm phức cho vào mồm nhai, vừa đưa mắt nhìn quanh ngôi nhà lều. [...] Mùi lông khét xông khói lâu ngày tỏa ra, cùng với một làn khói gì mùi hăng hắc, màu xanh xanh bay ra từ chiếc nồi đậy kín vung sôi "ục... ục..." trên bếp cà ràng, khiến tôi có một thứ cảm giác rợn rợn không tả được. Dường như những cái bóng lặng lẽ ngồi bên bếp đây đang sống lùi lại từ cái thời kì loài người mới tìm ra lửa vậy.
3. Không ai biết tên thật của gã là gì. Mười mấy năm về trước gã một mình bơi một chiếc xuồng nát đến che lều ở giữa khu rừng đầy thú dữ này. Gã sống đơn độc một mình, đến con chó làm bạn cũng không có. Hồi ấy, rừng này còn nhiều hổ lắm. [...] Một buổi trưa gã đang ngủ trong lều, có con hổ chúa mò vào, từ ngoài sân phóng một cái phủ lên người gã. Bất thần gã tỉnh dậy. Gã vớ luôn cái mác thông bên người, cũng không kịp ngồi dậy nữa, cứ nằm ngửa thế mà xóc mũi mác lên đâm thẳng một nhát vào hàm dưới con hổ chúa, hai chân gã đá thốc lên bụng nó, không cho con ác thú kịp chụp xuống người. Con hổ chúa lộn vòng, rơi xuống đất. Lưỡi mác đâm từ hàm dưới thấu lên tận óc, làm nó không há họng được, nhưng vẫn còn cố vớt cái tát cuối cùng, để lại trên mặt gã một hàng sẹo khủng khiếp chạy từ thái dương xuống cổ. Không biết có phải do đấy mà gã mang tên "Võ Tòng" hay không? Chứ theo như một vài ông lão đa sự, thì ngày xưa gã là một chàng trai hiền lành, ở tận một vùng xa lắm. Gã cũng có gia đình đàng hoàng như ai. Vợ gã là một người đàn bà trông cũng xinh mắt. Chị ấy lúc chửa đứa con đầu lòng, cứ kêu thèm ăn măng. Gã đàn ông hiền lành, quý vợ hết mực bèn liều xách dao đến bụi tre đình làng xắn một mụt măng. Khi về qua ngang bờ tre nhà tên địa chủ, tên này bắt gã bỏ mụt măng xuống và vu cho gã lấy trộm măng tre của hắn. Gã một mực cãi lại, nhưng tên đại địa chủ quyền thế nhất xã ấy cứ vung ba toong đánh lên đầu gã. "Đánh đâu thì còn nhịn được, chứ đánh lên đầu là nơi thờ phụng ông bà... thì số mày tới rồi!". Lưỡi dao trên tay gã không cho phép tên địa chủ ngang ngược kia giơ tay đánh ba-toong lên đầu gã đến cái thứ hai. Nhát dao chém trả vào mặt đã gí tên bóc lột và hống hách này nằm gục xuống vũng máu. Nhưng gã không trốn chạy. Gã đường hoàng xách dao đến ném trước nhà việc bó tay chịu tội.
Sau mười năm tù đày, gã trở về làng cũ nghe tin vợ đã làm lẽ tên địa chủ kia, và đứa con trai độc nhất mà gã chưa biết mặt thì đã chết từ khi gã còn ngồi trong khám lạnh. Người trong xã vốn ghét tên địa chủ hống hách, khấp khởi chờ xem cuộc rửa thù bằng máu lần thứ hai. Nhưng họ đã thất vọng. Gã chỉ kêu trời một tiếng rồi cười nhạt bỏ làng ra đi. Những người đa sự quả quyết rằng chính gã đã mang tên "Võ Tòng" từ lúc xách dao đến nhà việc chịu tội. Còn như những chữ bùa xanh lè xăm rằn rực trên người gã, và gã trở nên một người giỏi võ từ lúc nào, thì có kẻ nói đó là dấu vết trong những năm gã ở tù, lại có người bảo đó là mới có từ lúc gã đi giang hồ. Hơn mười năm sống trơ trọi giữa rừng mặc dầu cũng có nhiều người đánh tiếng mối mai cho gã, nhưng tuyệt nhiên Võ Tòng không để mắt tới một người đàn bà nào nữa. Ở trong rừng lâu năm chầy tháng, gã ngày càng trở nên kì hình dị tướng. Nhưng ai cũng mến gã ở cái tính tình chất phác thật thà, lúc nào cũng sẵn sàng giúp đỡ mọi người mà không hề nghĩ đến chuyện người ta có đền đáp lại mình hay không. Điều đó, má nuôi tôi quả quyết, nói một cách chắc chắn như vậy...
4. Chú Võ Tòng vẫn ngồi đó, đối diện với tía nuôi tôi, bên bếp lửa. Tía nuôi tôi tay cầm một chiếc nỏ lên ngắm nghía; bật thử sợi dây nỏ trên đầu ngón tay nghe "pưng... pưng" rồi lại đặt xuống. Chú Võ Tòng rót rượu ra bát uống một ngụm, trao bát sang cho tía nuôi tôi, và nói:
- Con dao găm của anh Hai cùng với cánh nỏ này, thừa làm nên chuyện. Mình thì cần gì tới súng? Mấy thằng nhát gan mới cần súng, vì súng ở xa cũng bắn được mà! Phải không anh Hai? Tôi cho rằng súng dở lắm, động tới thì kêu ầm ĩ. Tôi ghét tiếng nổ lắm. Như cái bận tôi làm vừa rồi đấy. Tách một tiếng, chết ngay thằng giặc Pháp râu xồm, mà cái thằng đứng cách năm sáu thước không hay biết gì cả. Tới chừng tôi mò ra tháo cây tiểu liên nghe động sột soạt, nó mới quay lại thấy tôi, liền bắn tôi một phát súng mút nhưng trượt. Tiếng súng của nó bắn ra mà cha con chúng nó hoảng lên, hò hét chạy lung tung mới buồn cười chứ? Tôi xách cây tiểu liên bay vào rừng, chờ tối mò trở ra. [...]
Trong giọng nói bỡn cợt của Võ Tòng có pha đượm một nỗi buồn chua chát, khiến tôi vừa ngồi nghe vừa nhìn bếp lửa cháy riu riu mà không khỏi bùi ngùi.
- Chú em cầm hộ lọ muối chỗ vách kia đưa giùm qua chút! - Chú Võ Tòng đổi giọng, vui vẻ bảo tôi. [...]
5. Bên ngoài, trời rạng dần. Đã nghe một vài tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở dậy đón bình minh trên những ngọn cây chung quanh lều. Chú Võ Tòng trao chiếc nỏ và ống tên thuốc cho tía nuôi:
- Cứ tình hình này thì chúng nó sẽ mò tới đây thôi. Tôi quý anh Hai là bậc can trường, nên mới dám chọn mặt gửi vàng. Chứ những mũi tên độc này mà lọt vào tay một người hèn nhát, thì nó sẽ gây nhiều tác hại đấy. Sở dĩ tôi không dám nói với bà chị, là còn e bà chị ngại điều nguy hiểm, biết đâu sẽ ngăn trở công việc của chúng ta.
Tía nuôi tôi vội đỡ lời:
- Chú phòng xa như vậy cũng phải. Đàn bà nhà tôi còn mê tín dị đoan, tin có trời có phật. Nhưng về cái gan dạ thì... chú cứ tin lời tôi, bả không thua anh em ta một bước nào đâu.
- Vậy thì tôi có lỗi với chị Hai quá trời, để bữa nào ta làm một bữa rượu để tôi tạ lỗi với bà chị của tôi mới được.
Tôi đã bước xuống cởi dây buộc xuồng mà con vượn bạc má còn chạy theo ra cửa nhe răng nháy nhó, dọa tôi. Tía nuôi tôi đập đập tay vào lưng chú Võ Tòng:
- Xin đa tạ chú! Đa tạ chú!
- Có gì đâu anh Hai. Vì nghĩa chung mà!
Tía nuôi tôi lưng đeo nỏ, hông buộc ống tên bước xuống xuồng. Tôi cầm giầm bơi nhưng còn ngoái lên, nói với:
- Chào chú ạ! Hôm nào chú sang chơi, nhớ mang theo một con nai hay một con heo rừng be bé, chú nhá!
- Ờ thể nào cũng có chứ? Chú nuôi đầy rừng, muốn con cỡ nào chú bắt cho đúng con cỡ ấy! - Chú Võ Tòng vẫy vẫy tay, cười lớn một thôi dài.
(Đất rừng phương Nam, NXB Văn học, Hà Nội, 2010)
Chọn từ ngữ thích hợp điền vào chỗ trống để hoàn thiện bối cảnh riêng của đoạn trích.
Không gian: Trong một căn .
Thời gian: .
(Kéo thả hoặc click vào để điền)
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- Xin chào mừng tất cả các em đã quay trở
- lại với khóa học Ngữ Văn lớp 7 bộ sách
- cánh diều cùng trang web olm.vn các em
- thân mến Chúng ta đang ở chủ đề đầu tiên
- của chương trình Ngữ Văn lớp 7 bài 1
- truyện và tiểu thuyết ngày hôm nay thì
- chúng ta sẽ đi tìm hiểu văn bản đầu tiên
- của bài một văn bản có mang tên người
- đàn ông cô độc giữa rừng phần chích học
- này được lấy từ tiểu thuyết Đất Rừng
- Phương Nam của nhà văn Đoàn Giỏi bây giờ
- chúng ta sẽ cùng bước vào phần đầu tiên
- của bài học ngày hôm nay đó chính là
- phần khởi động bây giờ cô mới có em cùng
- quan sát bốn bức tranh sau Các em có thể
- quan sát thấy ở trong bún bức tranh này
- là những khung cảnh vô cùng đặc trưng
- của dải đất phía Nam đất nước ta nơi có
- những cánh rừng ngập mặn có hệ thống
- sông ngòi kênh rạch chằng chịt và đây
- cũng chính là mối em về không gian sẽ
- xuất hiện ở trong tiểu thuyết Đất Rừng
- Phương Nam vậy Bây giờ chúng ta sẽ cùng
- bước vào tìm hiểu bài học để tìm hiểu về
- mảnh đất và con người nơi đây được thể
- hiện như thế nào và tác phẩm nhé
- khi chúng ta sẽ cùng nhau đi hình thành
- những tri thức mới trong Bài học này đầu
- tiên ta sẽ đi tìm hiểu chung về tác giả
- và tác phẩm trước hết là về tác giả vậy
- Bây giờ ta sẽ cùng đi tìm hiểu một số
- thông tin cơ bản về tác giả đoàn giỏi
- thông qua câu hỏi tương tác sao nhé
- sau khi tìm hiểu về bất kỳ một tác giả
- nào chúng ta cũng đều cần quan tâm đến
- những thông tin như sau đó là tiểu sử
- cuộc đời và sự nghiệp về tiểu sử của nhà
- văn Đoàn Giỏi thì ông sinh năm 1925 và
- mất năm 1989 ông quê ở tỉnh Tiền Giang
- cuộc đời ông có những nét cần chú ý như
- sau đó là ông từng theo đuổi hội họa
- nhưng gia đình phản đối sau đó thì ông
- đã quyết theo nghiệp văn chương là một
- con người đam mê và yêu nghệ thuật thế
- nhưng nhà văn cũng đã từng tham gia vào
- kháng chiến chống Pháp và sau chiến dịch
- Điện Biên Phủ thành công năm 1954 nhà
- văn Đoàn Giỏi được tập kết ra ngoài miền
- Bắc và công tác tại Đài tiếng nói Việt
- Nam ông đã từng nắm nhiều chức vụ quan
- trọng trong cuộc đời của mình như phó
- Tea tuyên truyền Tỉnh Mỹ Tho phó trưởng
- thông tin Rạch Giá ủi dịch vụ ban chấp
- hành hội văn nghệ Nam bộ Phó phòng văn
- nghệ sở thông tin nam bộ ủy viên ban
- chấp hành Hội Nhà văn thành phố Hồ Chí
- Minh tiếp theo về sự nghiệp thì trong
- các tác phẩm của mình ông chủ yếu viết
- về con người và núi rừng phương Nam quê
- hương của ông một số tác phẩm nổi tiếng
- của ông có thể kể tới như Đất Rừng
- Phương Nam cá bống mú đường về ra Hương
- tiếp theo về tác phẩm chúng ta cần chú ý
- một số thông tin như sau
- tiểu thuyết Đất Rừng Phương Nam được
- sáng tác vào năm
- 1957 về dung lượng thì tiểu thuyết này
- gồm 20 chương Nội dung chính của tiểu
- thuyết đó là viết về cuộc đời phiêu bạt
- của cậu bé tên An còn về văn bản trích
- học thì chúng ta cần chú ý một số thông
- tin chung như tác phẩm này nằm ở chương
- 10 chương này họ tên đầy đủ là trong lều
- người đàn ông cô độc giữa rừng phần
- chích học của chúng ta có nội dung chính
- như sau đó là tía nuôi dắt An đi thăm
- trúm Võ Tòng và về phần chích học này
- thì chúng ta cũng cần lưu ý tới nhan đề
- của văn bản nhan đề của phần triết học
- là người đàn ông cô độc giữa rừng nhan
- đề này thì đã được sách giáo khoa biên
- soạn lại nó cũng gần giống với tên của
- chương mà văn bản này đã được trích ra
- vậy khi các em đọc nhan đề người đàn ông
- cô độc giữa rừng thì điều gì đã được gợi
- ra trong tâm trí của chúng ta
- em à khi chúng ta đọc nhan đề này lên
- thì sẽ gợi cho chúng ta suy nghĩ về cuộc
- đời của nhân vật người đàn ông được nhắc
- đến trong nhan đề là ai Tại sao người ấy
- lại sống cô độc giữa rừng Ông ta là một
- người như thế nào có thể rất nhiều câu
- hỏi đã được đội ra sau khi chúng ta tiếp
- xúc với nhan đề của văn bản vậy Bây giờ
- chúng ta sẽ cùng bước vào phần thứ hai
- Tìm hiểu chi tiết về tác phẩm để cùng
- tìm hiểu về những điều đó nhé Phần đầu
- tiên của vận Tìm hiểu chi tiết đó chính
- là phần chuẩn bị để có thể đọc hiểu thật
- tốt văn bản người đàn ông cô độc giữa
- rừng chúng ta cần chuẩn bị những thứ như
- sau đó là cần phải tóm tắt được nội dung
- của văn bản Chuyện đã kể lại sự kiện gì
- xảy ra trong bối cảnh nào đồng thời thì
- chúng ta cần quan tâm đến những nhân vật
- đã được xây dựng trong văn bản đặc biệt
- là nhân vật chính tiếp theo đó là ngôi
- kể cô diện cũng như những tình cảm đã
- được khơi gợi từ văn bản sau khi đọc
- tiếp theo chúng ta sẽ cùng đi Đọc văn
- bạt các em nhé Đọc văn bản là một phần
- vô cùng quan trọng trước khi đọc hiểu
- bất cứ văn bản nào bởi vì Chỉ khi các em
- đọc văn bản năm kỹ được những nội dung
- được thể hiện trong tác phẩm thì mới có
- thể chiếm lĩnh được những kiến thức từ
- tác phẩm đó
- sau khi Đẹp phần bản thì chúng ta sẽ
- cùng đi đọc hiểu văn bản này để đọc hiểu
- được văn bản chúng ta sẽ chú ý đến những
- nội dung sau và đây cũng chính là những
- đặc trưng của một tác phẩm truyện là
- những kiến thức các em cần rút ra và nắm
- được khi đọc hiểu bất kỳ tác phẩm truyện
- nào đó là những kiến thức về cốt truyện
- bối cảnh nhân vật ngồi kể ngôn ngữ đề
- tài chủ đề và ý nghĩa của tác phẩm bây
- giờ ở cùng bước vào phần 3.1 Tìm hiểu về
- cốt truyện và bối cảnh của tác phẩm
- vậy văn bản người đàn ông cô độc giữa
- rừng có cốt truyện như thế nào Các em
- hãy giúp cô xác định qua câu hỏi từ các
- sau nhé ê
- lê văn bản này có câu chuyện gì sau đó
- là An cùng tiền nuôi lên thăm chú Võ
- Tòng rồi Đây là lần thứ hai a được tiếp
- xúc với chú Võ Tòng và cậu bé đã bày tỏ
- những ấn tượng với chú sau đó lai lịch
- của chú Võ Tòng đã được hé lộ tiếp theo
- chú Võ Tòng Và Tuyến nuôi của An bàn về
- Cách dùng dao nó để giết giặc và cuối
- cùng thì chú Võ Tòng chào chiếc nó cho
- Tiến nuôi và họ chia tay nhau tiếp theo
- chúng ta tìm hiểu về bối cảnh của văn
- bản khi tìm hiểu về bối cảnh thì chúng
- ta sẽ tìm hiểu về bối cảnh chung của
- tiểu thuyết và bối cảnh riêng của phần
- được chích học về bối cảnh chung của
- tiểu thuyết thì các em hãy đọc thật kĩ
- đoạn văn sau và rút ra cho cô những nhận
- xét về bối cảnh chung của tiểu thuyết
- Đất Rừng Phương Nam về không gian và
- thời gian nhé á
- em
- về bối cảnh của tiểu thuyết Đất Rừng
- Phương Nam thì chúng ta có nhận xét như
- sau không ra đó là miền Tây Nam Bộ còn
- thời gian là những năm kháng chiến chống
- Pháp bối cảnh chung này giúp cho chúng
- ta hiểu được không khí của toàn bộ câu
- chuyện đó chính là không khí của cuộc
- kháng chiến chống Pháp và cũng chính là
- nguyên nhân của cuộc gặp gỡ trong phần
- triết học này vậy văn bản người đàn ông
- cô độc giữa rừng có bối cảnh riêng như
- thế nào
- văn bản này có bối cảnh riêng về không
- gian đó là ở trong một căn lều nhỏ nằm
- sâu trong rừng còn về thời gian thì là
- lúc nửa đêm về sáng chúng ta có thể biết
- được về thời gian của cuộc gặp gỡ này
- qua một chi tiết ở đầu của đoạn năm đó
- là bên ngoài trời dạng dần đã nghe một
- vài tiếng chim rừng ríu rít gọi nhau trở
- dậy đón bình minh ở những ngọn cây trùng
- quanh lều tác giả đã xây dựng bối cảnh
- này với ý đồ đó là muốn tạo cho người
- đọc cảm giác về sự bí mật hồi hộp pha
- chút chọn lợn cho thấy đây là của gặp để
- ban chuyện hệ trọng cần được sự kín bối
- cảnh có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
- với một tác phẩm tự sự nó có mối quan hệ
- vô cùng chặt chẽ với các sự việc được
- diễn ra trong văn bản và bài học ngày
- hôm nay của chúng ta cũng sẽ kết thúc
- tại đây trong video tiếp theo cô và các
- em sẽ cùng nhau đi tìm hiểu vì các nhân
- vật trong văn bản này nhé Bài giảng ngày
- hôm nay đến đây là kết thúc cảm ơn tất
- cả các em đã chú ý quan sát và lắng nghe
- hẹn gặp lại các em ở những bài giảng
- tiếp theo cùng org.vn
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây