K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

23 tháng 12 2021

THAM KHẢO

 

“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”

Chợ là một hình ảnh vô cùng điển hình của cuộc sống. Lúc đương đông buổi chợ là hình ảnh vui của một cuộc sống sầm uất đi lên. Còn khi chợ tan là hình ảnh rã đám của một cuộc sống đương đi xuống. Chỉ cần nhìn vào diện mạo chợ, cũng có thể thấy được âm vang của đời sống. Âm thanh “lao xao” từ chợ cá làng ngư phủ đã nói lên vẻ sầm uất của cuộc đời xung quanh. Cả hình ảnh bóng tịch dương nữa. Nắng tắt, bóng tối dâng lên vây phủ bốn bề, âm thanh sinh hoạt cũng dần dần thưa thớt. Lúc tịch dương thì dù đó là miền sơn cước hay chốn chương đài, cũng đều khó tránh khỏi không khí quạnh hiu cô tịch.

Nhưng không khí ấy ở đây đã bị xua tan bởi nhạc ve. Tiếng ve gióng giả inh ỏi như một bản đàn làm cho hoàng hôn cũng trở nên náo nhiệt. Phải là một tâm hồn mở, một điệu hồn náo nức thì mới có thể nghe tiếng ve inh ỏi thành tiếng đàn cầm ve như thế. Từ làng ngư phủ xa xa của dân nghèo lớp dưới, đến lầu son gác tía của người lớp trên, chỗ nào cũng rộn rã vui tươi. Cái nhìn khái quát đã thâu tóm được toàn, cảnh cuộc sống trong đôi nét bút tài hoa.Trước, vẽ thiên nhiên thì từ cao xuống thấp, giờ, vẽ đời sống lại chảy từ thấp đến cao, từ xa lại gần. Lối viết đảo ngược cú pháp, đặt những âm thanh lao xao và dắng dỏi lên đầu mỗi câu khác nào như tạo nên những điểm nhấn. Ta ngỡ như người viết đang muốn phổ vào không gian cả một dàn âm thanh rộn rã. Cảnh hưng thịnh của ngày hè, nhờ thế, mà càng trở nên phồn thịnh hơn.

Nếu chỉ dừng lại ở cảnh không thôi, cũng đã phần nào thấy được lòng người vẽ cảnh. Cảnh tượng ấy đâu chỉ nói với ta về sự tinh tế của một tâm hồn, đó còn là sự phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có hồn, đó còn là sự phấn chấn của một tấm lòng thiết tha với đời sống. Nhưng ta có dịp dược hiểu về tấm lòng ấy trực tiếp hơn qua chính lời ước ao bộc trực của thi sĩ:

“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Giá chỉ có cây đàn của vua Thuấn, ta sẽ gảy khúc Nam Phong cầu cho dân giàu đủ khắp muôn phương. Cặp câu kết này hé mở cho chúng ta về chí của Ức Trai. Trong đời, về phận vị, Nguyễn Trãi là một công hầu. Nhưng trong thơ, trong cái thế giới của những khát vọng riêng tư nhất, ông đã bộc lộ khát khao lớn ngang tầm với những bậc quân vương vốn là thần tượng của lịch sử. Ông muốn cầm cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong để cầu mong cho dân tình phong túc hơn nữa. Ông mong muốn có một cuộc sống thực sự thái bình. Đó là khát khao sâu kín và cháy bỏng suốt một đời Nguyễn Trãi. Vì nó ông đã phải trả giá bằng cả sinh mạng và tôn tộc của mình. Chẳng thế mà ông cần phải đúc nó vào trong một câu lục ngôn, một câu đột nhiên ngắn lại, như để ghim sâu điều đau đáu của cõi lòng.

 
15 tháng 5 2021

Thamkhao

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả (chữ Hán) Đặng Trần Côn và dịch giả (chữ Nôm) Đoàn Thị Điểm:

      + Nguyên tác chữ Hán: Đặng Trần Côn (năm sinh năm mất chưa rõ) sống vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVIII, là người có cống hiến to lớn trong nền văn học Việt Nam với những tác phẩm thơ, phú chữ Hán.

 

      + Bản diễn Nôm: Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748) là người có công với nền văn học quốc âm, có mệnh danh Hồng Hà nữ sĩ, một nữ sĩ nổi tiếng với nhiều giai thoại về tài xuất khẩu thành thơ tài tình.

- Giới thiệu tác phẩm và đoạn trích:

      + “Chinh phụ ngâm”, tác phẩm văn vần của Đặng Trần Côn nói lên sự oán ghét chiến tranh phi nghĩa và nói lên tâm trạng khát khao tình yêu, hạnh phúc lứa đôi

      + “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” là đoạn trích từ câu 193 đến câu 220 của tác phẩm “Chinh phụ ngâm”, viết về tình cảnh và tâm trạng người chinh phụ, trong đó 8 câu thơ cuối đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của toàn bộ tác phẩm.

II. Thân bài:

Khái quát đoạn trích:

- Hoàn cảnh sáng tác: Đầu đời vua Lê Hiển Tông có nhiều cuộc khởi nghĩa - đàn áp giữa nông dân với quân triều đình, nổ ra quanh kinh thành Thăng Long. Đặng Trần Côn đứng trước thời thế, thấu hiểu nỗi khổ người chinh phụ đã viết nên bài thơ.

- Ý nghĩa nội dung: Đoạn trích viết về tình cảnh cô đơn, tâm trạng buồn khổ của người chinh phụ trong lúc chồng đi lính, thời gian dài vẫn bặt vô âm tín, khát khao được sống trong tình yêu và hạnh phúc lứa đôi một lần nữa.

2 câu thơ đầu: bộc lộ ước muốn của người chinh phụ qua thiên nhiên:

- Gió đông: những cơn gió của mùa xuân, ấm áp và tràn trề sức sống, điềm báo tin vui, đại diện sự sum họp, đoàn viên.

- Non Yên: tên thường gọi núi Yên Nhiên, ở biên ải phương bắc xa xôi - nơi người chồng đang chinh chiến.

 

- “Nghìn vàng”: Hình ảnh ẩn dụ cho tấm lòng son sắt của người chinh phụ 

-> Ước muốn của người chinh phụ gửi gắm tất cả nỗi lòng vào ngọn gió xuân để có thể đến được nơi chiến trường xa xôi để người chồng thấu hiểu và trở về cùng nàng.

=> Không gian vô tận, mênh mông, không giới hạn, ngăn cách hai vợ chồng, nhưng mà nỗi nhớ cũng không nguôi, không tính đếm được của người chinh phụ.

4 câu thơ giữa: Nỗi nhớ của người chinh phụ qua không gian

- “Non yên - non yên, trời - trời”: thủ pháp điệp liên hoàn nhấn mạnh khoảng cách xa xôi trùng điệp, trắc trở vô vàn cũng như tình yêu cũng người chinh phụ lúc bấy giờ không gì có thể khỏa lấp nỗi nhớ ấy.

- “thăm thẳm, đau đáu” : từ láy tả cung bậc của nỗi nhớ, vừa là nỗi nhớ sâu, dai dẳng, triền miên, vừa là nỗi nhớ gắn với nỗi đau, nỗi sầu. -> Nỗi nhớ được cụ thể hóa bằng không gian cho thấy nỗi nhớ khắc khoải dằng dặc.

- “Đường lên bằng trời”: Xa xôi, cách trở không nào đến được 

=> Nhấn mạnh sự xa cách của đôi vợ chồng, thể hiện tình yêu và nỗi nhớ khắc khoải của người chinh phụ. Sắc thái nỗi nhớ càng về sau càng tăng dần, dồn nén trở thành nỗi đau xót xa.

2 câu thơ cuối: Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm cảnh

- “Cảnh buồn”, “người thiết tha lòng”: Cảnh và người đều mang trong mình ở nỗi buồn và niềm đau

- Cảnh vốn là vật vô tri, không biết buồn đau chính tâm trạng của con người đã nhuốm sầu cảnh vật.

+ “Cành cây sương đượm”: Nhuộm một màu buốt giá, lạnh lẽo.

+ “Tiếng trùng mưa phun”: Hoang vắng, tĩnh lặng nghe được cả tiếng côn trùng kêu rả rích.

- Tâm trạng cô đơn, thổn thức, nỗi nhớ thương, khát khao được giãi bày, chia sẻ nhưng vô vọng, người chinh phụ đã hướng nỗi buồn ra ngoài cảnh vật khiến nó cũng trở nên não nề.

Sơ kết nghệ thuật:

Sử dụng các biện pháp tu từ ẩn dụ, điệp liên hoàn, từ láy

- Thủ pháp tả cảnh ngụ tình

- Nghệ thuật miêu tả nội tâm tinh tế

- Hình ảnh ước lệ, tượng trưng

- Giọng thơ da diết, buồn thương

III. Kết bài:

- Khái quát nội dung, nghệ thuật 8 câu thơ cuối: như một lá thư viết đầy những lời gửi gắm nỗi niềm thương nhớ khôn nguôi đến người chồng nơi biên ải xa xôi.

- Mở rộng: Liên hệ với số phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến có chồng đi lính.

15 tháng 5 2021

Em tham khảo nhé !

Nhắc đến Đặng Trần Côn ta thường nhớ đến ông là một nhà thơ sống vào đầu thế kỉ XVIII, mặt khác tên tuổi của ông còn gắn liền với tác phẩm nổi tiếng “Chinh phụ ngâm”. Trong đó 8 câu cuối của đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của toàn bộ tác phẩm qua việc thể hiện khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ trong thời chiến loạn.

“Lòng này gửi gió Đông có tiện ?

Nghìn vàng xin gửi đền non Yên

Non Yên dù chẳng tới miền

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

Trời thăm thẳm xa với khôn thấu

Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong

Cảnh buồn người thiết tha lòng

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Nhớ hình bóng của người chồng, người chinh phụ thổn thức hướng cái nhìn nội tâm về miền biên ải xa xôi. Nếu như ở khổ trước người chinh phụ càng cảm thấy cô đơn buồn sầu tới bao nhiêu thì ở 8 câu này nỗi nhớ nhung của người chinh phụ lại càng tăng lên bấy nhiêu cùng với sự thương nhớ ấy là tâm trạng lo lắng cho số phận của người chồng nơi biên ải. Trạng thái lo lắng của người chinh phụ được tác giả thể hiện như một mạch ngầm dù người chinh phụ không nói ra nhưng ta vẫn cảm nhận được, thể hiện sự tinh tế trong miêu tả nội tâm của tác giả.

Đầu tiên tác giả đã nhân hoá gió đông như một người đưa tin đến non Yên nhằm nhấn mạnh nỗi mong nhớ lo lắng của người chinh phụ về người chồng:

Lòng này gửi gió đông có tiện?

Nghìn vàng xin gửi đến non Yên

Vì quá thương nhớ chồng mà người vợ phải nhún nhường xin hỏi ngọn gió để gửi tin cho chồng mình, phải nói đó là một người đưa tin đặc biệt, đưa một cái tin đặc biệt đó là cái tin về tình cảm yêu thương nhung nhớ của người vợ dành cho người chồng nơi chinh chiến. Ngoài ra cái tin ấy được đưa đến ”non Yên” - một vùng hẻo lánh xa xôi nơi người chồng đang xông pha trận mạc, khốn nguy vô cùng. Qua việc dùng bút pháp nhân hoá, hình ảnh ước lệ “non Yên”, “gió Đông”, câu hỏi tu từ tác giả mở ra không gian mênh mông gợi thêm nỗi trống trải, cô đơn cho cảnh vật từ đó xoáy sâu vào sự nhớ nhung khắc khoải, da diết của người chinh phụ.

Xem thêm: Cảm nhận 8 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Nỗi nhớ đằng đẵng ấy làm nàng mòn mỏi cuối cùng được nâng lên thành nỗi đau, một nỗi đau vô hình đã được tác giả tạo hình hài qua 4 câu:

Non Yên dù chẳng tới miền

Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu

Thiếp nhớ chàng đau đáu nào xong

Cùng với nỗi nhớ thương mong đợi, từ “đằng đẵng” gợi cảm giác triền miên liên tục tưởng kéo dài đến vô tận nên được tác giả hình dung bằng sự so sánh với đường lên trời. Nỗi nhớ của người chinh phụ đằng đẵng, miệt mài, không thể nguôi ngoai và không thể dùng toán học mà cân đếm được. Nhưng trớ trêu thay khoảng cách giữa nàng và người chồng dường như khó chạm tới được, sự xa cách nghìn trùng mây. Bằng việc mở rộng không gian, ”trời thăm thẳm xa vời khôn thấu” như là lời than thở, ai oán thể hiện sự tuyệt vong của người chinh phụ sau nhiều ngày tháng mòn mỏi đợi tin chồng và chính từ đó nỗi đau xuất hiện, từ “đau đáu” biểu lộ sắc thái tăng tiến, sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa đắng cay nối dài bất tận trong lòng người chinh phụ.

Giống như tâm sự Thúy Kiều trong Truyện Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”, người chinh phụ thấy cảnh vật vô hồn, thê lương như tâm trạng của mình lúc bấy giờ:

Cảnh buồn người thiết tha lòng,

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.

Đó là mối quan hệ giữa con người và tâm cảnh, người vui thì tâm trạng vui thấm vào cảnh vật nhìn đâu cũng thấy toàn niềm vui chất chứa sự sống. Còn người buồn thì nỗi buồn thấm vào tâm can nên nhìn cảnh vật thấy sầu não, thê lương. Ở đây hình ảnh “cành cây sương đượm”, "tiếng trùng”, ”mưa phun” là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi buồn chất chứa sâu lắng của người chinh phụ, sự mòn héo của cảnh vật hay do lòng người mòn héo mà ra.

Tác giả đã sử dụng điêu luyện thể thơ song thất lục bát, phối hợp các hình ảnh ước lệ “non yên”, ”gió Đông”, với hình ảnh ẩn dụ “sương đượm”, ”mưa phun”, đặc biệt là sự thành công trong bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật, tả cảnh ngụ tình tác giả đã đưa người đọc qua các cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ trình một cách tự nhiên nhất và thể hiện ước mơ khát vọng chính đáng của họ về tình yêu và hạnh phúc.

Với cách dùng từ hình ảnh ước lệ, đoạn thơ đã thể hiện một cách tinh tế khát khao về tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ. Đồng thời thể hiện sự thương cảm sâu sắc của tác giả với ước mơ chính đáng của người phụ nữ cũng là lời tố cáo chiến tranh phong kiến phi nghĩa là biểu hiện của cảm hứng nhân văn cho toàn đoạn trích.

 

22 tháng 12 2021

Tham khảo

“Quốc âm thi tập” của Nguyễn Trãi là một bầu không gian trữ tình đặc sắc. Nó phong phú về cảnh và tình mà bài số bốn mươi ba trong chùm “Bảo kính cảnh giới chứa đựng những nét độc đáo, lấp ló niềm tâm sự của tác giả. Bài thơ này có người đặt tên là “Cảnh tình mùa hè”.

Câu thơ đầu cho thấy Nguyễn Trãi đang sống rất thong thả, rảnh rỗi một cách bất thường. Bởi, nếu còn được tham gia vào việc triều chính thì không có cái an nhàn ấy. Bài thơ có khả năng được sáng tác vào khoảng 1438 - 1439 lúc Nguyễn Trãi về Côn Sơn để lánh lũ nịnh thần đang lũng đoạn triều đình. Câu thơ như một tiếng nói tự bên trong: “Ừ, rảnh rỗi đến thế này rồi thì ta hóng mát mãi”.

Có thể coi bốn câu đầu tiên miêu tả cảnh. Tác giả mở tâm hồn ra với thiên nhiên và cuối mùa hè trong lúc rảnh rỗi cảnh và “hóng mát”. Bức tranh rất sinh động và đầy sức sống. Cây hòe đang phát triển màu xanh lục của nó cứ “đùn đùn” mà lên, mà tỏa tán, mà trương rợp ra như một cái dù xanh đan bằng cành lá. Màu xanh cứ vậy mà sum suê, mà tỏa rộng.

Ở hiên nhà, những bông hoa thạch lựu nở hoa đỏ chói, màu lửa làm chói rực rỡ. Cái gam màu đỏ là màu nóng đối với cái gam màu xanh là màu lạnh càng làm cho cảnh vật tưng bừng hoạt náo như đua nhau khoe sự sống. Những ngày cuối xuân đầu hè, Nguyễn Trãi cũng cảm nhận tinh tế:

“Trong tiếng cuốc kêu xuân đã muộn”

Để tả mùa hè Nguyễn Du viết:

“Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông”

Cảnh vật ở đây được đón nhận bằng nhiều giác quan (mắt, mũi, tai và cả ấn tượng nữa). Mùa hè đã đi những bước cùng buổi chiều tịch dương nắng tắt nhưng sự sống thì có sức nội năng có cái gì thôi thúc bên trong dường như không kiềm lại được cứ “đùn đùn” và “phun trương” ra tất cả. Cảnh vật được nhân hóa cho nên nó thiên về miêu tả trạng thái tinh thần của sự vật qua đây ta thấy được lòng yêu đời của tác giả thật mãnh liệt.

Cách đặt câu khiến ta suy nghĩ rằng cái hiên nhà phun những bông hoa màu đỏ chứ không phải là cây thạch lựu; cái hồ sen đã im ngừng mùi hương chứ không phải là bông sen. Cái nhìn như vật nó tinh tế và mới lạ vui vẻ mặc dầu người đọc có thể hiểu màu đỏ và hương thơm ấy từ đâu. Có lẽ nhà thơ đã quạnh hiu và chán nản với thực trạng là nhờ thiên nhiên xoa dịu niềm đau. Nhưng trong cách âm thanh của thiên nhiên Nguyễn Trãi vẫn lọc được tiếng nói của cuộc đời. Về với thiên nhiên, ông lại có cơ hội gần gũi với thiên nhiên hơn. Ông vui thú, say mê với vẻ đẹp của thiên nhiên.

“Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”

Cảnh mùa hè qua tâm hồn, tình cảm của ông, thiên nhiên bừng bừng sức sống. Cây hòe lớn lên nhanh, tán nó càng lớn dần lên có thể như một tấm trướng rộng căng ra giữa trời với cành lá xanh tươi. Những cây thạch lựu còn phun thức đỏ, ao sen tỏa hương, màu hồng của những cành, hoa điểm tô sắc thắm. Qua lăng kính của Nguyễn Trãi: sức sống vẫn bừng bừng, tràn đầy, cuộc đời là một vườn hoa, một khu vườn thiên nhiên muôn màu muôn vẻ. Cảnh vật như cổ tích có lẽ bởi nó được nhìn bằng con mắt của một thi sĩ đa cảm, giàu lòng ham sống với đời. Lao xao chợ cá dội lên từ một làng chài hay chính tác giả đang rộn rã niềm vui trước cảnh “dân giàu đủ” và cả tiếng ve dắng dỏi có phải chăng là tấm lòng Nguyễn Trãi đang tấu nhạc?

Nghe thấy để chứng thực rằng dân đang sống giàu đủ yên vui Nguyễn Trãi ước mơ có cây đàn vua Thuấn gảy khúc Nam phong ca ngợi cảnh:

“Dân giàu đủ khắp đòi phương”

Câu lục được cắt nhịp vững chãi kết tụ cảm xúc trong bài thì ra dù có “rồi hóng mát”, tác giả vẫn đau đáu một lý tưởng vì dân. Con người suốt đời mang tới no ấm cho dân.

“Sách một hai phiên làm bầu bạn
Rượu năm ba chén đổi công danh
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa
Cầu một ngồi coi đời thái bình”

(Tự thán, bài 10)

Bài thơ này đã làm rõ nỗi niềm tâm sự của Nguyễn Trãi trong thời gian ở Côn Sơn nhưng tấm lòng yêu nước thương dân vẫn ngày đêm “cuồn cuộn nước triều Đông”. Với thiên nhiên cây cỏ, ông yêu nó đắm say. Và có lẽ chính thiên nhiên đã cứu Nguyễn Trãi thoát khỏi những Ức Trai chăm chắm “một tấc lòng ưu ái cũ”. Nguyễn Trãi vẫn không quên lí tưởng nhân dân, lí tưởng nhân nghĩa, lý tưởng mong cho thôn xóm vắng không có tiếng oán than, đau sầu.

15 tháng 10 2017

- Giới thiệu vài nét về tác giả và tác phẩm (có thể tích hợp trong phần mở bài)

- Vẻ đẹp rực rỡ của bức tranh thiên nhiên

   + Mọi hình ảnh đều sống động: hoè lục đùn đùn, rợp mát như giương ô che rợp; thạch lựu phun trào sắc đỏ, sen hồng đang độ ngát mùi hương.

   + Mọi màu sắc đều đậm đà: hoè lục, lựu đỏ, sen hồng.

- Vẻ đẹp thanh bình của bức tranh đời sống con người: nơi chợ cá dân dã thì "lao xao", tấp nập; chốn lầu gác thì "dắng dỏi" tiếng ve như một bản đàn.

Cả thiên nhiên và cuộc sống con người đều tràn đầy sức sống. Điều đó cho thấy một tâm hồn khao khát cuộc sống, yêu đời mãnh liệt và tinh tế, giàu chất nghệ sĩ của tác giả.

- Niềm khát khao cao đẹp

   + Đắm mình trong cảnh ngày hè, nhà thơ ước có cây đàn của vua Thuấn, gảy khúc Nam phong cầu mưa thuận gió hòa để "Dân giàu đủ khắp đòi phương".

   + Lấy Nghiêu, Thuấn làm "gương báu răn mình", Nguyễn Trãi đã bộc lộ chí hướng cao cả: luôn khao khát đem tài trí để thực hiện tư tưởng nhân nghĩa yêu nước thương dân.

Nghệ thuật

- Hệ thống ngôn từ giản dị, tinh tế xen lẫn từ Hán và điển tích.

- Thể thơ thất ngôn xen lục ngôn.

Sử dụng từ láy độc đáo: đùn đùn, lao xao, dắng dỏi,...

Đánh giá chung

Tư tưởng lớn xuyên suốt sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Trãi - tư tưởng nhân nghĩa yêu nước thương dân - được thể hiện qua những rung động trữ tình dạt dào trước cảnh thiên nhiên ngày hè .