K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

28 tháng 2 2019

Ngô Tất Tố (1894-1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954. Ngô Tất Tố sinh năm 1893 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông là con thứ hai, nhưng là trưởng nam trong một gia đình có bảy anh chị em, ba trai, bốn gái. Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng. Năm 1912, Ngô Tất Tố học tư chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất. Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, nên được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc Kì. Ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị"

Tiếp theo là phần thuyết minh: "Tắt đèn là một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu nhất của nhà văn Ngô Tất Tố (tiểu thuyết, in trên báo Việt nữ năm 1937). Đây là một tác phẩm văn học hiện thực phê phán với nội dung nói về cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ 20 dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Tác phẩm xoanh quanh nhân vật chính là chị Dậu và gia đình – một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực là việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn trời đêm tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị.

Tắt đèn đã được đưa vào chương trình giáo dục văn học Việt Nam trong sách Ngữ văn 8, tập một (đoạn trích Tức nước vỡ bờ) và đã được điện ảnh Việt Nam chuyển thể thành một bộ phim. Tắt đèn là một tác phẩm mang tính chất của một luận ngữ phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến đương thời của thế kỉ 20, tắt đèn là luận văn mang tính nghệ thuật cao góp phần thúc đẩy quá trình nhận thức của xã hội đương đại, nó đúng là tác phẩm hay nhất đương thời làm cho giới nghệ sĩ luôn khó khăn trong việc đả kích chế độ "tư nhân sở hữu". Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: "Ngô Tất Tố đã xui người nông dân nỗi loạn".

"Ngô Tất Tố (1894-1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà Nho học và nghiên cứu có ảnh hưởng ở Việt Nam giai đoạn trước 1954. Ngô Tất Tố sinh năm 1893 ở làng Lộc Hà, tổng Hội Phụ, phủ Từ Sơn, Bắc Ninh (nay là thôn Lộc Hà, xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội). Ông là con thứ hai, nhưng là trưởng nam trong một gia đình có bảy anh chị em, ba trai, bốn gái. Lúc còn nhỏ Ngô Tất Tố được thụ hưởng một nền giáo dục Nho học. Từ năm 1898, Ngô Tất Tố được ông nội dạy vỡ lòng chữ Hán ở quê, sau đó ông theo học ở nhiều làng quê trong vùng. Năm 1912, Ngô Tất Tố học tư chữ Pháp một thời gian ngắn và bắt đầu tham dự các kỳ thi truyền thống lúc bấy giờ vẫn còn được triều đình nhà Nguyễn tổ chức. Ông đỗ kỳ sát hạch, nhưng thi hương bị hỏng ở kỳ đệ nhất. Đến năm 1915, ông đỗ đầu kỳ khảo hạch toàn tỉnh Bắc Ninh, nên được gọi là đầu xứ Tố, rồi thi hương lần thứ hai, khoa Ất Mão, cũng là khoa thi hương cuối cùng ở Bắc Kì. Ông qua được kỳ đệ nhất, nhưng bị hỏng ở kỳ đệ nhị"

Tiếp theo là phần thuyết minh: "Tắt đèn là một trong những tác phẩm văn học tiêu biểu nhất của nhà văn Ngô Tất Tố (tiểu thuyết, in trên báo Việt nữ năm 1937). Đây là một tác phẩm văn học hiện thực phê phán với nội dung nói về cuộc sống khốn khổ của tầng lớp nông dân Việt Nam đầu thế kỉ 20 dưới ách đô hộ của thực dân Pháp. Tác phẩm xoanh quanh nhân vật chính là chị Dậu và gia đình – một điển hình của cuộc sống bần cùng hóa do sưu cao thuế nặng mà chế độ thực dân áp đặt lên xã hội Việt Nam. Tác phẩm này đã vạch trần bộ mặt tàn ác, bất nhân của xã hội thực dân nửa phong kiến đương thời. Đỉnh điểm của cơn cùng cực là việc chị Dậu phải bán con, khoai và bán cả bầy chó để lấy tiền nộp sưu thuế cho chồng và cảnh chị Dậu chạy ra giữa màn trời đêm tối đen như mực và như cái tiền đồ của chị.

Tắt đèn đã được đưa vào chương trình giáo dục văn học Việt Nam trong sách Ngữ văn 8, tập một (đoạn trích Tức nước vỡ bờ) và đã được điện ảnh Việt Nam chuyển thể thành một bộ phim. Tắt đèn là một tác phẩm mang tính chất của một luận ngữ phê phán chế độ thực dân nửa phong kiến đương thời của thế kỉ 20, tắt đèn là luận văn mang tính nghệ thuật cao góp phần thúc đẩy quá trình nhận thức của xã hội đương đại, nó đúng là tác phẩm hay nhất đương thời làm cho giới nghệ sĩ luôn khó khăn trong việc đả kích chế độ "tư nhân sở hữu". Nhà văn Nguyễn Tuân cho rằng: "Ngô Tất Tố đã xui người nông dân nỗi loạn".

Trong dịp Tết Nguyên Đán cổ truyền của dân tộc ta, nếu hoa đào là đặc trưng của mùa xuân phương Bắc thì hoa mai lại là đặc trưng của mùa xuân phương Nam. Trong khu vườn hay trước sân mỗi nhà, thường không thể thiếu bóng dáng của cây mai. Cây hoa mai có nguồn gốc là một loại cây dại mọc trong rừng. Cây cao trên hai mét, thân gỗ, chia thành nhiều nhánh, lá nhỏ cỡ hai ngón tay, màu xanh lục. Tán tròn xoè rộng.

Cây hoa mai có nhiều loại, phổ biến nhất là mai vàng, sau đó là mai tứ quý, rồi đến mai trắng và mai chiếu thuỷ. Cây mai vàng dễ sống, ưa đất gò pha cát hoặc đất bãi ven sông. Có thể trồng đại trà thành vườn ruộng hàng vài mẫu mà cũng có thể trồng vài cây trong vườn, hoặc trong chậu sứ. Đất trồng mai có độ ẩm vừa phải và không úng nước. Phân bón cho mai thường là phân bò khô trộn với tro bếp, khô dầu và một ít u-rê, ka-li.... Vào khoảng rằm tháng Chạp (tức 15 tháng 12 Âm lịch) thì người trồng phải tuốt lá cho cây mai. Sau đó giảm tưới nước và bón thúc cho cây nảy nụ. Chỉ sau một tuần là từ các cành, nụ trổ ra chi chít, kết thành từng chùm có cuống rất dài. Bên cạnh mỗi chùm là một túm lá non màu tím nhạt. Trước tết vài ngày, hoa mai lác đác nở. Sáng mùng một Tết, cả cây mai bừng lên một sắc vàng tươi, trông đẹp vô cùng! Mai tứ quý nở quanh năm. Cánh hoa vàng thẫm nở giữa năm đài hoa tựa như năm cánh sen nhỏ xíu màu đỏ sậm. Khi cánh hoa đã rụng hết, nhụy hoa khô đi thì giữa mỗi bông xuất hiện mấy hạt nhỏ xinh xinh như những hạt cườm, lúc non màu xanh, lúc già chuyển thành màu tím đen lóng lánh. Đứng ngắm vườn mai, ta thầm cảm phục sự mầu nhiệm và hào phóng của tạo hoá. Mai vàng rực rỡ góp sắc, góp hương với muôn hoa ngày Tết, lại có mai tứ quý cần mẫn, thịnh vượng quanh năm. Mai trắng còn có tên gọi là Bạch Mai. Lúc hoa mới nở có màu hồng phớt, sau chuyển sang trắng, mùi thơm nhè nhàng, phảng phất. Mai trắng hơi hiếm bởi khó trồng và được coi là loài hoa quý. Mai chiếu thuỷ cây thấp, lá nhỏ lăn tăn, hoa li ti mọc thành chùm màu trắng và thơm ngát, thường được trồng vào chậu hoặc trồng vào hòn non bộ làm cảnh trước sân nhà. Xuân về trên đất phương Nam với màu nắng vàng rực rỡ hoà quyện với không khí tưng bừng náo nức của ngày Tết cổ truyền dân tộc. Nhà ai cũng muốn có một cây mai, hoặc một bình hoa mai tươi nở đúng sáng mồng một đầu năm để lấy may. Trong ba ngày tết, hoa mai chưa khoe sắc vàng rực rỡ thì gia chủ khó mà cảm thấy niềm vui trọn vẹn. Cây mai được xếp vào hàng "tứ quý" trong bộ tranh "tứ bình" đại diện cho bốn mùa trong năm: Mai, lan, cúc, trúc và hoa mai là biểu tượng của mùa xuân. Về mặt ý nghĩa, cây hoa mai tượng trưng cho phẩm giá thanh cao, tốt đẹp của con người.

Trong những năm gần đây, nhân dân miền bắc đón xuân bằng cả sắc hồng thắm của hoa đào và sắc vàng rực rỡ của hoa mai. Hoa mai, hoa đào hiện diện bên nhau, tô điểm thêm cho mùa xuân tràn đầy sức sống của non nước Việt Nam yêu dấu.

28 tháng 2 2019

“Hoa vàng cánh mỏng gọi rằng mai
Cũng nở vào xuân sánh vạn loài
Kẻ chuộng cây cành bao dáng mã
Người mê lá nụ những khuôn bài
Tươi màu chúc tụng luôn làm giỏi
Đậm sắc cầu mong mãi trổ tài
Cạnh trúc giao thề chung thủy, nghĩa
Bên tùng ước hẹn vững bền, dai.”

Bàn về nét văn hóa Việt Nam không thể quên ngày Tết. Tết được coi là ngày lễ quan trọng nhất trong một năm của người Việt. Ngày Tết là dịp để cả gia đình quần tụ, sum vầy, đón chào những thời khắc thiêng liêng của thời gian. Không khí ngày Tết không thể thiếu được mùi vị của bánh chưng và màu sắc của những cành mai đối với Nam Bộ và cành đào đối với miền Bắc. 

Cây mai vốn là một loại cây rừng. Ngày xưa, khi đi khai khẩn đất phương nam, ông cha ta tìm thấy một loại hoa rừng cũng có năm cánh, cũng nở vào dịp Tết như hoa đào nên đem về nhà chưng để tưởng nhớ về cái Tết nơi quê nhà. Từ đó, chưng hoa mai đã trở thành phong tục ngày Tết của mỗi gia đình miền Nam.Sở dĩ mai là biểu trưng ngày Tết của miền Nam là bởi khí hậu miền Bắc Việt Nam rất khác so với vùng này. Do chịu ảnh hưởng mạnh của gió mùa Đông Bắc nên những ngày Tết ở miền Bắc thường lạnh, vì thế mà không có hoa mai. 

Cây mai có rất nhiều loại. Mai vàng là loài thường thấy nhất. Mai vàng thuộc họ hoàng mai. Cành mai có phần uyển chuyển, mềm mại hơn cành đào. Loài cây này thường rụng lá vào mùa đông, đến mùa xuân thì bắt đầu nở hoa. Hoa mai cũng có năm cánh như hoa đào. Khi sắp nở, nụ mai mới phô màu vàng tươi thắm. Hoa mai mang một vẻ đẹp nồng nàn, ấm áp của khí hậu miền Nam. Cánh mai tỏa hương thơm thoang thoảng, kín đáo. Hoa mai mọc thành chùm và có cuống dài treo lơ lửng bên cành. Sau khi nở hoa, cây lại còn cho quả màu đỏ nhạt, bóng như ngọc.

Ngoài ra, còn có nhiều loại mai được các gia đình Việt Nam rất ưa chuộng, dùng làm cây kiểng trong vườn. Đầu tiên phải kể đến là loài mai tứ quý có thể ra hoa cả bốn mùa. Điều đặc biệt là hoa mai tứ quý nở lần đầu có năm cánh màu vàng nhưng sau đó, các cánh hoa rơi rụng dần rồi năm đài hoa đổi thành màu đỏ, trông như một bông hoa mai màu đỏ, rất đẹp. Đó là lý do vì sao mai tứ quý còn có tên gọi là nhị độ mai, nghĩa là hoa mai nở hai lần, trước vàng sau đỏ. Còn có loài mai chiếu thủy thân hình bé nhỏ, cho những chùm hoa màu trắng bé xinh xinh, tỏa hương thơm dịu dàng. Chúng thường được người ta trồng trên các hòn non bộ.

Dù họ nhà mai đa dạng và phong phú, nhưng hoa mai nào cũng được con người xem như biểu trưng của sự tinh khiết, thanh bạch, của tấm lòng tri ân, tri kỷ. Hơn nữa, hoa mai còn được cho là mang đến sự may mắn nếu cây mai bắt đầu nở hoa vào đúng thời khắc giao thừa. Vào dịp Tết, trong mỗi nhà người dân Nam bộ, cây mai hay cành mai luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất. Nếu thiếu sắc mai vàng thì có lẽ cái Tết miền Nam sẽ không thể trọn vẹn được.

Người ta có thể trồng mai trong bồn, trong chậu hay ngoài vườn đều được. Cây mai rất ưa ánh sáng và đất ẩm. Thế nên, mỗi khi gần đến dịp Tết, chỉ cần khí hậu ấm áp, ẩm ướt là hoa mai nở rộ. Nhưng chưa đến giao thừa mà hoa mai đã nở sớm thì trong ba ngày Tết hoa mai rụng sẽ bị cho là điềm xui và cây mai sẽ trông không đẹp nữa. Vì thế, các nghệ nhân trồng mai trong dịp cận Tết luôn bận rộn chăm sóc cho vườn mai của mình, dùng mọi cách để giữ sao cho hoa mai nở rộ vào đúng ba ngày Tết, mang đến may mắn cho mọi nhà. Ngoài ra, các nghệ nhân còn dùng kỹ thuật ghép để tạo ra những cây mai cho hoa rất nhiều cánh. Thậm chí còn có nhiều hoa mai màu khác nhau nở trên cùng một cây. Quả thật, bàn tay kỳ diệu của con người đã góp phần giúp họ nhà mai thêm đa dạng, phong phú và hấp dẫn.

Hoa mai là biểu tượng của ngày Tết, là thước đo sắc đẹp, là niềm tự hào của người dân Việt đặc biệt là người dân xứ Sài Gòn. Không ai có thể phủ nhận vẻ đẹp của mai cũng như quên được màu sắc hoàng gia của nó. Ngày nay, người miền Bắc cũng rất thích để cây mai trong nhà vào dịp Tết, mặc dù không hợp khí hậu nhưng ai cũng muốn trong nhà mình có hình ảnh của cây mai, cành mai, hoa mai. Bởi vậy mới nói, hoa mai là niềm tự hào của người dân Việt. Maigắn liền với văn hóa lâu đời của nhân dân ta, mai mang những nét đẹp thanh cao, gần gũi, thân thiết gắn bó với con người, mai là nguồn vui cho chúng ta khi mùa xuân về, hiểu về hoa mai chúng ta hiểu thêm về nhiều giá trị, vẻ đẹp, của cây mai và biết cách nâng niu chăm sóc để cứ mỗi dịp xuân về các sắc hoa lại thi nhau đua nở.

28 tháng 2 2019

Bãi biển Sầm Sơn thuộc thị xã Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa, cách thành phố Thanh Hóa 16km. Bờ biển dài, bằng phẳng, phong cảnh hùng vĩ, đã được người Pháp khai thác từ năm 1906.
Bãi biển Sầm Sơn là nơi tắm biển rất tốt mà người Pháp đã biết khai thác từ năm 1906 và Sầm Sơn nhanh chóng trở thành nơi nghỉ mát nổi tiếng của Ðông Dương. Từ những thập kỷ trước, đã có nhiều biệt thự nghỉ mát mọc lên ở đây. Vua Bảo Ðại, ông vua cuối cùng của triều Nguyễn cũng xây biệt thự riêng ở Sầm Sơn. Sầm Sơn có nhiều cảnh đẹp: hòn Trống Mái, đền Ðộc Cước, núi Cô Tiên...
Bờ biển Sầm Sơn dài 10km bằng phẳng và nhiều hải sản quý như tôm he, cá thu, mực... Sầm Sơn có cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ, vùng biển bao la với những thắng tích và huyền thoại mang đậm chất nhân văn và lòng mến khách. Bãi biển Sầm Sơn là một trong những bãi biển rộng và đẹp ở phía bắc.
Bãi biển Sầm Sơn chạy dài gần 6 km từ cửa Lạch Hới đến chân núi Trường Lệ. Bãi cát thoai thoải, sóng êm, nước trong xanh và nồng độ muối vừa phải rất phù hợp với sức khoẻ con người.
Ngoài bãi tắm đẹp, thiên nhiên còn phú cho Sầm Sơn nhiều danh lam - thắng cảnh nổi tiếng và lung linh sắc màu huyền thoại. Đó là dãy núi Trường Lệ chạy dài theo mép nước bốn mùa thông reo, là hòn Trống Mái lãng mạn tình tứ, là đền Độc Cước, Cô Tiên uy nghi cổ kính; là Vọng Hải đài- nơi du khách có thề ngắm cả một vùng trời nước mênh mông. Các truyền thuyết còn kể lại rằng: Núi Trường lệ là một thiếu nữ hóa thân để che chắn phong ba bão táp cho dân làng, hòn Trống Mái được sinh ra từ một mối tình thuỷ chung của đôi vợ chồng trẻ còn Đền Độc Cước là nơi thờ vị thần một chân, một anh hùng thần thoại đã tự xẻ thân làm hai nửa, một trên bờ bảo vệ dân làng, một xuống nước diệt trừ Thuỷ quái.
Đền Độc Cước và Đền Cô Tiên đều là những kiến trúc được xây dựng từ cuối đời Nhà Lê ( thế kỷ 17 ) ( đền Cô Tiên là nơi thờ vọng thần Độc Cước và Mẫu Liễu Hạnh) theo lối kiến trúc cổ. Đó là những nơi mà du khách thường tới viếng thăm mỗi khi đến Sám Sơn.
Phía Nam dãy núi Trường Lệ còn có một bãi tắm rất đẹp, cảnh quan môi trường còn rất nguyên sơ, nơi đây hứa hẹn một khu du lịch nghỉ dưỡng hiện đại trong tương lai.

Biển Sầm Sơn vào mỗi thời khắc trong ngày lại có những vẻ đẹp khác nhau. Du khách tha hồ khám phá và tận hưởng những khoảnh khắc tuyệt vời ấy. Sáng sớm bình minh lên, bầu trời ửng hồng phía chân trời, từng đoàn thuyền đánh cá của ngư dân làng Núi trở về sau một đêm đánh bắt ngoài khơi xa, những nụ cười rạng rỡ, tràn đầy hạnh phúc báo hiệu một đêm ra khơi thành công. Và chợ hải sản được họp ngay bên bờ biển, với nguồn hải sản vô cùng phong phú của biển Sầm Sơn, du khách có thể chọn lựa và thưởng thức tôm, cua, ghẹ, mực, cá thu… là những đặc sản vừa được cất lên từ biển. Buổi chiều, trời mát dịu, bãi biển tập trung rất đông người xuống tắm. Những tiếng hò reo với những cơn sóng xô, những tiếng vui đùa đuổi nhau trên cát… . Khi mặt trời dần lên cao, biển Sầm Sơn lóng lánh dát vàng, từng cơn sóng vỗ bờ trắng xóa ôm lấy dải cát mịn màng ánh lên trong nắng, những cánh diều rực rỡ giữa màu xanh của bầu trời, núi non và biển cả… Du khách cũng có thể nằm phơi mình trên bãi biển, nghe những thanh âm của biển và đón những cơn gió mang theo vị mặn rất đặc trưng để tâm hồn thư thái hơn, êm dịu hơn hoặc cùng nhau xây lâu đài cát rồi lại trả nó về với biển khi những đợt sóng lên cao… Đêm Sầm Sơn, biển mờ ảo dưới ánh trăng, sao, vẫn những đợt sóng vỗ bờ nhưng dường như êm đềm hơn, vẫn là những âm thanh ấy nhưng không phải là tiếng vui đùa của du khách nhảy theo từng con sóng bạc đầu mà là những tiếng thì thầm cùng với biển và sóng…
Đêm Sầm Sơn dường như có hai thế giới trái ngược nhau được ngăn cách bởi bức tường thiên nhiên là những rặng dừa và phi lao duyên dáng. Tạm biệt biển lấp lánh ánh trăng sao, tạm biệt bản nhạc du dương của gió, của sóng…, bước qua khỏi cái hàng rào thiên nhiên ấy, du khách sẽ thấy choáng ngợp trước đường Hồ Xuân Hương dọc theo bờ biển rực rỡ ánh đèn, cửa hàng, cửa hiệu tấp nập người qua lại. Trên vỉa hè ven biển là những sạp hàng bán đồ lưu niệm được làm từ các sản phẩm biển muôn màu sắc. Du khách đến với biển Sầm Sơn hẳn không quên mang về tặng người thân, bè bạn những món quà lưu niệm đầy ý nghĩa. Nếu không muốn bách bộ, du khách có thể đi dạo trên con đường ven biển với những chiếc xích lô xinh xắn mà chủ nhân của nó ai nấy đều giàu lòng mến khách, thân thiện và cởi mở. Họ sẵn lòng giới thiệu tới du khách về những thắng cảnh đẹp trên quê hương Sầm Sơn yêu dấu. Du khách cũng có thể thuê những chiếc xe đạp đôi để cùng bạn bè, người thân tự mình khám phá cuộc sống sôi động về đêm của thị xã biển Sầm Sơn.
Không chỉ có biển thơ mộng cùng bãi tắm đẹp, thiên nhiên còn ban tặng cho Sầm Sơn nhiều danh lam – thắng cảnh, di tích lịch sử nổi tiếng trên núi Trường Lệ với những truyền thuyết lung linh sắc màu huyền thoại mang đậm chất nhân văn. Hòn Cổ Giải là nơi Trường Lệ tiếp xúc với biển trông như con giải khổng lồ đang vươn ra biển khơi. Đền Độc Cước (còn gọi là đền Gầm) ngự trên đỉnh hòn Cổ Giải, điểm cực bắc của dãy Trường Lệ, ngay cạnh bãi tắm Sầm Sơn. Đền mang tên Độc Cước nghĩa là một chân, gắn liền với truyền thuyết chàng khổng lồ xẻ đôi mình, một nửa ra khơi tiêu diệt thủy quái bảo vệ dân chài, còn một nửa đứng canh trên đỉnh hòn Cổ Giải. Tưởng nhớ công ơn của chàng, người dân Sầm Sơn đã lập miếu thờ chàng ngay bên tảng đá có vết lõm dấu chân khổng lồ tương truyền là bàn chân của chàng và sau này là đền Độc Cước. Trong đền có tượng thần Độc Cước bằng nửa thân người và bước chân khổng lồ trên đá của chàng trai dũng cảm đó.
Theo sườn núi quanh co giữa những vạt thông reo là hòn Trống Mái lãng mạn tình tứ, một thắng tích độc đáo và kỳ thú. Đứng sát cạnh du khách chỉ thấy hai khối đá lớn nằm chênh vênh trên một tảng đá bằng phẳng gọi là hòn Đá Bạn. Nhưng càng lùi xa, trông chúng càng giống một đôi chim đá khổng lồ đang nằm châu mỏ vào nhau. Truyền thuyết kể rằng có đôi vợ chồng yêu nhau, chết biến thành chim vẫn quấn quýt không rời. Các tiên nữ xuống bãi Tiên tắm, cảm cái tình ấy mới biến họ thành đôi chim đá để họ vĩnh viễn bên nhau.
Sầm Sơn với cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ quả là vùng sơn thủy hữu tình, biển cả bao la đầy chất thơ cùng những thắng tích và huyền thoại mang đậm chất nhân văn và lòng mến khách của người dân nơi đây. Biển Sầm Sơn hứa hẹn một kỳ nghỉ hè đầy hấp dẫn và lý thú

1) giới thiệu tập thơ" nhật ký trong tù" của chủ tịch HCM2) em hãy so sánh đối chiếu giữa nguyên tác với bản dịch nghĩa và bản dịch thơ của bài thơ " đi đường"3) tìm và phân tích giá trị của phép điệp ngữ đc sử dụng nhiều lần trong bài thơ " đi đường" khoảng 12-15 câu4) trong tập thơ " nhật ký trong tù" có những câu thơ- sống ở trên đời người cũng vậygian nan rèn luyện mới thành...
Đọc tiếp

1) giới thiệu tập thơ" nhật ký trong tù" của chủ tịch HCM

2) em hãy so sánh đối chiếu giữa nguyên tác với bản dịch nghĩa và bản dịch thơ của bài thơ " đi đường"

3) tìm và phân tích giá trị của phép điệp ngữ đc sử dụng nhiều lần trong bài thơ " đi đường" khoảng 12-15 câu

4) trong tập thơ " nhật ký trong tù" có những câu thơ

- sống ở trên đời người cũng vậy

gian nan rèn luyện mới thành công

- nghĩ mình trong bước gian truân

tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng 

a) những ý thơ trên giống với Ý thơ nào trong bài thơ " đi đường"

b) có thể rút ra bài học gì từ những câu thơ này

c) từ các câu thơ trên hãy viết thành một đoạn văn. Trong đoạn văn có sử dụng câu trần thuật để bộc lộ cảm xúc, câu trần thuật để thể hiện nghi vấn

0
27 tháng 2 2019

cai bn tui ghet va lanh lung vs tui la 1. nhung trong cai ghet laij rat thik lun

Câu này quen nhở ?

Cậu copy của ngta đúng ko ? Của 1 youtube làm về gacha life

mạnh miệng ròi xl 

Lua thu vang, gian nan thu suc

1.       Hãy cảm ơn những điều bạn chưa biết. Bởi nếu không, bạn sẽ không trưởng thành lên được

2.       Nếu bạn bị phản bội, mất lòng tin và bị tổn thương, hãy vượt lên, giữ lại những gì tốt đẹp nhất còn lại, và đừng tự thương hại mình quá

3.       Đừng chờ đợi những gì bạn ước muốn mà hãy đi tìm kiếm chúng

4.       Người ta có thể quên đi điều bạn nói, nhưng những gì bạn để lại trong lòng họ thì không bao giờ phai nhạt

5.       Hãy cố gắng thắp lên một ngọn nến còn hơn cứ ngồi nguyền rủa bóng tối

6.       Nếu xe bị hỏng và bạn phải dắt bộ một quãng đường, hãy nghĩ đến những người khuyết tật chỉ mong có thể tự bước đi vài bước

7.       Thật dễ có tên mình trong sổ địa chỉ của người khác nhưng sẽ rất khó làm cho hình ảnh của mình hiện diện trong trái tim của người ấy

8.       Đôi khi sự đấu tranh luôn cần phải có trong cuộc sống. Nếu cuộc sống trôi qua thật suôn sẻ, chúng ta sẽ không hiểu được cuộc sống, không có được bản lĩnh, nghị lực như chúng ta cần phải có, cuộc sống thật công bằng, không phải vô cớ mà mọi điều xảy đến với ta

9.       Bạn cần sức mạnh, nghị lực nên cuộc sống đã đặt ra những khó khăn nghịch cảnh để bạn vượt qua và trở nên mạnh mẽ hơn

10.   Cuộc sống của bạn chỉ thật sự ý nghĩa và trọn vẹn khi bạn biết giữ gìn và nuôi dưỡng ước mơ, biết ghi nhận, biết tin vào những lời hứa

11.   Đừng bao giờ cau mày hay nhăn mặt thậm chí khi bạn đang buồn, chắc chắn sẽ có ai đó yêu bạn chỉ vì nụ cười của bạn thôi. Với thế giới bạn chỉ là một cá nhân nhưng đối với một ai đó, bạn là cả thế giới

12.   Bạn cần sự hiểu biết và sáng tạo nên cuộc sống đã ban cho bạn đôi bàn tay và trí óc để khám phá và làm việc

13.   Nếu để ý đến những điều bạn đang có trong cuộc sống, bạn sẽ nhận được nhiều hơn thế. Còn nếu chỉ để ý đến những điều bạn không có, bạn sẽ thấy mình không bao giờ có đủ

14.   Bạn sẽ tìm thấy niềm vui khi giúp đỡ người khác bằng tất cả tấm lòng

15.   Hãy cảm ơn những lúc bạn gặp khó khăn, bởi nếu không có khó khăn, bạn sẽ không có cơ hội để hiểu mình và trải nghiệm cuộc sống

1.       Hãy cảm ơn những điều bạn chưa biết. Bởi nếu không, bạn sẽ không trưởng thành lên được

2.       Nếu bạn bị phản bội, mất lòng tin và bị tổn thương, hãy vượt lên, giữ lại những gì tốt đẹp nhất còn lại, và đừng tự thương hại mình quá

3.       Đừng chờ đợi những gì bạn ước muốn mà hãy đi tìm kiếm chúng

4.       Người ta có thể quên đi điều bạn nói, nhưng những gì bạn để lại trong lòng họ thì không bao giờ phai nhạt

5.       Hãy cố gắng thắp lên một ngọn nến còn hơn cứ ngồi nguyền rủa bóng tối

6.       Nếu xe bị hỏng và bạn phải dắt bộ một quãng đường, hãy nghĩ đến những người khuyết tật chỉ mong có thể tự bước đi vài bước

7.       Thật dễ có tên mình trong sổ địa chỉ của người khác nhưng sẽ rất khó làm cho hình ảnh của mình hiện diện trong trái tim của người ấy

8.       Đôi khi sự đấu tranh luôn cần phải có trong cuộc sống. Nếu cuộc sống trôi qua thật suôn sẻ, chúng ta sẽ không hiểu được cuộc sống, không có được bản lĩnh, nghị lực như chúng ta cần phải có, cuộc sống thật công bằng, không phải vô cớ mà mọi điều xảy đến với ta

9.       Bạn cần sức mạnh, nghị lực nên cuộc sống đã đặt ra những khó khăn nghịch cảnh để bạn vượt qua và trở nên mạnh mẽ hơn

10.   Cuộc sống của bạn chỉ thật sự ý nghĩa và trọn vẹn khi bạn biết giữ gìn và nuôi dưỡng ước mơ, biết ghi nhận, biết tin vào những lời hứa

11.   Đừng bao giờ cau mày hay nhăn mặt thậm chí khi bạn đang buồn, chắc chắn sẽ có ai đó yêu bạn chỉ vì nụ cười của bạn thôi. Với thế giới bạn chỉ là một cá nhân nhưng đối với một ai đó, bạn là cả thế giới

12.   Bạn cần sự hiểu biết và sáng tạo nên cuộc sống đã ban cho bạn đôi bàn tay và trí óc để khám phá và làm việc

13.   Nếu để ý đến những điều bạn đang có trong cuộc sống, bạn sẽ nhận được nhiều hơn thế. Còn nếu chỉ để ý đến những điều bạn không có, bạn sẽ thấy mình không bao giờ có đủ

14.   Bạn sẽ tìm thấy niềm vui khi giúp đỡ người khác bằng tất cả tấm lòng

15.   Hãy cảm ơn những lúc bạn gặp khó khăn, bởi nếu không có khó khăn, bạn sẽ không có cơ hội để hiểu mình và trải nghiệm cuộc sống

27 tháng 2 2019

Ngày tháng năm sinh của Bác Hồ: 19 tháng 5 năm 1890.

Ngày tháng năm Bác Hồ mất:  2 tháng 9 năm 1969.

~HOK TỐT~

Sinh : 19/5/1890

Mất : 2/9/1969

Thái Bình tiếp giáp với 5 tỉnh, thành phố: Hải Dương ở phía bắc, Hưng Yên ở phía tây bắc, Hải Phòng ở phía đông bắc, Hà Nam ở phía tây, Nam Định ở phía tây và tây nam. Phía đông là biển Đông (vịnh Bắc Bộ).

Hành chính

Thái Bình được chia thành 7 huyện và 1 thành phố trực thuộc là:

    * Thành phố Thái Bình (tỉnh lỵ)
    * Đông Hưng (sáp nhập 2 huyện Đông Quan và Tiên Hưng)
    * Hưng Hà (sáp nhập 2 huyện Hưng Nhân và Duyên Hà)
    * Kiến Xương (tách ra từ phủ Kiến Xương tỉnh Nam Định (cũ). Sau Cách mạng Tháng Tám gọi là huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình)
    * Quỳnh Phụ (sáp nhập 2 huyện Quỳnh Côi và Phụ Dực)
    * Thái Thụy (sáp nhập 2 huyện Thái Ninh và Thụy Anh)
    * Tiền Hải
    * Vũ Thư (sáp nhập 2 huyện Vũ Tiên và Thư Trì)

Điều kiện tự nhiên

Thái Bình nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa: mùa nóng, mưa nhiều từ tháng 5 đến tháng 10; mùa lạnh, khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau.

Địa hình khá bằng phẳng với độ dốc thấp hơn 1%; độ cao phổ biến từ 1-2 m trên mực nước biển, thấp dần từ bắc xuống đông nam.

Thái Bình có bờ biển dài 52 km.

Tỉnh này có 4 con sông khá lớn chảy qua: phía bắc và đông bắc có sông Hóa dài 35 km, phía bắc và tây bắc có sông Luộc (phân lưu của sông Hồng) dài 53 km, phía tây và nam là đoạn hạ lưu của sông Hồng dài 67 km, sông Trà Lý (phân lưu cấp 1 của sông Hồng) chảy qua giữa tỉnh từ tây sang đông dài 65 km.

 Các sông này tạo ra 4 cửa sông lớn: Diêm Điền (Thái Bình), Ba Lạt, Trà Lý, Lân. Do đặc điểm sát biển nên chúng đều chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều, mùa hè mức nước dâng nhanh với lưu lượng lớn và hàm lượng phù sa cao, mùa đông lưu lượng giảm nhiều và lượng phù sa không đáng kể khiến nước mặn ảnh hưởng sâu vào đất liền từ 15-20 km.

    * Diện tích: 1.542 km²
    * Lượng mưa trung bình hàng năm: 1.400-1.800 mm
    * Nhiệt độ trung bình: 23,5 °C
    * Số giờ nắng trong năm: 1.600-1.800 giờ
    * Độ ẩm tương đối trung bình: 85-90%
    * Tọa độ: 20°17′đến 20°44′độ vĩ bắc, 106°06′đến 106°39′độ kinh đông.

Dân số

Năm 2004, Thái Bình có 1.842.800 người với mật độ dân số 1.195 người/km².

Dự báo dân số năm 2010 là 1.902.400 người, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giai đoạn 2006 -2010 là 0.86 %/năm

Thành phần dân số

    * Nông thôn: 74 %
    * Thành thị: 26 %

Phấn đấu đạt tỷ lệ đô thị hoá 22.3% năm 2015, đến năm 2020 tỷ lệ đô thị hoá đạt khoảng 40%, tỷ lệ lao động phi nông nghiệp trong tổng số lao động khoảng 67%

Lịch sử

Vùng đất thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay, vào thời Bắc Thuộc trước thế kỷ 10, thuộc hương Đa Cương (vùng đất từ sông Luộc ra đến biển) của quận Giao Chỉ. Tới nhà Hậu Lê, thời vua Lê Thánh Tông về sau vùng đất Thái Bình ngày nay thuộc trấn Sơn Nam.

 Đến cuối thời nhà Lê trung hưng sang đầu nhà Nguyễn, vùng này thuộc trấn Sơn Nam Hạ. Năm 1832, vua Minh Mạng nhà Nguyễn cắt hai phủ Thái Bình, Kiến Xương nhập vào tỉnh Nam Định, nhập phủ Tiên Hưng vào tỉnh Hưng Yên.

Tỉnh Thái Bình được thành lập vào năm thứ hai niên hiệu Thành Thái nhà Nguyễn (1890), từ hai phủ Kiến Xương và Thái Bình của tỉnh Nam Định và lấy thêm huyện Thần Khê của phủ Tiên Hưng thuộc tỉnh Hưng Yên. Huyện Thần Khê lúc đó được nhập vào phủ Thái Bình, sau đó phủ này được đổi tên thành Thái Ninh.

Đến năm 1894, hai huyện Hưng Nhân và Diên Hà, phần còn lại của phủ Tiên Hưng cũng được nhập về tỉnh Thái Bình từ Hưng Yên, và phủ Tiên Hưng được tái lập trực thuộc tỉnh Thái Bình. Như vậy lúc mới thành lập, tỉnh Thái Bình có 3 phủ là: Kiến Xương, Thái Ninh, Tiên Hưng, trong đó bao gồm 12 huyện:

    * Vũ Tiên, Thư Trì, Tiền Hải, Trực Định (Chân Định) thuộc phủ Kiến Xương (sở lỵ phủ kiêm huyện lỵ huyện Trực Định, đặt ở xã Động Trung)
    * Đông Quan, Quỳnh Côi, Phụ Dực, Thụy Vân (Thụy Anh), Thanh Quan thuộc phủ Thái Ninh (sở lỵ phủ kiêm huyện lỵ huyện Thanh Quan)
    * Hưng Nhân, Diên Hà, Thần Khê thuộc phủ Tiên Hưng (sở lỵ phủ kiêm huyện lỵ huyện Thần Khê)

Sau đó, đơn vị hành chính cấp phủ bị loại bỏ, các huyện có sở lỵ phủ thì đổi theo tên của phủ kiêm quản trước đó: Thanh Quan thành Thái Ninh, Trực Định thành Kiến Xương, Thần Khê thành Tiên Hưng.

Tỉnh lỵ tỉnh Thái Bình khi mới thành lập năm 1890, đặt tại xã Kỳ Bố, trước là huyện lỵ của huyện Vũ Tiên (từ thời Minh Mạng). Sau này, tỉnh lỵ Thái Bình phát triển mở rộng sang các huyện lân cận thành thị xã Thái Bình, rồi thành thành phố Thái Bình.

Kinh tế

    * Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) năm 2008 đạt gần 10.500 tỷ đồng (chỉ số giá năm 1994),phấn đấu năm 2010 là 11.900 tỷ đồng, nhịp độ tăng trưởng GDP giai đoạn 2006 - 2010 bình quân 11%.

    * Cơ cấu nông, lâm thuỷ sản - công nghiệp, xây dựng - dịch vụ phấn đấu năm 2010: 34% - 33 % - 33%
 
  * GDP bình quân phấn đấu năm 2010 là 11.2triệu /người

    * Giá trị sản xuât Công nghiệp 6 tháng năm 2009 ước đạt 3322.3 tỷ đồng, tăng 15.02 % so với cùng kỳ 2008. Hiện nay các khu Công nghiẹp trên toàn tỉnh thu hút được 127 dự án, đã có 102 dự án hoàn thành đầu tư đi vào sản xuất với tổng số vốn thực hiện đầu tư là 4280.3tỷ đồng thu hút 31.514 lao động.

    * Kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn năm 2010 sẽ là 430triệu USD, năm 2015 là 950triệu USD và năm 2020 là 2300 tỷ USD.

    * Tổng số vốn đầu tư phát triển toàn xã hôi tới 2010 là 27.550 tỷ đồng

    * Thu ngân sách 6 tháng đầu năm 2009 so với cùng kỳ năm 2008 tăng 28%, ước thực hiện 2.427 tỷ đồng, đạt 74.6% dự toán năm. Theo Thaibinh.gov.vn

    * Trung tâm Điện lực Thái Bình tại xã Mỹ Lộc - Huyện Thái Thụy với vốn đầu tư 2.1 tỷ USD,diện tích 254ha. Dự án có công suất 1800 MW, dự kiến Nhà máy 1 sẽ hoàn thành vào năm 2013 - 2014 và Nhà máy 2 hoàn thành vào năm 2015.

    * Tập đoàn dầu khí quốc gia sẽ triển khai 15 dự án thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau trên địa bàn Thái Bình : Dự án Trung tâm Điện Lực, dự án khoan thăm dò dầu khí, dự án xây dựng kho xăng dầu tại Xã Hoà Bình - Vũ Thư quy mô chứa 6000m³, dự án xây dựng hệ thống trạm kinh doanh nhiên liệu, dự án xây dựng văn phòng đại diện Công ty dầu khí Sông Hồng, dự án Trung tâm thương mại Thành Phố Thái Bình, dự án Khách sạn 4 sao (thay thế KS Giao Tế cũ ), dự án dây truyền cán thép...

Các khu Công nghiệp của Tỉnh Thái Bình

    * Khu Công nghiệp Phúc Khánh, diện tích 300ha
    * Khu Công nghiệp Nguyễn Đức Cảnh, diện tích 102ha
    * Khu Công nghiệp Tiền Phong, diện tích 56ha
    * Khu Công nghiệp Tiền Hải, diện tích 128ha
    * Khu Công nghiệp Cầu Nghìn, diện tích 100ha

Ngoài các khu Công nghiệp trên, Chính phủ đã chấp nhận cho phát triển các khu Công nghiệp:

    * Khu Công nghiệp An Hoà, diện tích 400ha
    * Khu Công nghiệp Gia Lễ, diện tích 100ha
    * Khu Công nghiệp Đồng Tu, diện tích 50ha
    * Khu Công nghiệp Thanh Nê, diện tích 50ha
    * Khu Công nghiệp Diêm Điền, diện tích 100ha
    * Khu Công nghiệp Mỹ Xuyên, diện tích 100ha
    * Các điểm Công nghiệp tại các huyện, diện tích 235ha

Công ty Bất động sản Dầu khí đang lập kế hoạch đầu tư Khu Công Nghiệp Minh Hoà với diện tích 500ha và 40ha đô thị kèm theo chia làm 2 giai đoạn. Hiện nay đã hoàn thành quy hoạch 1/2000, năm 2010 triển khai hạ tầng, năm 2011 thu hút đầu tư

Tài nguyên

Các khoáng sản chính:

    * Khí mỏ: Thái Bình có mỏ khí đốt Tiền Hải đã được khai thác từ năm 1986 với sản lượng khai thác hàng năm vài chục triệu m³ khí thiên nhiên. Tháng 5, 6 năm 2003, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã tiến hành nổ địa chấn 3D lô 103/107 vịnh Bắc Bộ trữ lượng ước tính 7 tỷ m³.

   * Nước khoáng: Mỏ Tiền Hải ở độ sâu 450 m có trữ lượng khoảng 12 triệu m³, đã khai thác từ năm 1992, sản lượng 9,5 triệu lít với các nhãn hiệu nước khoáng Vital, nước khoáng Tiền Hải.
 
         o Nước khoáng nóng: Đã thăm dò và phát hiện ở xã Duyên Hải huyện Hưng Hà mỏ nước nóng 57 °C ở độ sâu 50 m và nước nóng 72 °C ở độ
sâu 178 m đang đầu tư khai thác phục vụ phát triển du lịch và chữa bệnh.

    * Than: Có than nâu thuộc bể than nâu vùng đồng bằng sông Hồng với trữ lượng 210 tỷ tấn ( lớn gấp 20 lần trữ lượng than tại Quảng Ninh). Hiện nay Tập đoàn than khoáng sản và Tỉnh Thái Bình đã ký kết thoả thuận phối hợp chỉ đạo và thực hiẹn một số nội dung quan trọng : Gia đoạn 2010 - 2015 triển khai địa chất 24 lỗ khoan, giai đoạn 2015 - 2020 khoan thăm dò địa chất 3600 lỗ khoan.

 Từ 2010 đầu tư thử nghiệm một số dự án khai thác than bằng công nghệ ngầm dưới lòng đất hoặc công nghệ hàm lò tại Tiền Hải và Thái Thụy, mỗi dự án có quy mô công suất 6triệu tấn / năm.

    * Công ty dầu khí Sông Hồng bắt đầu khoan thăm dò khai thác khí than tại giếng khoan Tiền Hải C-08 tại Xá Tây Ninh - Tiền Hải,giếng có độ sâu 1100m.

Giao thông

    * Đường bộ: Quốc lộ 10 sang Nam Định, quốc lộ 39 nối Hưng Yên - Diêm Điền và Hải Phòng; đường 217 sang Hải Dương.

    * Đường thuỷ: Cảng Diêm Điền là cảng quốc gia, đang đầu tư xây dựng để tàu 1000 tấn có thể ra vào.

    * Khởi công xây dựng Cầu Hiệp nối 2 tỉnh Thái Bình và Hải Dương, chiều dài cầu 542.5 m, khổ rộng 12m, tổng mức đầu tư 245.425 tỷ đồng, dự kiến hoàn thành năm 2010

    * Dự án xây dựng Cầu vượt sông Hồng và đường tuyến đường bộ nối 2 tỉnh Thái Bình, Hà Nam với đường cao tốc Cầu Giẽ - Ninh Bình

    * Dự án tuyến đường ôtô cao tốc ven biển đang đựoc chính phủ nghiên cứu khả thi, dự án tại Thái Bình qua 2 huyện : Thái Thụy và Tiền Hải

Văn hóa-xã hội

Giáo dục

Năm 2004, Thái Bình có 295 trường mầm non, 293 trường tiểu học, 276 trường trung học cơ sở, 39 trường trung học. Học sinh ba cấp tương ứng là: 140.967 - 141.004 - 58.848.

Top 100 trường PTTH hàng đầu Việt nam, Thái Bình có 3 trường: Trường Chuyên Thái Bình xếp hạng 21. Trường Nguyễn Du xếp hạng 78, Trường Nguyễn Đức Cảnh xếp hạng 87

Ngoài ra còn có trường đại học:

Đại học Y Thái Bình Thành lập ngày 23/7/1968 theo QĐ 114 / CP.Trường có 409 cán bộ giảng viên và trên 4000 sinh viên/năm.

Đại học Công nghiệp TPHCM - chi nhánh phía Bắc

Cao đẳng: sư phạm,Văn hoá nghệ thuật, Y tế, Sư phạm mầm non, Kinh tế kỹ thuật

Trung cấp và dạy nghề: Nông nghiệp (Quỳnh Côi), công nhân kỹ thuật, công nhân xây dựng, trường đóng tàu...

Văn hóa truyền thống

Có gần 82 lễ hội đặc sắc, 16 loại hát múa, trò chơi như: chiếu chèo "làng Khuốc", trò múa rối nước "làng Nguyễn" (Đông Hưng) và làng vườn Bách Thuận (Vũ Thư) v.v.

Phát triển mạnh du lịch văn hoá gắn với các lễ hội, giỗ tổ Đền Trần, tham quan chùa Keo, đền Đồng Bằng, đền Tiên La, du lịc sinh thái gắn với xây dựng Khu du lịch Cồn vành, Cồn Thủ, du lịch làng nghề (Đồng sâm, Nam Cao ...), du lịch biển (Đồng Châu)

- Từ ngày 14 tháng 10 đến ngày 16 tháng 10 năm 2009, tại Quảng trường 14 tháng 10 Thành phố Thái Bình diễn ra Ngày hội VHTT và DL các tỉnh đồng bằng sông Hồng lần thứ nhất

Di tích lịch sử

    * Chùa Chành
    * Chùa Keo được xây dựng từ thế kỷ 11 triều nhà Lý
    * Đền Tiên La
    * Đền Đồng Bằng
    * Từ đường Bùi Quang Dũng
    * Từ đường Nguyễn Tông Quai
    * Từ đường Lê Quý Đôn
    * Từ đường Ngô Quang Bích
    * Từ đường Bùi Viện

    * Các đền thờ, lăng mộ, nơi phát tích của nhà Trần tại huyện Hưng Hà.

    * Ngoài ra còn có các nhà thờ đạo thiên Chúa từ thờ Pháp (nhà thờ Bắc trạch tiền hải)

Danh nhân

    * Hoàng Văn Triệu (huyện Đông Hưng) là người đưa công nghiệp về Thái Bình.

    * Trần Thủ Độ (huyện Hưng Hà) là người có công sáng lập triều Trần.

    * Nguyễn Tông Quai (trước thường đọc là Nguyễn Tông Khuê, huyện Hưng Hà), là thầy học của Lê Quí Đôn, hai lần đi sứ nhà Thanh. Tác phẩm thi ca chính: Sứ Hoa tùng vịnh, Sứ trình tân truyện, Ngũ luân tự, Vịnh sử thi quyển. Được đánh giá là nhà thơ Nôm xuất sắc của thế kỉ 18, có đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển của thơ tiếng Việt, mở đường cho ra sự ra đời của Truyện Kiều và các tác phẩm thơ Nôm thế kỉ 19.
 
   * Lê Quý Đôn (huyện Hưng Hà), Bảng nhãn triều Lê-Trịnh, nhà bác học lớn của Việt Nam, tác giả của Vân Đài loại ngữ có tính chất bách khoa, Phủ biên tạp lục, Đại Việt thông sử (Lê triều thông sử), Quần thư khảo biện, Kiến văn tiểu lục, Toàn Việt thi lục 6 quyển, tuyển chọn 897 bài thơ của 73 tác giả từ thời Lý đến đời Lê Tương Dực, Toàn Việt thi lục, Quế Đường văn tập 4 quyển). Lê Quí Đôn thời trẻ có theo học thầy Nguyễn Tông Quai.

    * Quách Đình Bảo (quê xã Thái Phúc huyện Thái Thụy tỉnh [Thái Bình]). Ông đỗ Hoàng Giáp dưới thời vua Lê Thánh Tông và đóng góp lớn trong việc đi nhà Minh, bàn chuyện Chiêm Thành. Ông được phong Thượng thư bộ Lễ kiêm Tả xuân phường, Tả trung doãn, sau sang Thượng thư bộ Hình. Ông có những đóng góp lớn lao của ông trong chiến lược dùng người tài quốc gia. Ông là một thành viên tích cực và là một trong 28 vì tinh tú của Hội Tao Đàn.

    * Chu Đình Ngạn (được vua Lê ban họ, nên sử chép là Lê Đình Ngạn, người làng Trình Phố huyện Kiến Xương trước đây, nay là Trình Nhất xã An Ninh huyện Tiền Hải). Tướng quân dưới triều Lê, có công lập ra làng Trình Phố và phong tục họp chợ Giếng vào Tết âm lịch hàng năm (đến nay, tức năm 2006, qua mấy trăm năm, vẫn được tổ chức).

    * Ngô Quang Bích (sử chép là Nguyễn Quang Bích, người làng Trình Phố huyện Kiến Xương trước đây, nay là Trình Nhất xã An Ninh huyện Tiền Hải). Đỗ Hoàng giáp triều Nguyễn, (là học trò của tiến sĩ Doãn Khuê), Thượng thư bộ Lễ, Hiệp thống Bắc kỳ quân vụ đại thần, Sơn phòng sứ Hưng Hóa (Phú Thọ). Văn thân chống Pháp tại Phú Thọ, đồng thời là một nhà thơ.

    * Bùi Viện (người cùng làng với Nguyễn Quang Bích, tức làng Trình Phố huyện Kiến Xương trước đây, nay là Trình Trung xã An Ninh huyện Tiền Hải). Với sự tiến cử của Doãn Khuê, ông đã có công xây dựng Ninh Hải (lúc đó thuộc Hải Dương) thành hải cảng trọng yếu, vào cuối thời Tự Đức, với cái tên mới là Hải Phòng (Hải trấn phòng thủ). Ông là một trong những nhà cải cách xã hội hiếm hoi cuối thế kỷ XIX ở Việt Nam, đặc biệt là trong lực lượng hải quân nhà Nguyễn, ông còn là nhà ngoại giao - sứ thần Việt Nam đầu tiên đến Mỹ.)

    * Hoàng Văn Thái (huyện Tiền Hải, Đại tướng. Sinh trưởng ở làng An Khang, là làng ở ngay bên cạnh làng Trình Phố nói trên)

    * Phạm Tuân (huyện Kiến Xương, Anh hùng, người Việt Nam đầu tiên bay vào vũ trụ, và có công đầu trong việc hạ máy bay B52 của Mĩ. Cựu học sinh trường cấp ba Tây Tiền Hải)

    * Nguyễn Mậu Kiến (huyện Kiến Xương, Chí sĩ chống Pháp)

    * Doãn Uẩn (làng Ngoại Lãng, Song lãng, huyện Vũ Thư, An tây mưu lược tướng, cùng An tây trí dũng tướng Nguyễn Tri Phương đánh thắng Xiêm la (Thái Lan), bình định Cao Miên, giữ yên bờ cõi tây nam, năm 1845. Binh bộ thượng thư, được phong tước Tuy Tĩnh tử, Tổng đốc An Hà (Hà Tiên và An Giang) năm 1847 đến 1850.)

    * Doãn Khuê (làng Ngoại Lãng, Song lãng, Vũ Thư, em họ của Doãn Uẩn. Ông đỗ tiến sĩ triều Nguyễn năm 1838, Đốc học Nam Định kiêm Doanh điền sứ và Hải phòng sứ, cùng Nguyễn Mậu Kiến, là những người đầu tiên lãnh đạo chống Pháp (năm 1873) trên địa bàn tỉnh Thái Bình hiện nay.)

    * Vũ Ngọc Nhạ (Nhà tình báo)
 
   * Bút Ngữ (huyện Vũ Thư, Nhà văn, tác giả bài ca dao mới "Làm mưa" in trong sách tiểu học, và các tiểu thuyết hay tập truyện ngắn như "Pháo đài đồng bằng", "Chuyện ở xóm chài", "Những ngày nước cường". Cũng như Chu Văn (tác giả của tiểu thuyết "Bão biển"), ông là một trong những nhà văn lớn hoạt động tại địa phương của vùng Thái Bình - Nam Định thời xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc trước đây. Nguyên Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Thái Bình)

    * Nguyễn Bảo (Nhà thơ)

    * Lâm Đức Thụ (huyện Kiến Xương, tức Nguyễn Công Viễn, là đồng chí hoạt động cùng Nguyễn Ái Quốc tại Trung Quốc, mất năm 1949 tại quê nhà)

    * Nguyễn Thị Chiên (huyện Kiến Xương, Anh hùng tay không bắt sống giặc Pháp)

    * Thiều Chửu Nguyễn Hữu Kha (Tu sĩ, nhà nghiên cứu Hán học và Phật học, tác giả của từ điển nổi tiếng "Từ điển Hán Việt Thiều Chửu", mất trong cách mạng ruộng đất)

    * Lại Ngọc Cang (nhà nghiên cứu văn học, đặc biệt là văn học Hán Nôm, như Truyện Kiều, Hoa tiên..., ông tự vẫn)

    * Nguyễn Hữu Đang (huyện Kiến Xương, chiến sĩ cách mạng, là trưởng ban tổ chức ngày tuyên bố độc lập 2/9/1945 khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau vì liên quan đến vụ án Nhân văn Giai phẩm mà bị treo bút, giam lỏng trong mấy chục năm liền. Nay đã được khôi phục, đánh giá lại trong tinh thần đổi mới).

    * Trần Độ (huyện Tiền Hải, Trung tướng, nhà văn, nhà hoạt động dân chủ)

    * Nguyễn Đức Cảnh (huyện Thái Thụy, chiến sĩ cách mạng)

    * Đặng Kim Giang (huyện Kiến Xương, Thiếu tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam, nguyên là Phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Quân đội Nhân dân Việt Nam. Là chủ nhiệm cung cấp, một trong bốn thành viên của Bộ chỉ huy và Đảng ủy Mặt trận Điện Biên. Chịu trách nhiệm đảm bảo quân lương, súng đạn cho chiến dịch Điện Biên Phủ.)
 
   * Tạ Minh Sơn (huyện Thái Thuỵ, Thái Bình) PGS. Tiến Sĩ Tạ Minh Sơn, Ngày tháng năm sinh: 10/12/1945. ông nguyên lạ viện trưởng Viện KHKT Nông nghiệp Việt Nam

    * Vua Bếp Nghệ Nhân Đinh Bá Châu ông là người được ví là vua bếp của Việt Nam

    * Vũ Văn Tiền quê Tiền Hải, Thái Bình được cho là một trong những người giàu nhất Việt Nam hiện nay, ông là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình, Tổng Giám đốc Cty XNK thương mại GELEXIMCO

    * Vũ Quang Hội, ông cũng được cho là một trong những người giàu nhất Việt Nam hiện nay, Chủ tịch Hội đồng thành viên Công ty TNHH Sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh Bitexco, chủ các toà nhà The Manor, The Garden, Tòa nhà Financial Tower...

27 tháng 2 2019

Vì dao ở đó khá bén nên thái rất phê

Theo Tôi bít ở đóa còn làm gốm,đặc sản là bình

Từ đó suy ra tỉnh thái bình

#Kẹt#

Hok tốt