K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

30 tháng 3 2019
​ TÌM HIỂU GIÁO DỤC VIỆT NAM THỜI PHONG KI\(ẾN\) 1. Giáo dục Việt nam dưới chế độ phong kiến
1.1. Bối cảnh lịch sử Năm 257 (TCN), Thục Phán đã thống nhất các bộ lạc Âu Việt và Lạc Việt, lập ra nước Âu Lạc, x­ưng là An Dương Vương. Năm 179 (TCN), Triệu Đà thôn tính nư­ớc Âu Lạc và thiết lập chế độ cai trị của đế chế phư­ơng Bắc. Trải qua hơn mười thế kỷ Bắc thuộc, đã nổ ra các cuộc khởi nghĩa lớn: khởi nghĩa Hai Bà Tr­ưng (40 - 43), Bà Triệu (248), Lý Bí (542), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (766 -791), Khúc Thừa Dụ (905), Dương Đình Nghệ (931)... Năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán, giành quyền độc lập tự chủ cho dân tộc, mở đầu thời kỳ phát triển của chế độ phong kiến Việt Nam.
Năm 965, xảy ra “Loạn 12 xứ quân”. Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 xứ quân, lập ra n¬ước Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư.
Vào cuối triều Đinh, quân Tống xâm lược nước ta, triều thần đã tôn Thập đạo tướng quân Lê Hoàn lên ngôi vua; đánh tan quân Tống xâm lược vào năm 981.
Năm 1009, sau khi Lê Long Đĩnh mất (triều Tiền Lê kết thúc), Lý Công Uẩn lên ngôi vua, năm 1010, Lý Công Uẩn dời đô từ Hoa Lư¬ ra Thăng Long.
Ba triều đại Lý - Trần - Hồ, gắn liền với các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh. Triều Lý thực hiện cuộc kháng chiến chống Tống (1075 - 1077). Triều Trần ba lần kháng chiến chống Mông - Nguyên (1258; 1285 và 1288). Triều Hồ thực hiện cuộc kháng chiến chống Minh (1406 - 1407).
Những năm cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI, chế độ phong kiến Việt Nam dần dần suy yếu. Năm 1527, tập đoàn phong kiến do Mạc Đăng Dung cầm đầu đã phế truất nhà Lê lập ra nhà Mạc.
Họ Mạc chiếm vùng Bắc Bộ, gọi là Bắc Triều. Nhà Lê (Lê Trung Hưng), chiếm vùng Thanh Hoá trở vào, gọi là Nam Triều. Cuộc xung đột Nam - Bắc triều kéo dài gần nửa thế kỷ (1545 - 1592), ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống nhân dân, trong đó có giáo dục.
1.2. Đặc điểm về giáo dục
* Mục tiêu giáo dục:
Đào tạo con em quan lại thành người Quân tử, kẻ sĩ.
* Nội dung giáo dục chủ yếu là nho giáo,
Đặc trưng nổi bật của giáo dục Việt Nam thời Phong kiến là nền giáo dục Nho học. Thời kỳ đầu dựng nước, bên cạnh giáo dục nho học có sự tồn tại của các loại hình giáo dục Phật giáo và Đạo giáo. Tuy có sự khác nhau nhưng các loại hình giáo dục trên không bài trừ lẫn nhau. Tâm giáo thịnh vượng nhất là thời Lý - Trần, triều đình nhiều lần đứng ra tổ chức kỳ thi Tam giáo bao gồm cả 3 nội dung Nho - Phật - Đạo. Tuy nhiên, các triều đại Phong kiến nối tiếp nhau luôn lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống. Vì thế, Nho giáo gần như trở thành hệ thống giáo dục chính thống và tồn tại trong suốt thời kỳ Phong kiến.
- Sách giáo khoa chính của Nho giáo ở bậc cao là Tứ thư, Ngũ kinh và Bắc sử.
* Phương pháp giáo dục: Trí dục và đức dục.
- Trí dục: Chủ yếu phương pháp thuộc lòng, dùi mài kinh sử, Kinh viện, giáo điều.
- Đức dục: Chủ yếu sử dụng phương pháp nêu gương (Thân giáo trọng ư ngôn giáo – Nguyễn Trãi)
* Tổ chức trường lớp và thi cử: Năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây Văn miếu để thờ Khổng Tử, Chu Công và tứ phối (Mạnh tử, Tăng Tử, Tử Tư¬, Nhan Uyên ).
Năm 1076, Lý Nhân Tông cho xây dựng Quốc Tử Giám, làm nơi dạy học cho các hoàng tử .
Thời Lý, việc tổ chức khoa cử ngày càng nền nếp. Năm 1075, Lý Nhân Tông cho mở khoa thi đầu tiên, lấy tên là Minh kinh bác học (các kỳ tiếp theo được tổ chức vào các năm 1086, 1186, 1195,…).
Thời Trần, năm 1236, Quốc Tử Giám được đổi thành Quốc Học Viện, dần dần mở rộng cho con em các đại quan vào học.
Năm 1253, Trần Thái Tông xuống chiếu cho các nho sĩ trong nư¬ớc, những người thông kinh sử đư¬ợc đến Quốc Tử Viện học tập.
Tổ chức khoa cử đi vào quy củ, nền nếp hơn trư¬ớc. Năm 1232, Trần Thái Tông cho mở khoa thi Thái học sinh.
Năm 1247, Trần Thái Tông đặt ra định chế tam khôi: (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa - 3 người có kết quả cao nhất trong cuộc thi đình).
Thời Hồ, Năm 1404, Hồ Hán Thư¬ơng định cách thi cử nhân. Do tồn tại trong thời gian quá ngắn nên triều Hồ chỉ tổ chức đ¬ược 2 khoa thi, như-ng đã đào tạo được nhiều danh nho, danh thần nổi tiếng (Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên).
Nhìn chung, dưới các thời Lý - Trần - Hồ, hệ thống trường học được tổ chức từ bậc Ấu học đến bậc Đại học. Tuy có sự phát triển, tiến bộ so với các thời kỳ trước, song sự phát triển còn chậm, số trường học do nhà nước mở còn ít, chỉ có ở kinh đô và một số phủ, châu. Việc học tập ở địa phương, hầu như do dân tự lo liệu, chủ yếu là do nhà chùa và các nho sĩ mở.
Dưới các triều Mạc - Lê, Trịnh - Nguyễn, việc học và thi tiếp tục được duy trì. Song, cùng với bước đường suy tàn của chế độ phong kiến, nền giáo dục nước ta có nhiều bước thụt lùi về chất lượng.
Nhiều giá trị hầu như bị đảo lộn, các sĩ tử theo lối học chạy theo danh lợi, xa rời chính học.
Tóm lại, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII, chế độ giáo dục và thi cử Nho học vẫn được các triều đại phong kiến ở cả 2 miền Nam Bắc duy trì. Song trên bước đường suy vong của chế độ phong kiến, nội dung giáo dục và chế độ thi cử ngày một suy giảm về chất lượng, chỉ còn bề nổi, không còn chiều sâu; tình trạng này nằm trong sự suy tàn chung của ý thức hệ Nho giáo.
3. Ưu và nhược điểm giáo dục Việt Nam thời Phong kiến:
* Ưu điểm:
Các triều đại phong kiến Việt Nam cùng với việc chăm lo phát triển các mặt kinh tế, xã hội cũng đã chú trọng tới việc phát triển giáo dục. VD: thế kỷ XV - XVI, các phủ, lộ đều có trường công,...
Đã phát triển nhiều trường tư để dạy con em của nhân dân với mong muốn cho con em của nhân dân đi học vài chữ để làm người; phát triển giáo dục gia đình.
Nền giáo dục Việt Nam thời Phong kiến từng bước được mở rộng và chính quy nhưng vẫn chưa phải là nên giáo dục giành cho mọi người; chỉ có con em của những người giàu, quý tộc mới được đi thi (thi là để làm quan); con em nhà nông cơ bản không được đi thi.
Tính độc lập, tự chủ, ý thức tự lực, tự cường trong giáo dục, nó đã góp phần to lớn trong việc gìn giữ đất nước, bảo vệ bản sắc văn hoá dân tộc.
Giáo dục Việt Nam thời Phong kiến để lại cho chúng ta nhiều bài học quý trong việc tổ chức nền giáo dục hiện nay. Bài học về tổ chức giáo dục (giáo dục nhà trường, giáo dục trong gia đình, ở trường công, trường tư,…).
Bài học về tổ chức thi cử, về bổ nhiệm người tài,..
Chế độ khoa cử là một trong những đặc trưng cơ bản của hệ thống giáo dục phong kiến. Thông qua chế độ khoa cử để chọn người hiền tài đảm nhiệm các chức vụ quan lại thực hiện chức năng quản lý bộ máy nhà nước phong kiến. Còn đối với nhân dân, thi cử là con đường tiến thân lập nghiệp, vì vậy được nhân dân hết sức coi trọng.
* Hạn chế:
Mục đích của nền giáo dục Phong kiến không nhằm vào những con người làm khoa học, lao động sản xuất để phát triển xã hội mà đào tạo những con mọt sách, những đồ đệ phục vụ tầng lớp phong kiến: quân - quân, thần - thần, phụ - phụ, tử - tử,
Nội dung giáo dục nghèo nàn, nặng về văn chương; nội dung về lao động sản xuất, khoa học kỹ thuật hầu như không có. (Do ảnh hưởng tư tưởng giáo dục của Khổng Tử, mà Khổng Tử thì không quan tâm đến lao động sản xuất).
Phương pháp giáo dục giáo điều, uy quyền, nặng về học cổ, ít quan tâm phát triển xã hội.
Tổ chức bất bình đẳng trong giáo dục: trọng nam kinh nữ, con em tầng lớp quý tộc mới được đi thi, không phải mọi người đều có cơ hội đi học.
Triều đình chỉ lo giáo dục cho con em vua chúa và quan lại ở Kinh đô còn ở những nơi khác phải mời thầy đồ về giảng dạy.
Tài liệu học tập hết sức hạn chế, chỉ có 2 loại: Do Trung Quốc biên soạn là tứ thư, ngũ kinh và 1 loại do người Nam soạn.
Tổ chức thi cử rất nghiêm ngặt nhưng nội dung thi rất khập khiễng, các đề thi chủ yếu ca tụng vua chúa, ca ngợi triều đình, ca ngợi nho giáo. Thời gian thi qua các kỳ kéo dài, ngắn: có kỳ 3 năm, có kỳ 10 năm.
Tóm lại, dù có những hạn chế nhất định nhưng nền giáo dục thời Phong kiến đặc biệt là những lúc đỉnh cao, đã có những đóng góp to lớn cho nền giáo dục nước nhà; thực sự là đòn bẩy thúc đẩy tinh thần học tập, truyền thống hiếu học và bồi đắp nguyên khí cho quốc gia trong những giai đoạn phát triển của lịch sử giáo dục dân tộc. Góp phần giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, để lại cho chúng ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu trong tổ chức giáo dục hiện nay.
31 tháng 3 2019

tôi thấy nó trên mạng rồi, cái tôi cần là tóm tắt nội chính

28 tháng 8 2021

chắc D

2 tháng 11 2019

Về tư tưởng:

- Nho giáo: Giữ vai trò quan trọng, trở thành công cụ sắc bén phục vụ cho nhà nước phong kiến, trở thành cơ sở lí luận và tư tưởng của chế độ phong kiến.

- Phật giáo: Thịnh hành nhất là vào thời Đường.

Văn học:

- Có nhiều thể loại như: Thơ, tiểu thuyết,…

- Với nhiều tên tuổi, tác phẩm nổi tiếng như: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,... Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Thủy hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Hồng lâu mộng của Tào Tuyết Cần,…

* Các lĩnh vực Toán học, Thiên văn học, Y dược,… cũng đạt nhiều thành tựu:

- Cửu chương toán thuật nêu các phương pháp tính diện tích và khối lượng khác nhau.

- Phát minh ra nông lịch, chia 1 năm thành 24 tiết để nông dân có thể dựa vào đó mà biết thời vụ sản xuất. Trương Hành còn làm được một dụng cụ để đo động đất gọi là địa động nghi,...

- Có nhiều thầy thuốc giỏi. Nổi tiếng nhất là Hoa Đà (thời Hán), người đầu tiên của Trung Quốc đã biết dùng phẫu thuật để chữa bệnh. Tác phẩm Bản thảo cương mục của lý Thời Trân là một quyển sách thuốc rất có giá trị.

* Về kĩ thuật: Có 4 phát minh quan trọng: giấy, kĩ thuật in, la bàn và thuốc súng. Đó là những cống hiến rất lớn của nhân dân Trung Quốc với nền văn minh thế giới.

* Về nghệ thuật, kiến trúc: Có nhiều công trình đặc sắc: Vạn lí trường thành, những cung điện cổ kính, những bức tượng Phật sinh động,... còn được lưu giữ đến ngày nay.



2 tháng 11 2019

Ngắn Hơn Dc Ko Bạn

10 tháng 11 2019

Hướng dẫn: Để thêm các hàng phía dưới em có thể thực hiện theo một trong hai cách sau:

Cách 1: Đặt con trỏ soạn thảo vào một ô bất kì của hàng cuối cùng, nháy chọn Table → Insert → Rows Below.

Cách 2: Đặt con trỏ soạn thảo tại vị trí bên phải ô cuối cùng của một hàng sau đó nhấn phím Enter sẽ có hàng mới ngay dưới.

Em có thể xoá một hàng bằng cách đặt con trỏ soạn thảo vào một ô bất kì của hàng này rồi nháy chọn Table → Delete → Rows.

Em có thể xoá một cột bằng cách đặt con trỏ soạn thảo vào một ô bất kì của cột này rồi nháy chọn Table → Delete → Columns.

Trong mỗi ô em có thể gõ văn bản với trình bày kiểu, nét, màu chữ và căn lề như soạn thảo văn bản thông thường.

25 tháng 3 2022

Trong tương lai , em sẽ là một con người tốt bụng , giúp đỡ nhiều người, bảo vệ người mù , người khuyết tật . Vì em thấy bản thân em đã đủ để trở thành con người trong tương lai , không cần làm những việc lớn lao , chỉ làm việc nhỏ mà đúng với lương tâm thì không có gì là sai cả . Từ nhỏ , em cũng đã bắt đầu rèn luyện để khi lớn rồi sẽ trường thành con người mong muốn trong tương lai . Bản thân em vẫn cứ duy trì đến tận ngày nay và hiện tại , ai cũng khen và quý mến em khi làm những việc tốt trên ... Được khen thì chắc chắn em phải cố gắng hơn nữa trong Việc tốt mà em làm , để cần nhiều người hơn nữa quý mến và yêu quý em hơn 

em là em :)) (cho vui thôi)

27 tháng 3 2022

Tham khảo: Cái này mình ko chắc là đúng nha

DẠY HỌC TRUYỀN THỐNG

Giáo viên là trung tâm

DẠY HỌC TÍCH CỰC

Định hướng học sinh/ kiến tạo

Phương pháp
Phương pháp truyền thụ và thông báo là phương pháp chiếm ưu thế. Trong đó bao gồm cả việc định hướng mục đích học tập và kiểm tra học sinh. Nhìn chung phương pháp này vẫn nặng về định hướng hiệu quả truyền đạt thông tin.Có sự phối hợp giữa hành động của người dạy và người học. Nó bao gồm quá trình lập kế hoạch, thực hiện và đánh giá giờ học.
Người học
Người học sẽ bị bị động và không có quyền quyết định quá nhiều.Người học phải có vai trò nhiều hơn trong quá trình học tập của mình và tự điều khiển kết quả.
Người dạy
Người dạy sẽ trình bày và giảng giải nội dung cho học sinh. Đồng thời họ cũng là người chỉ đạo và kiểm tra các bước học tập.Người dạy sẽ đưa ra các tình huống và chỉ dẫn những công cụ để có thể giải quyết vấn đề. Người dạy chỉ có vai trò là người tư vấn chứ không giải đáp vấn đề.
Quá trình học
Quá trình học diễn ra thụ động và được tiến hành theo một hệ thống.Việc học là cả quá trình kiến tạo tích cực. Quá trình này sẽ được tiến hành theo những chủ đề nhất định. Kết quả của quá trình học tập sẽ dựa vào từng cá nhân và tình huống cụ thể.
Quá trình dạy
Quá trình dạy là quá trình truyền tải tri thức từ người dạy sang người học. Người học sẽ lĩnh hội các nội dung theo phương thức đã được lập trình sẵn. Quá trình dạy này có thể được lặp đi lặp lại nhiều lần.Người dạy sẽ được tiến hành đưa ra các gợi ý hỗ trợ và tư vấn cho học sinh. Phương pháp này có tính lặp lại ít hơn so với phương pháp truyền thống.
Đánh giá
Kết quả học tập sẽ được dự báo dựa trên nhiều phương pháp khác nhau. Dạy học và đánh giá được chia ra làm hai thành phần khác nhau trong quá trình dạy học. Nhìn chung phương pháp này sẽ tái hiện được khả năng chính xác của tri thức.Dựa vào quá trình học tập để đánh giá kết quả nhiều hơn là dựa vào kiểm tra. Học sinh sẽ được tham gia vào quá trình đánh giá. Phương pháp này chú trọng tính ứng dụng tri thức trong những tình huống cụ thể.
27 tháng 3 2022

tham khảo:

Có điểm khác với thời nay là : học sinh được học trên những thiết bị hiện đại, tiếng độc tôn bây giờ là Tiếng Việt, thầy cô giáo ngày nay chỉ tuyển chọn theo nhân tài

7 tháng 12 2016

C. Không bao h để ý hình thức bên ngoài.

Bn nghĩ lak câu B nữa phải ko? Nhưng câu B ko phải đâu(mk nghĩ z)

24 tháng 2 2020

1. Giải thích ý kiến

- Bức thông điệp: ý nghĩa gửi gắm.

- Tác phẩm văn học là sản phẩm sáng tạo tinh thần của người nghệ sĩ, cất lên từ tâm hồn, tình cảm của nghệ sĩ, gửi gắm tâm sự của tác giả nên tác phẩm văn học nghệ thuật là một phương tiện để người đọc thấu hiểu những điều tác giả gửi gắm.

- Thế giới tâm hồn tình cảm của con người phong phú, qua tác phẩm văn học, trái tim đến với trái tim, những điệu hồn gặp tâm hồn đồng điệu.

2. Chứng minh qua Nhớ rừng

Tác phẩm mượn lời của con hổ ở vườn bách thú để gửi gắm những ý nghĩa sâu sắc:

- Tâm sự yêu nước thầm kín của một lớp trí thức trẻ ở Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.

- Khát vọng vượt ra ngoài sự kìm kẹp tầm thường, giả dối.

18 tháng 5 2021

Bài làm

          Có ý kiến cho rằng “Mỗi tác phẩm văn học là một bức thông điệp của người nghệ sỹ gửi đến cho bạn đọc”. Đúng vậy, ý kiến đó đã được chứng minh rất rõ ràng qua thông điệp của bài thơ “Nhớ rừng” của Thế Lữ.

Tác phẩm văn học là sự sáng tạo, là đứa con tinh thần của người nghệ sĩ mang tên nhà văn, nó mang tâm tư, tình cảm  được cất lên từ tâm hồn người nghệ sĩ, là lời tâm sự đc gửi gắm qua lời văn đến với độc giả. Ta cũng có thể lý giải nó như một công trình nghệ thuật ngôn từ hay một phương tiện giúp người đọc hiểu những điều sâu trong suy nghĩ nhà văn. Nó làm phong phú thêm tâm hồn con người, làm trái tim đến đc trái tim, tâm tư đc bộc lộ, làm đa dạng hơn những cảm xúc con người. Nói cách khác nhà văn là người sáng tạo nên tác phẩm văn học.

 Thông điệp của bài thơ “ Nhớ rừng” cũng được thể hiện rất rõ qua từng áng thơ mà Thế Lữ viết: đó là sự phảng kháng trong tiềm thức của người chiến sĩ trong những ngày bị giam cầm trong nhà tù, sự khao khát tự do, khinh thường lối sống tầm thường giả dối của chốn lao tù, đó là hiện thực đời sống lúc bấy giờ.Vì vậy ý kiến mỗi tác phẩm văn học là một bức thông điệp của người nghệ sỹ gửi đến cho bạn đọc là hoàn toàn đúng đắn, thể hiện sự am hiểu sâu sắc về văn học nước nhà.

Trong nền văn học Việt Nam, có thể thấy phong trào Thơ mới là một trong những phong trào tạo ra sức sống mãnh liệt nhất đối với những người làm thơ văn của thời kì đó. Và Thế Lữ chính là một trong những cây bút đi đầu của phong trào Thơ mới (1932-1945). Tác phẩm ghi lại dấu ấn của ông là bài thơ “ nhớ rừng” miêu tả hình ảnh, tình cảm cùng những suy nghĩ của con hổ trong vườn bách thú những qua đó, tác giả như khéo leo nói lên nguyện vọng của chính những con người Việt Nam trong hoàn cảnh  lúc bấy giờ.

“Gậm một nỗi căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông tháng ngày dần qua”

Hổ vốn được mệnh danh là loài chúa sơn lâm. Vậy mà giờ đây lại phải chịu cảnh bị vây trong lồng sắt và không thể làm được bất cứ điều gì. Điều đó có lẽ là điều bi ai nhất của chúa tể rừng xanh.

“Khinh lũ người kia ngạo mạn ngẩn ngơ
 Giương mắt bé giễu oai linh rừng thẳm

 Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm

 Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
 Với cặp báo chuồng bên vô tự lự”

Ngày ngày, chú hổ phải chịu cảnh bị người người chỉ trỏ, xem xét. Đó vốn không hề là cuộc sống của chú. Thái đọ của con hổ tuy đã bị bắt nhưng vẫn vô cùng oai nghiêm, nó gọi những con người đi trong sở thú chỉ là những kẻ không biết, những kẻ ngạo mạn, ngẩn ngơ. Nhất là khi Hổ phải sống trong cảnh những con vật gần chỗ của nó không hề có những thái đọ gì, hoàn toàn chúng chỉ có sự cam chịu như “con gấu dở hơi”, “ cặp báo vô tư lự”. bởi thế, không còn cách nào khác, Hổ chỉ còn có thể nghĩ về quá khứ hào hùng, vang dội của mình. Nhớ lại những kỉ niệm khi mà bản than mình vẫn còn là chúa sơn lâm không lo sợ, không suy nghĩ, được tự do trong rừng làm chúa tể của cả một vùng.

“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn thét núi”

Lúc nãy đây, Hổ như chìm vào những hồi ức của mình với nỗi nhớ rừng nơi chốn cũ cùng những “bóng cả”, ” cây già”, những tiếng thét vang vọng cả ngọn núi. Tất cả đã tạo nên sự dũng mãnh của Hổ- khiến những con vật khác phải hoảng sợ mà nể phục dưới những bước chân của chúa sơn lâm. Thế nhưng, dù có thế nào thì những hồi ức ấy mãi chỉ có thể ở trong trí nhớ. Giờ đây, Hổ đã không còn cơ hội quay trở lại như trước nữa. Chú chỉ có thể than trách cho cuộc sống của mình bởi Hổ đã không còn tự do nữa:

“Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
Đâu những bình minh cây xanh nắng gội
Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
Để cuối cùng, Hổ đã phải thốt lên rằng
Than ôi, thời oanh liệt nay còn đâu?”

Câu thơ như hiện lên sự bất lực của con vật. Những đồ nhân tạo mà con người tạo ra cho nó không bao giờ có thể thay thế được những gì của tự nhiên đã tạo ra. Tất cả chỉ là sự kệch cỡm mà thôi. Sau nỗi nhớ một thuở vàng son, một thời oanh liệt, bỗng chúa sơn lâm chợt tỉnh mộng, trở về thực tại với cái cũi sắt, đau đớn và cay đắng vô cùng. Như một trái núi sụp đổ xuống, mãnh hổ cất lời than. Sự kết hợp giữa cảm thán với câu hỏi tu từ làm dội lên một lời thơ, một tiếng than của "hùm thiêng sa cơ'', của một kẻ phi thường thất thế.Chán ghét cuộc sống thực tại, ôm niềm uất hận không nguôi, hổ khát khao một cuộc sống tự do mãnh liệt. Tất cả tâm tư tình cảm của hổ đều thuộc về nơi rừng thẳm ngàn năm âm u. Cũng qua đó, chúa sơn lâm đã gởi một lời nhắn tha thiết của mình về núi rừng. Dẫu là đang bị sa cơ nhưng hổ đã không giấu được niềm tự hào khi nói đến chốn "nước non hùng vĩ". Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những ngày tháng tươi đẹp, thoả chí vùng vẫy trong không gian riêng biệt thênh thang. Cho dù bây giờ sẽ chẳng bao giờ được sống lại ở những nơi xưa ấy nhưng hổ vẫn không bao giờ thôi nghĩ về "giấc mộng ngàn to lớn". Vị chúa mất ngôi đã khẩn cầu để được mãi sống trong những ký ức, những hoài niệm của những vẻ đẹp một đi không trở lại:

“Để hồn ta phảng phất được gần ngươi
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi!”

Nhớ Rừng không thể thoát ra khỏi nỗi buồn, "tâm bệnh của thời đại" bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc chính bởi vì tạo nên điểm gặp gỡ giữa sự u uất của người dân mất nước và tâm trạng bất hoà bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi lên niềm khát khao tự do chính đáng.

          Với nghệ thuật đặc sắc, thông điệp của Thế Lữ thật sự đã làm lay động người dân Việt Nam ta, tâm tư của Thế Lữ cũng là tâm tư của nhân dân ta khi đó – khao khát niềm tự do cháy bỏng. Qua đó ta nhận thấy ý nghĩa của vân học chân chính, văn học nước nhà bởi trong mỗi tác phẩm văn học, ta lại nhìn thấy thông điệp đáng quý như trong tác phẩm ‘Nhớ rừng”