Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
Bài giảng giúp học sinh:
- Tìm hiểu chung về tác giả, tác phẩm
- Tìm hiểu chi tiết về văn bản
- Tổng kết
Ghe xuồng Nam Bộ
(1) […] Ghe xuồng Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu loại, tên gọi khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và phương thức hoạt động, ta có thể phân chia thành nhiều loại.
(2) Về xuồng, có các loại phổ biến như xuồng ba lá, xuồng năm lá, xuồng tam bản, xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng máy,…
Xuồng ba lá có chiều dài trung bình 4 mét, rộng 1 mét, sức chở từ 4 – 6 người. Xuồng làm bằng ba tấm ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và lái đều nhọn. Dùng sào nạng và bơi chèo để đi lại. Riêng Cần Thơ có xuồng năm lá.
Xuồng tam bản có 4 bơi chèo, dùng để chuyên chở nhẹ. Có loại thon dài, lại thêm mui ống, dáng đẹp. Số lượng tấm ván be không chỉ có 3 mà có thể là 5 hoặc 7 đến 9 tấm. Các điền chủ hạng nhỏ và vừa thường sử dụng để đi lại trên sông rạch. Ở Vĩnh Long, xuồng tam bản còn dùng để đi câu tôm hoặc dùng làm xuồng cào tôm cá. […]
Xuồng vỏ gòn (giống vỏ trái gòn) kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản, kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn bán.
Xuồng độc mộc (ghe lườn) do người Khmer làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt, khoét rỗng ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Cam-pu-chia và Lào. […]
Xuồng máy gắn máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm là loại phương tiện rất “cơ động”, phổ biến ở vùng sông nước này, nhất là trong giới thương hồ.
(3) Về ghe, thường là những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài.
Ghe bầu là loại ghe có mũi và lái nhọn, bụng phình to, có tải trọng tương đối lớn, chạy buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và đi biển dài ngày, thường dùng đi đường biển. Loại ghe bầu lớn thường gọi là ghe trường đà. Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mã Lai, do người Việt trong quá trình Nam tiến tiếp thu được của người Chăm. […]
(i) Tam bản: xuất xứ từ tiếng Hoa “xam pản”, người Pháp phiên âm thành “sampan” (Cước chú của tác giả văn bản)
Ghe lồng (hay ghe bản lồng); loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa nắng, lòng ghe được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác nhau. Loại ghe này dùng vận chuyển hàng hoá đi dọc bờ biển. [...]
Ghe chài: to và chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai tầng. Ghe được chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hoá, phần sau là chỗ nghỉ cho người đi ghe. Một mui rời phía sau phòng lái dùng làm nơi tắm rửa, nấu cơm. Ghe có sức chở từ 150 – 200 tấn, riêng loại ghe chài Nam Vang chở được đến 300 tấn. Ghe chài thường có cả chục người chèo với kiểu chèo “neo” ngược chứ không như kiểu chèo ghe bình thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe chài. Ghe dùng cho người đi buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông nước. Thường dùng chở lúa gạo, than củi. [...]
Ghe cào tôm: đầu mũi dài và khá phẳng, có bánh lái gập bên hông, dáng nhỏ. Loại ghe này thường dùng cào tôm vào ban đêm. [...]
Ghe ngo: loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Khmer, thường dùng để bơi đua trong các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài khoảng 30 mét. Ghe không mui, ở đầu mũi chạm hình rồng, rắn, phụng, lân hoặc voi, sư tử, ó biển. Mỗi chiếc có thể chở trên dưới 50 tay chèo và có một người ngồi đằng mũi chỉ huy, một người đứng giữa ghe giữ nhịp.
Ghe hầu: dành cho cai tổng, tri phủ, tri huyện. Ban đêm, ghe thắp sáng không phải vì mục đích soi đường, mà để báo hiệu cho biết là ghe của quan. […]
Ngoài ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù hợp với điều kiện sông nước và nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. Một số loại ghe có tiếng như:
Ghe câu Phú Quốc (Kiên Giang) có buồm, có 5 cặp chèo, dùng để đánh bắt thuỷ sản. [...]
Ghe cửa Bà Rịa để chuyên chở thuỷ sản.
Ghe lưới rùng Phước Hải (Long Đất, Bà Rịa – Vũng Tàu) dùng đánh bắt thuỷ sản.
Ghe Cửa Đại dùng đánh bắt trên biển, chuyên chở hàng hoá đi biển hoặc trên các con sông lớn. Loại ghe này có nét đặc trưng, khá nổi tiếng, do những thợ thủ công Bình Đại (Bến Tre) đóng. […]
(ii) Chài: xuất xứ từ tiếng “pok chài” của người Triều Châu, Trung Quốc (pok: nhiều; chài: tải). Ghe chài: loại ghe có sức tải lớn (Cước chú của tác giả văn bản).
(4) Ghe xuồng ở Nam Bộ vừa là một loại phương tiện giao thông vô cùng hữu hiệu, gắn bó mật thiết với cư dân vùng sông nước, lại vừa ẩn chứa bên trong những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Mai đây, ở vùng châu thổ này, phương tiện khoa học kĩ thuật có phát triển đến mấy đi nữa, đời sống người dân có khấm khá hơn, nhưng chắc rằng vai trò của “người bạn đường” này là không thể thay thế được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (Chủ biên), Văn hóa & cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
2. Nguyễn Hữu Hiệp, Sông núi quê nhà, Hội Văn học nghệ thuật An Giang, 1993.
3. Nguyễn Hữu Hiệp, An Giang văn hóa một vùng đất, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.
4. Sơn Nam, Bến Nghé xưa, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1981.
5. Nhiều tác giả, Địa chí Cần Thơ, Tỉnh ủy - Ủy ban Nhân dân tỉnh Cần Thơ, 2002.
6. Nhiều tác giả, Địa chí An Giang, Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, 2013.
7. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (Chủ biên), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
8. Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (Chủ biên), Địa chí Long An, NXB Long An – NXB Khoa học xã hội, 1989.
9. Huỳnh Ngọc Trảng, Vè Nam Bộ, NXB Đồng Nai, 1998.
10. Huỳnh Ngọc Trảng (Chủ biên), Địa chí Đồng Nai, tập IV, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2001.
11. Phan Thị Yến Tuyết (Chủ biên), Xóm nghề và nghề thủ công truyền thống Nam Bộ, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
(Theo MINH NGUYEN, chonoicantho.vn)
Văn bản triển khai thông tin theo cách nào?
Ghe xuồng Nam Bộ
(1) […] Ghe xuồng Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu loại, tên gọi khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và phương thức hoạt động, ta có thể phân chia thành nhiều loại.
(2) Về xuồng, có các loại phổ biến như xuồng ba lá, xuồng năm lá, xuồng tam bản, xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng máy,…
Xuồng ba lá có chiều dài trung bình 4 mét, rộng 1 mét, sức chở từ 4 – 6 người. Xuồng làm bằng ba tấm ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và lái đều nhọn. Dùng sào nạng và bơi chèo để đi lại. Riêng Cần Thơ có xuồng năm lá.
Xuồng tam bản có 4 bơi chèo, dùng để chuyên chở nhẹ. Có loại thon dài, lại thêm mui ống, dáng đẹp. Số lượng tấm ván be không chỉ có 3 mà có thể là 5 hoặc 7 đến 9 tấm. Các điền chủ hạng nhỏ và vừa thường sử dụng để đi lại trên sông rạch. Ở Vĩnh Long, xuồng tam bản còn dùng để đi câu tôm hoặc dùng làm xuồng cào tôm cá. […]
Xuồng vỏ gòn (giống vỏ trái gòn) kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản, kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn bán.
Xuồng độc mộc (ghe lườn) do người Khmer làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt, khoét rỗng ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Cam-pu-chia và Lào. […]
Xuồng máy gắn máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm là loại phương tiện rất “cơ động”, phổ biến ở vùng sông nước này, nhất là trong giới thương hồ.
(3) Về ghe, thường là những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài.
Ghe bầu là loại ghe có mũi và lái nhọn, bụng phình to, có tải trọng tương đối lớn, chạy buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và đi biển dài ngày, thường dùng đi đường biển. Loại ghe bầu lớn thường gọi là ghe trường đà. Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mã Lai, do người Việt trong quá trình Nam tiến tiếp thu được của người Chăm. […]
(i) Tam bản: xuất xứ từ tiếng Hoa “xam pản”, người Pháp phiên âm thành “sampan” (Cước chú của tác giả văn bản)
Ghe lồng (hay ghe bản lồng); loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa nắng, lòng ghe được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác nhau. Loại ghe này dùng vận chuyển hàng hoá đi dọc bờ biển. [...]
Ghe chài: to và chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai tầng. Ghe được chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hoá, phần sau là chỗ nghỉ cho người đi ghe. Một mui rời phía sau phòng lái dùng làm nơi tắm rửa, nấu cơm. Ghe có sức chở từ 150 – 200 tấn, riêng loại ghe chài Nam Vang chở được đến 300 tấn. Ghe chài thường có cả chục người chèo với kiểu chèo “neo” ngược chứ không như kiểu chèo ghe bình thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe chài. Ghe dùng cho người đi buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông nước. Thường dùng chở lúa gạo, than củi. [...]
Ghe cào tôm: đầu mũi dài và khá phẳng, có bánh lái gập bên hông, dáng nhỏ. Loại ghe này thường dùng cào tôm vào ban đêm. [...]
Ghe ngo: loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Khmer, thường dùng để bơi đua trong các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài khoảng 30 mét. Ghe không mui, ở đầu mũi chạm hình rồng, rắn, phụng, lân hoặc voi, sư tử, ó biển. Mỗi chiếc có thể chở trên dưới 50 tay chèo và có một người ngồi đằng mũi chỉ huy, một người đứng giữa ghe giữ nhịp.
Ghe hầu: dành cho cai tổng, tri phủ, tri huyện. Ban đêm, ghe thắp sáng không phải vì mục đích soi đường, mà để báo hiệu cho biết là ghe của quan. […]
Ngoài ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù hợp với điều kiện sông nước và nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. Một số loại ghe có tiếng như:
Ghe câu Phú Quốc (Kiên Giang) có buồm, có 5 cặp chèo, dùng để đánh bắt thuỷ sản. [...]
Ghe cửa Bà Rịa để chuyên chở thuỷ sản.
Ghe lưới rùng Phước Hải (Long Đất, Bà Rịa – Vũng Tàu) dùng đánh bắt thuỷ sản.
Ghe Cửa Đại dùng đánh bắt trên biển, chuyên chở hàng hoá đi biển hoặc trên các con sông lớn. Loại ghe này có nét đặc trưng, khá nổi tiếng, do những thợ thủ công Bình Đại (Bến Tre) đóng. […]
(ii) Chài: xuất xứ từ tiếng “pok chài” của người Triều Châu, Trung Quốc (pok: nhiều; chài: tải). Ghe chài: loại ghe có sức tải lớn (Cước chú của tác giả văn bản).
(4) Ghe xuồng ở Nam Bộ vừa là một loại phương tiện giao thông vô cùng hữu hiệu, gắn bó mật thiết với cư dân vùng sông nước, lại vừa ẩn chứa bên trong những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Mai đây, ở vùng châu thổ này, phương tiện khoa học kĩ thuật có phát triển đến mấy đi nữa, đời sống người dân có khấm khá hơn, nhưng chắc rằng vai trò của “người bạn đường” này là không thể thay thế được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (Chủ biên), Văn hóa & cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
2. Nguyễn Hữu Hiệp, Sông núi quê nhà, Hội Văn học nghệ thuật An Giang, 1993.
3. Nguyễn Hữu Hiệp, An Giang văn hóa một vùng đất, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.
4. Sơn Nam, Bến Nghé xưa, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1981.
5. Nhiều tác giả, Địa chí Cần Thơ, Tỉnh ủy - Ủy ban Nhân dân tỉnh Cần Thơ, 2002.
6. Nhiều tác giả, Địa chí An Giang, Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, 2013.
7. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (Chủ biên), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
8. Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (Chủ biên), Địa chí Long An, NXB Long An – NXB Khoa học xã hội, 1989.
9. Huỳnh Ngọc Trảng, Vè Nam Bộ, NXB Đồng Nai, 1998.
10. Huỳnh Ngọc Trảng (Chủ biên), Địa chí Đồng Nai, tập IV, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2001.
11. Phan Thị Yến Tuyết (Chủ biên), Xóm nghề và nghề thủ công truyền thống Nam Bộ, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
(Theo MINH NGUYEN, chonoicantho.vn)
Triển khai thông tin theo cách phân loại có tác dụng gì?
Ghe xuồng Nam Bộ
(1) […] Ghe xuồng Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu loại, tên gọi khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và phương thức hoạt động, ta có thể phân chia thành nhiều loại.
(2) Về xuồng, có các loại phổ biến như xuồng ba lá, xuồng năm lá, xuồng tam bản, xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng máy,…
Xuồng ba lá có chiều dài trung bình 4 mét, rộng 1 mét, sức chở từ 4 – 6 người. Xuồng làm bằng ba tấm ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và lái đều nhọn. Dùng sào nạng và bơi chèo để đi lại. Riêng Cần Thơ có xuồng năm lá.
Xuồng tam bản có 4 bơi chèo, dùng để chuyên chở nhẹ. Có loại thon dài, lại thêm mui ống, dáng đẹp. Số lượng tấm ván be không chỉ có 3 mà có thể là 5 hoặc 7 đến 9 tấm. Các điền chủ hạng nhỏ và vừa thường sử dụng để đi lại trên sông rạch. Ở Vĩnh Long, xuồng tam bản còn dùng để đi câu tôm hoặc dùng làm xuồng cào tôm cá. […]
Xuồng vỏ gòn (giống vỏ trái gòn) kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản, kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn bán.
Xuồng độc mộc (ghe lườn) do người Khmer làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt, khoét rỗng ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Cam-pu-chia và Lào. […]
Xuồng máy gắn máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm là loại phương tiện rất “cơ động”, phổ biến ở vùng sông nước này, nhất là trong giới thương hồ.
(3) Về ghe, thường là những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài.
Ghe bầu là loại ghe có mũi và lái nhọn, bụng phình to, có tải trọng tương đối lớn, chạy buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và đi biển dài ngày, thường dùng đi đường biển. Loại ghe bầu lớn thường gọi là ghe trường đà. Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mã Lai, do người Việt trong quá trình Nam tiến tiếp thu được của người Chăm. […]
(i) Tam bản: xuất xứ từ tiếng Hoa “xam pản”, người Pháp phiên âm thành “sampan” (Cước chú của tác giả văn bản)
Ghe lồng (hay ghe bản lồng); loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa nắng, lòng ghe được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác nhau. Loại ghe này dùng vận chuyển hàng hoá đi dọc bờ biển. [...]
Ghe chài: to và chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai tầng. Ghe được chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hoá, phần sau là chỗ nghỉ cho người đi ghe. Một mui rời phía sau phòng lái dùng làm nơi tắm rửa, nấu cơm. Ghe có sức chở từ 150 – 200 tấn, riêng loại ghe chài Nam Vang chở được đến 300 tấn. Ghe chài thường có cả chục người chèo với kiểu chèo “neo” ngược chứ không như kiểu chèo ghe bình thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe chài. Ghe dùng cho người đi buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông nước. Thường dùng chở lúa gạo, than củi. [...]
Ghe cào tôm: đầu mũi dài và khá phẳng, có bánh lái gập bên hông, dáng nhỏ. Loại ghe này thường dùng cào tôm vào ban đêm. [...]
Ghe ngo: loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Khmer, thường dùng để bơi đua trong các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài khoảng 30 mét. Ghe không mui, ở đầu mũi chạm hình rồng, rắn, phụng, lân hoặc voi, sư tử, ó biển. Mỗi chiếc có thể chở trên dưới 50 tay chèo và có một người ngồi đằng mũi chỉ huy, một người đứng giữa ghe giữ nhịp.
Ghe hầu: dành cho cai tổng, tri phủ, tri huyện. Ban đêm, ghe thắp sáng không phải vì mục đích soi đường, mà để báo hiệu cho biết là ghe của quan. […]
Ngoài ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù hợp với điều kiện sông nước và nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. Một số loại ghe có tiếng như:
Ghe câu Phú Quốc (Kiên Giang) có buồm, có 5 cặp chèo, dùng để đánh bắt thuỷ sản. [...]
Ghe cửa Bà Rịa để chuyên chở thuỷ sản.
Ghe lưới rùng Phước Hải (Long Đất, Bà Rịa – Vũng Tàu) dùng đánh bắt thuỷ sản.
Ghe Cửa Đại dùng đánh bắt trên biển, chuyên chở hàng hoá đi biển hoặc trên các con sông lớn. Loại ghe này có nét đặc trưng, khá nổi tiếng, do những thợ thủ công Bình Đại (Bến Tre) đóng. […]
(ii) Chài: xuất xứ từ tiếng “pok chài” của người Triều Châu, Trung Quốc (pok: nhiều; chài: tải). Ghe chài: loại ghe có sức tải lớn (Cước chú của tác giả văn bản).
(4) Ghe xuồng ở Nam Bộ vừa là một loại phương tiện giao thông vô cùng hữu hiệu, gắn bó mật thiết với cư dân vùng sông nước, lại vừa ẩn chứa bên trong những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Mai đây, ở vùng châu thổ này, phương tiện khoa học kĩ thuật có phát triển đến mấy đi nữa, đời sống người dân có khấm khá hơn, nhưng chắc rằng vai trò của “người bạn đường” này là không thể thay thế được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (Chủ biên), Văn hóa & cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
2. Nguyễn Hữu Hiệp, Sông núi quê nhà, Hội Văn học nghệ thuật An Giang, 1993.
3. Nguyễn Hữu Hiệp, An Giang văn hóa một vùng đất, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.
4. Sơn Nam, Bến Nghé xưa, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1981.
5. Nhiều tác giả, Địa chí Cần Thơ, Tỉnh ủy - Ủy ban Nhân dân tỉnh Cần Thơ, 2002.
6. Nhiều tác giả, Địa chí An Giang, Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, 2013.
7. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (Chủ biên), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
8. Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (Chủ biên), Địa chí Long An, NXB Long An – NXB Khoa học xã hội, 1989.
9. Huỳnh Ngọc Trảng, Vè Nam Bộ, NXB Đồng Nai, 1998.
10. Huỳnh Ngọc Trảng (Chủ biên), Địa chí Đồng Nai, tập IV, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2001.
11. Phan Thị Yến Tuyết (Chủ biên), Xóm nghề và nghề thủ công truyền thống Nam Bộ, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
(Theo MINH NGUYEN, chonoicantho.vn)
Nối các phần với nội dung phù hợp.
Ghe xuồng Nam Bộ
(1) […] Ghe xuồng Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều kiểu loại, tên gọi khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và phương thức hoạt động, ta có thể phân chia thành nhiều loại.
(2) Về xuồng, có các loại phổ biến như xuồng ba lá, xuồng năm lá, xuồng tam bản, xuồng vỏ gòn, xuồng độc mộc, xuồng máy,…
Xuồng ba lá có chiều dài trung bình 4 mét, rộng 1 mét, sức chở từ 4 – 6 người. Xuồng làm bằng ba tấm ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và lái đều nhọn. Dùng sào nạng và bơi chèo để đi lại. Riêng Cần Thơ có xuồng năm lá.
Xuồng tam bản có 4 bơi chèo, dùng để chuyên chở nhẹ. Có loại thon dài, lại thêm mui ống, dáng đẹp. Số lượng tấm ván be không chỉ có 3 mà có thể là 5 hoặc 7 đến 9 tấm. Các điền chủ hạng nhỏ và vừa thường sử dụng để đi lại trên sông rạch. Ở Vĩnh Long, xuồng tam bản còn dùng để đi câu tôm hoặc dùng làm xuồng cào tôm cá. […]
Xuồng vỏ gòn (giống vỏ trái gòn) kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản, kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn bán.
Xuồng độc mộc (ghe lườn) do người Khmer làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt, khoét rỗng ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Cam-pu-chia và Lào. […]
Xuồng máy gắn máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm là loại phương tiện rất “cơ động”, phổ biến ở vùng sông nước này, nhất là trong giới thương hồ.
(3) Về ghe, thường là những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài.
Ghe bầu là loại ghe có mũi và lái nhọn, bụng phình to, có tải trọng tương đối lớn, chạy buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và đi biển dài ngày, thường dùng đi đường biển. Loại ghe bầu lớn thường gọi là ghe trường đà. Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mã Lai, do người Việt trong quá trình Nam tiến tiếp thu được của người Chăm. […]
(i) Tam bản: xuất xứ từ tiếng Hoa “xam pản”, người Pháp phiên âm thành “sampan” (Cước chú của tác giả văn bản)
Ghe lồng (hay ghe bản lồng); loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa nắng, lòng ghe được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác nhau. Loại ghe này dùng vận chuyển hàng hoá đi dọc bờ biển. [...]
Ghe chài: to và chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai tầng. Ghe được chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hoá, phần sau là chỗ nghỉ cho người đi ghe. Một mui rời phía sau phòng lái dùng làm nơi tắm rửa, nấu cơm. Ghe có sức chở từ 150 – 200 tấn, riêng loại ghe chài Nam Vang chở được đến 300 tấn. Ghe chài thường có cả chục người chèo với kiểu chèo “neo” ngược chứ không như kiểu chèo ghe bình thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe chài. Ghe dùng cho người đi buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông nước. Thường dùng chở lúa gạo, than củi. [...]
Ghe cào tôm: đầu mũi dài và khá phẳng, có bánh lái gập bên hông, dáng nhỏ. Loại ghe này thường dùng cào tôm vào ban đêm. [...]
Ghe ngo: loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Khmer, thường dùng để bơi đua trong các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài khoảng 30 mét. Ghe không mui, ở đầu mũi chạm hình rồng, rắn, phụng, lân hoặc voi, sư tử, ó biển. Mỗi chiếc có thể chở trên dưới 50 tay chèo và có một người ngồi đằng mũi chỉ huy, một người đứng giữa ghe giữ nhịp.
Ghe hầu: dành cho cai tổng, tri phủ, tri huyện. Ban đêm, ghe thắp sáng không phải vì mục đích soi đường, mà để báo hiệu cho biết là ghe của quan. […]
Ngoài ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù hợp với điều kiện sông nước và nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. Một số loại ghe có tiếng như:
Ghe câu Phú Quốc (Kiên Giang) có buồm, có 5 cặp chèo, dùng để đánh bắt thuỷ sản. [...]
Ghe cửa Bà Rịa để chuyên chở thuỷ sản.
Ghe lưới rùng Phước Hải (Long Đất, Bà Rịa – Vũng Tàu) dùng đánh bắt thuỷ sản.
Ghe Cửa Đại dùng đánh bắt trên biển, chuyên chở hàng hoá đi biển hoặc trên các con sông lớn. Loại ghe này có nét đặc trưng, khá nổi tiếng, do những thợ thủ công Bình Đại (Bến Tre) đóng. […]
(ii) Chài: xuất xứ từ tiếng “pok chài” của người Triều Châu, Trung Quốc (pok: nhiều; chài: tải). Ghe chài: loại ghe có sức tải lớn (Cước chú của tác giả văn bản).
(4) Ghe xuồng ở Nam Bộ vừa là một loại phương tiện giao thông vô cùng hữu hiệu, gắn bó mật thiết với cư dân vùng sông nước, lại vừa ẩn chứa bên trong những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Mai đây, ở vùng châu thổ này, phương tiện khoa học kĩ thuật có phát triển đến mấy đi nữa, đời sống người dân có khấm khá hơn, nhưng chắc rằng vai trò của “người bạn đường” này là không thể thay thế được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Công Bình, Lê Xuân Diệm, Mạc Đường (Chủ biên), Văn hóa & cư dân Đồng bằng sông Cửu Long, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1990.
2. Nguyễn Hữu Hiệp, Sông núi quê nhà, Hội Văn học nghệ thuật An Giang, 1993.
3. Nguyễn Hữu Hiệp, An Giang văn hóa một vùng đất, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2003.
4. Sơn Nam, Bến Nghé xưa, NXB Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, 1981.
5. Nhiều tác giả, Địa chí Cần Thơ, Tỉnh ủy - Ủy ban Nhân dân tỉnh Cần Thơ, 2002.
6. Nhiều tác giả, Địa chí An Giang, Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang, 2013.
7. Thạch Phương, Hồ Lê, Huỳnh Lứa, Nguyễn Quang Vinh (Chủ biên), Văn hóa dân gian người Việt ở Nam Bộ, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1992.
8. Thạch Phương, Lưu Quang Tuyến (Chủ biên), Địa chí Long An, NXB Long An – NXB Khoa học xã hội, 1989.
9. Huỳnh Ngọc Trảng, Vè Nam Bộ, NXB Đồng Nai, 1998.
10. Huỳnh Ngọc Trảng (Chủ biên), Địa chí Đồng Nai, tập IV, NXB Tổng hợp Đồng Nai, 2001.
11. Phan Thị Yến Tuyết (Chủ biên), Xóm nghề và nghề thủ công truyền thống Nam Bộ, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2002.
(Theo MINH NGUYEN, chonoicantho.vn)
Mục đích của văn bản là gì?
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- Chào mừng tất cả các em đã đến với những
- giờ học văn thú vị và bổ ích ở trang web
- olm.vn trong cuộc sống chúng ta có rất
- nhiều phương tiện dùng để đi lại đặc
- biệt đối với mỗi một vùng miền lại có
- những phương tiện di chuyển riêng hết
- sức đa dạng phong phú tạo nên bản sắc
- văn hóa truyền thống của dân tộc họ nói
- riêng và của cả dân tộc Việt Nam nói
- chung trong bài học đầu tiên của chủ đề
- văn bản thông tin ngày hôm nay chúng ta
- hãy cùng nhau Đọc và tìm hiểu sự đa dạng
- của các loại ghi xuồng Nam Bộ Thông qua
- văn bản ghe xuồng Nam bộ các bạn nhé bài
- học của chúng mình sẽ chủ yếu Tìm hiểu
- về đặc trưng thể loại với các nội dung
- chính như sau
- thứ nhất Tìm hiểu chung thứ hai Tìm hiểu
- chi tiết và thứ ba
- một phần tổng kết bây giờ chúng mình sẽ
- cùng nhau đến với phần đầu tiên Tuy
- nhiên trước khi đến với những kiến thức
- thú vị chúng ta cần phải đọc qua văn bản
- ghe xuồng Nam Bộ trang 76 đến 79 sách
- cánh diều Ngự văn 7 tập 2 các bạn nhé
- Nếu như các bạn đã sẵn sàng bây giờ
- chúng ta sẽ cùng nhau đi vào phần đầu
- tiên tìm hiểu chung trong phần tìm hiểu
- chung này chúng mình sẽ làm rõ các câu
- hỏi văn bản Triển khai thông tin theo
- cách nào bố cục văn bản gồm mấy phần nội
- dung của mỗi phần là gì đối tượng nào
- được giới thiệu trong văn bản Người viết
- chia đối tượng ấy thành mấy loại trong
- mỗi loại lớn có những loại nhỏ nào và
- cuối cùng là qua văn bản thì em hiểu
- thêm những gì về đối tượng được giới
- thiệu
- với những vấn đề yêu cầu mà chúng ta vừa
- nhắc đến bây giờ chúng mình sẽ cùng nhau
- bước vào phần 1 cách triển khai thông
- tin theo các bạn văn bản Triển khai
- thông tin theo cách nào
- chính xác văn bản Triển khai thông tin
- theo cách phân loại đối tượng cụ thể là
- ở phần 2 tác giả lần lượt thuyết minh về
- xuồng và ở phần thứ ba tức là đoạn 3 ta
- sẽ lại tiếp tục thuyết minh về ghen
- Theo các bạn thì Cách triển khai thông
- tin này có tác dụng gì
- đúng vậy Cách triển khai thông tin này
- giúp người đọc có được thông tin đầy đủ
- về từng đối tượng được thuyết minh đồng
- thời làm cho bài viết được rõ ràng và
- mạch lạc hơn nhiều
- Bây giờ chúng ta sẽ cùng nhau bước sang
- phần thứ hai bố cục của văn bản Hãy giúp
- cô nối các phần với các nội dung phù hợp
- nhé
- trong một văn bản Tất nhiên chúng ta sẽ
- có nhiều cách chia dựa vào mạch cảm xúc
- của tác giả Dựa vào nội dung hay là ý đồ
- của Người viết trong bài viết này chúng
- ta có thể chia ra làm ba phần phần thứ
- nhất là đoạn 1 giới thiệu chung về xuồng
- ghe Nam bộ phần thứ hai là đoạn 2 và
- đoạn 3 giới thiệu cụ thể về xuồng và ghe
- phần thứ ba cũng là phần cuối cùng đoạn
- số 4 khái quát giá trị của xuồng ghe Nam
- Bộ vậy thì trong bài viết này có thể
- thấy
- tác giả
- chia đối tượng của văn bản thành hai
- loại Thứ nhất là xuồng và thứ hai là ghi
- cụ thể
- loại Thứ nhất xuồng tác giả đã cung cấp
- những kiến thức về Xuồng Ba Lá lẽ xuồng
- 5 lá xuồng Tam bản xuồng vỏ Gòn xuồng
- độc mộc suông máy và ở loại kia tác giả
- cũng giới thiệu cho người đọc những
- thông tin về ghe bầu ghe lòng khi chài
- ghì cào tôm gì ngon ghi hầu ghi câu Phú
- Quốc ghi Cửa Bà Rịa ghi lưỡi rùng Phước
- Hải hay là ghi Cửa Đại
- có thể thấy qua văn bản ta đã hiểu thêm
- về sự đa dạng phong phú của các loại
- xuồng ghe ở Nam Bộ
- như vậy Vừa rồi chúng mình đã cùng nhau
- Trải qua phần thứ nhất Tìm hiểu chung
- bây giờ chúng ta sẽ cùng nhau bước sang
- phần thứ hai Tìm hiểu chi tiết
- nội dung đầu tiên trong phần tìm hiểu
- chi tiết đó là mục đích văn bản
- Theo các bạn mục đích của văn bản là gì
- Mục đích của văn bản là cung cấp cho
- người đọc những thông tin chính về nghe
- và Xuồng ở Nam Bộ rất đơn giản để chúng
- ta có thể tìm ra được mục đích chính của
- bài viết đúng không nào Vậy thì các nội
- dung trình bày trong văn bản đã làm sáng
- tỏ mục đích ấy như thế nào
- có thể thấy trong văn bản tác giả đã
- trình bày một vài nội dung cơ bản và các
- nội dung này
- đã góp phần làm sáng tỏ mục đích thứ
- nhất ta sẽ phân loại kỹ càng có hai loại
- đó là xuồng và ghe thứ hai ta sẽ giới
- thiệu đặc điểm chức năng phạm vi sử dụng
- của từng loại và từng tiểu loại
- ngoài ra tác giả còn khẳng định giá trị
- vai vai trò của xuồng ghi Nam Bộ đối với
- đời sống văn hóa của người dân thuộc
- vùng đất này
- bây giờ chúng ta sẽ cùng nhau bước sang
- phần 2 nhỏ các nội dung chính trình bày
- trong văn bản
- như chúng ta đã tìm hiểu ở phần bố cục
- thì đến với phần này các bạn sẽ rất dễ
- dàng để xác định được các nội dung chính
- được trình bày trong văn bản đúng không
- nào
- trong văn bản có 3 nội dung chính nội
- dung thứ nhất giới thiệu chung về xuồng
- ghe Nam Bộ nội dung thứ hai giới thiệu
- cụ thể về xuồng ghi Nam Bộ
- ở phần này tác giả đã phân loại ghi và
- xù là hai loại cơ bản nhất sau đó giới
- thiệu đến bạn đọc từng tiểu loại nhỏ và
- phần cuối cùng đó là phần khái quát giá
- trị của xuồng ghi Nam bộ các bạn thân
- mến như vậy trong bài học ngày hôm nay
- cô trò chúng ta đã tìm hiểu chung về văn
- bản cũng như là đến với những nội dung
- mục đích các nội dung chính trong phần
- tìm hiểu chi tiết bài học vẫn còn rất
- nhiều phần thú vị ở phía sau Xin chào và
- hẹn gặp lại các bạn trong video tiếp
- theo các bạn nhé
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây