Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
Luyện tập SVIP
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều thuộc phần nào của tác phẩm Truyện Kiều?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nói về những nhân vật nào?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Đoạn trích Chị em Thúy Kiều có bố cục mấy phần?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Sắp xếp các dòng sau để được kết cấu của đoạn trích Chị em Thúy Kiều:
- Vẻ đẹp của Thúy Kiều.
- Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều.
- Nhận xét chung về cuộc sống của hai chị em.
- Vẻ đẹp của Thúy Vân.
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Trình tự miêu tả nhân vật của Nguyễn Du trong đoạn trích Chị em Thúy Kiều là gì?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Bốn câu thơ đầu của đoạn trích Chị em Thúy Kiều có tác dụng gì?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Vẻ đẹp của hai chị em được giới thiệu khái quát bằng những hình ảnh nào?
(Thao tác: Nối các ô ở mỗi cột cho thích hợp)
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Vẻ đẹp chung của hai chị em trong bốn câu thơ đầu, tác giả không sử dụng nghệ thuật nào?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Câu thơ "Mai cốt cách, tuyết tinh thần" nói lên nội dung gì?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Thành ngữ "mười phân vẹn mười" nói lên vẻ đẹp gì của hai chị em?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Những hình ảnh ước lệ sau có giá trị như thế nào khi gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Từ "trang trọng" trong câu "Vân xem trang trọng khác vời" nói lên nội dung gì?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Khi miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân, tác giả không sử dụng nghệ thuật nào?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Các phép tu từ đã sử dụng nhằm thể hiện vẻ đẹp gì của Thúy Vân?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Theo em, qua cách miêu tả Thúy Vân, Nguyễn Du đã dự báo cuộc đời của nàng diễn ra theo chiều hướng như thế nào?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Trong "Kim Vân Kiều truyện", khi miêu tả vẻ đẹp của hai chị em, Thanh Tâm Tài Nhân miêu tả vẻ đẹp của Thúy Kiều rồi đến Thúy Vân.
Tại sao, Nguyễn Du lại chọn miêu tả vẻ đẹp của Thúy Vân trước, vẻ đẹp của Thúy Kiều sau?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Câu thơ "Kiều càng sắc sảo mặn mà" nói về vẻ đẹp nào của Thúy Kiều?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Các hình ảnh trong hai câu thơ sau có tính chất gì?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Câu thơ "Làn thu thủy, nét xuân sơn" miêu tả vẻ đẹp nào của Thúy Kiều?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Câu thơ "Một hai nghiêng nước nghiêng thành" sử dụng biện pháp nghệ thuật gì?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
"Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân".
Những câu thơ trên miêu tả điều gì về Thúy Kiều?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Cụm từ "nghề riêng" nói về cái tài nào của Thúy Kiều?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Qua cung đàn "Bạc mệnh" mà Kiều sáng tác, em hiểu thêm điều gì về nhân vật này?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Theo em, với cách miêu tả con người như thế, Nguyễn Du dự báo cuộc đời Thúy Kiều diễn ra theo chiều hướng như thế nào?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Khi miêu tả chân dung Thúy Kiều, Nguyễn Du không miêu tả ở phương diện nào?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Có người cho rằng, chân dung của Thúy Vân, Thúy Kiều là những chân dung tính cách, số phận. Đúng hay sai?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Nghệ thuật tả người của Nguyễn Du qua đoạn trích Chị em Thúy Kiều có gì đặc sắc?
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Khi miêu tả Thúy Vân và Thúy Kiều, Nguyễn Du đã đưa ra những dự báo về số phận của nhân vật.
Chọn những chi tiết thể hiện dự cảm của Nguyễn Du cho mỗi nhân vật:
- "thua, nhường"
- cuộc đời trắc trở, khổ đau
- cuộc đời bình lặng, suôn sẻ
- "ghen, hờn"
Thúy Vân
Thúy Kiều
Chị em Thúy Kiều
(Trích Truyện Kiều)
Đầu lòng hai ả tố nga(1),
Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân.
Mai cốt cách tuyết tinh thần(2),
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang(3).
Hoa cười ngọc thốt đoan trang(4),
Mây thua nước tóc tuyết nhường màu da.
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn(5),
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành(6),
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai(7).
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm(8),
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm(9) một trương(10)
Khúc nhà tay lựa nên chương(11),
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân(12)
Phong lưu rất mực hồng quần(13),
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm(14) đi về mặc ai.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều,
trong Đào Duy Anh, Từ điển Truyện Kiều,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974,
Có tham khảo một số bản Truyện Kiều khác)
Chú thích:
Vị trí đoạn trích: Đoạn trích nằm ở phần mở đầu tác phẩm, giới thiệu gia cảnh của Kiều. Khi giới thiệu những người trong gia đình Kiều, tác giả tập trung tả tài sắc Thúy Vân và Thúy Kiều.
(1) Tố nga: chỉ người con gái đẹp.
(2) Mai cốt cách: cốt cách của cây mai mảnh dẻ, thanh tao. Tuyết tinh thần: tinh thần của tuyết trắng và trong sạch. Câu này ý nói cả hai chị em đều duyên dáng, thanh cao, trong trắng.
(3) Khuôn trăng đầy đặn: gương mặt đầy đặn như mặt trăng tròn; nét ngài nở nang (nét ngài: nét lông mày): ý nói lông mày hơi đậm, cốt tả đôi mắt đẹp. Cả câu thơ nhằm gợi tả vẻ đẹp phúc hậu của Thúy Vân. Thành ngữ Việt có câu "mắt phượng mày ngài".
(4) Đoan trang: nghiêm trang, đứng đắn (chỉ nói về phụ nữ).
(5) Làn thu thủy: làn nước mùa thu; nét xuân sơn: nét núi mùa xuân. Cả câu thơ ý nói mắt đẹp, trong sáng như nước mùa thu, lông mày đẹp, thanh thoát như nét núi mùa xuân.
(6) Nghiêng nước nghiêng thành: lấy ý ở một câu chữ Hán, có nghĩa là: ngoảnh lại nhìn một cái thì thành người ta bị xiêu, ngoảnh lại nhìn cái nữa thì nước người ta bị nghiêng ngả. Ý nói sắc đẹp tuyệt vời của người phụ nữ có thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
(7) Ý cả câu: về sắc chỉ có một mình Kiều là nhất, về tài thì may ra có người thứ hai.
(8) Làu bậc: thuộc lòng các cung bậc. Ngũ âm: năm nốt trong âm giai của nhạc cổ. (cung, thương, dốc, chủy, vũ).
(9) Hồ cầm: đàn của người Hồ, một thứ đàn giống đàn nhị của Việt Nam, người Trung Quốc thấy xuất hiện của phương Bắc nên gọi là đàn của người Hồ. Ở ta thường hiểu hồ cầm là đàn tì bà.
(10) Một trương: một cây. Sách có câu: "Cầm nhất trương, kì nhất cục" (Đàn một cây, cờ một cuộc).
(11) Nên chương: thành bài.
(12) Một thiên Bạc mệnh: một bản nhạc có tên là Bạc mệnh (bạc mệnh: phận mỏng; ý nói xấu số); não nhân: làm cho lòng người sầu não, đau khổ.
(13) Hồng quần: quần đỏ, chỉ phụ nữ (ngày xưa phụ nữ nhà quyền quý ở Trung Quốc thường mặc quần đỏ).
(14) Ong bướm: chỉ tình yêu nhưng có phần không đúng đắn.
Đọc thêm:
Nói về ở Bắc Kinh, có một vị viên ngoại họ Vương tên Lưỡng Tùng, tự Tử Trinh, tính tình thuần thục trung hậu, gia kế thường thường, không dồi dào cũng không túng kém. Vợ họ Hà, cũng là người hiền năng, sinh được một con trai, tên Vương Quan, học tập nghiệp nho, và hai gái, chị tên là Thúy Kiều, em tên là Thúy Vân, tuổi đều đang độ thanh xuân. Cả hai chị em đều thạo thơ phú. Riêng Thúy Kiều vẻ người thướt tha, phong lưu, tính chuộng hào hoa, lại thích âm luật, rất thạo ngón hồ cầm. Thúy Vân dáng yêu kiều, hiền dịu, thấy Thúy Kiều thạo hồ cầm, thường nhân lúc rảnh can ngăn chị:
- Âm nhạc không phải là công việc phòng khuê, e người ngoài nghe biết không được nhã!
Thúy Kiều nghe em can, nhưng không cho thế là phải, thường soạn bài ca Bạc mệnh, phả vào hồ cầm, trăm vần thê lương, khiến người nghe thấy đều chau mày, rơi lệ.
(Thanh Tâm Tài Nhân, Kim Vân Kiều truyện,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999)
Trong hai bức chân dung Thúy Vân và Thúy Kiều, nàng Kiều được miêu tả nổi bật hơn, vì sao?
- Miêu tả qua 12 câu thơ
- Chủ yếu ở vẻ đẹp ngoại hình
- Miêu tả qua 4 câu thơ
- Miêu tả vẻ đẹp ngoại hình, phẩm chất, tài năng
- Miêu tả trước
- Miêu tả sau
Bạn có thể đánh giá bài học này ở đây