Đề số 7
ĐỀ 36
I. ĐỌC HIỂU
Đọc câu chuyện sau và thực hiện các yêu cầu:
BẠN ĐỂ LẠI GÌ CHO CUỘC SỐNG
Giáo sư dạy môn triết của tôi rất lập dị. Chiếc áo khoác len dày đã sờn cùng cặp kính dày cộm xệ xuống tận chóp mũi, che gần hết khuôn mặt, càng làm nổi bật vẻ bề ngoài bê bối của thầy.
Thỉnh thoảng thầy hay khai mào cuộc thảo luận về các để tài chẳng mấy ai quan tâm, đại khái như “Ý nghĩa cuộc sống là gì?”. Phần lớn những cuộc thảo luận đó không đi đến kết luận rõ ràng nhưng cũng có khi chúng gây tác động mạnh. Chẳng hạn như câu chuyện tôi sắp kể ra đây.
- Em nào trả lời câu hỏi của thầy thì giơ tay lên – thầy nói với cả lớp – Ai có thể kể về cha mẹ mình?
Mọi người đều giơ tay.
Ai có thể kể về ông bà mình? – Khoảng ba phần tư lớp giơ tay.
Vậy em nào có thể kể về ông bà cố của mình? – Chỉ hai trong số 60 sinh viên giơ tay.
- Giờ thì các em hãy suy nghĩ kĩ nào – thầy bảo. – Chỉ mới cách có hai thế hệ mà rất ít người biết cụ tổ của mình là ai. Có thể các em từng thấy một bức ảnh cũ kĩ phai màu được cất kĩ trong hộp thuốc lá mốc mẹ, hay đã nghe kể một câu chuyện tiêu biểu về gia tộc mình, và biết có người trong tổ tiên mình đã lội bộ năm dặm đường để đến trường. Nhưng mấy người trong các em thật sự biết tổ tiên mình là ai, các cụ nghĩ gì, hãnh diện, lo sợ hay mơ ước điều gì. Các em thử nghĩ xem. Chỉ trong vòng ba thế hệ thôi mà các bậc tiền nhân đều đã bị lãng quên. Vậy liệu điều đó có xảy đến với các em sau này không?
Để thầy nêu câu hỏi cụ thể hơn cho các em. Các em thử tưởng tượng ra ba thế hệ sau mình. Lúc ấy các em đã là người thiên cổ lâu rồi. Chỗ các em ngồi đây giờ sẽ là chỗ của các chít chắt. Liệu chúng có biết gì về các em không? Hay là các em cũng sẽ chìm sâu sau dĩ vãng?
Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thế hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào? Sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của các em. Thôi bây giờ lớp chúng ta nghỉ.
Nhưng không ai trong lớp chúng tôi đứng ngay dậy và ùa về như mọi khi. Mọi người đều ngồi lại và suy nghĩ về lời thầy nói.
(Dẫn theo http://www.chiase123.com)
Câu 1. Cách nêu vấn đề của thầy giáo hấp dẫn và thông minh như thế nào?
Câu 2. Anh (chị) hiểu như thế nào về câu nói: “Hay là các em cũng sẽ chìm sâu trong dĩ vãng?”
Câu 3. Theo anh (chị) vì sao thầy giáo lại nói với học sinh của mình rằng: Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thế hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào?
Câu 4. Bài học ý nghĩa nhất đối với bản thân anh (chị) sau khi đọc câu chuyện trên là gì?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1. (2 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu hỏi mà người thầy giáo đặt ra cho học trò của mình trong văn bản được dẫn ở phần Đọc hiểu trên: Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thế hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào?
Câu 2 (5 điểm)
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lớn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở nhà cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này thì đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình. Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi. Lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi “Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vuijt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ Văn 12, tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr. 13, 14)
Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích trên và trình bày suy nghĩ về ý nghĩa nhân đạo của tình huống truyện này.
ĐỀ 36
I. ĐỌC HIỂU
Đọc câu chuyện sau và thực hiện các yêu cầu:
BẠN ĐỂ LẠI GÌ CHO CUỘC SỐNG
Giáo sư dạy môn triết của tôi rất lập dị. Chiếc áo khoác len dày đã sờn cùng cặp kính dày cộm xệ xuống tận chóp mũi, che gần hết khuôn mặt, càng làm nổi bật vẻ bề ngoài bê bối của thầy.
Thỉnh thoảng thầy hay khai mào cuộc thảo luận về các để tài chẳng mấy ai quan tâm, đại khái như “Ý nghĩa cuộc sống là gì?”. Phần lớn những cuộc thảo luận đó không đi đến kết luận rõ ràng nhưng cũng có khi chúng gây tác động mạnh. Chẳng hạn như câu chuyện tôi sắp kể ra đây.
- Em nào trả lời câu hỏi của thầy thì giơ tay lên – thầy nói với cả lớp – Ai có thể kể về cha mẹ mình?
Mọi người đều giơ tay.
Ai có thể kể về ông bà mình? – Khoảng ba phần tư lớp giơ tay.
Vậy em nào có thể kể về ông bà cố của mình? – Chỉ hai trong số 60 sinh viên giơ tay.
- Giờ thì các em hãy suy nghĩ kĩ nào – thầy bảo. – Chỉ mới cách có hai thế hệ mà rất ít người biết cụ tổ của mình là ai. Có thể các em từng thấy một bức ảnh cũ kĩ phai màu được cất kĩ trong hộp thuốc lá mốc mẹ, hay đã nghe kể một câu chuyện tiêu biểu về gia tộc mình, và biết có người trong tổ tiên mình đã lội bộ năm dặm đường để đến trường. Nhưng mấy người trong các em thật sự biết tổ tiên mình là ai, các cụ nghĩ gì, hãnh diện, lo sợ hay mơ ước điều gì. Các em thử nghĩ xem. Chỉ trong vòng ba thế hệ thôi mà các bậc tiền nhân đều đã bị lãng quên. Vậy liệu điều đó có xảy đến với các em sau này không?
Để thầy nêu câu hỏi cụ thể hơn cho các em. Các em thử tưởng tượng ra ba thế hệ sau mình. Lúc ấy các em đã là người thiên cổ lâu rồi. Chỗ các em ngồi đây giờ sẽ là chỗ của các chít chắt. Liệu chúng có biết gì về các em không? Hay là các em cũng sẽ chìm sâu sau dĩ vãng?
Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thế hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào? Sự lựa chọn hoàn toàn tùy thuộc vào quyết định của các em. Thôi bây giờ lớp chúng ta nghỉ.
Nhưng không ai trong lớp chúng tôi đứng ngay dậy và ùa về như mọi khi. Mọi người đều ngồi lại và suy nghĩ về lời thầy nói.
(Dẫn theo http://www.chiase123.com)
Câu 1. Cách nêu vấn đề của thầy giáo hấp dẫn và thông minh như thế nào?
Câu 2. Anh (chị) hiểu như thế nào về câu nói: “Hay là các em cũng sẽ chìm sâu trong dĩ vãng?”
Câu 3. Theo anh (chị) vì sao thầy giáo lại nói với học sinh của mình rằng: Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thế hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào?
Câu 4. Bài học ý nghĩa nhất đối với bản thân anh (chị) sau khi đọc câu chuyện trên là gì?
II. LÀM VĂN (7 điểm)
Câu 1. (2 điểm)
Viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ) trình bày suy nghĩ của anh (chị) về câu hỏi mà người thầy giáo đặt ra cho học trò của mình trong văn bản được dẫn ở phần Đọc hiểu trên: Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thế hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào?
Câu 2 (5 điểm)
Những đêm mùa đông trên núi cao dài và buồn, nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Mỗi đêm, Mị đã dậy ra thổi lửa hơ tay, hơ lưng, không biết bao nhiêu lần.
Thường khi đến gà gáy sáng Mị ngồi dậy ra bếp sưởi một lúc thật lâu thì các chị em trong nhà mới bắt đầu dậy ra dóm lò bung ngô, nấu cháo lớn. Chỉ chợp mắt được từng lúc, Mị lại thức sưởi lửa suốt đêm. Mỗi đêm, khi nghe tiếng phù phù thổi bếp, A Phủ lại mở mắt. Ngọn lửa sưởi bùng lên, cùng lúc ấy thì Mị cũng nhìn sang, thấy mắt A Phủ trừng trừng, mới biết A Phủ còn sống. Mấy đêm nay như thế. Nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa, hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi. Mị vẫn trở dậy, vẫn sưởi, chỉ biết chỉ còn ở với ngọn lửa. Có đêm A Sử chợt về, thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp. Nhưng đêm sau Mị vẫn ra sưởi như đêm trước.
Lúc ấy đã khuya. Trong nhà đã ngủ yên thì Mị trở dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại. Nhìn thấy tình cảnh như thế, Mị chợt nhớ lại đêm năm trước A Sử trói Mị, Mị cũng phải trói đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ, không biết lau đi được. Trời ơi, nó bắt trói đứng người ta đến chết, nó bắt mình chết cũng thôi, nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở nhà cái nhà này. Chúng nó thật độc ác. Cơ chừng này thì đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết. A Phủ… Mị phảng phất nghĩ như vậy.
Đám than đã vạc hẳn lửa. Mị không thổi, cũng không đứng lên. Mị nhớ lại đời mình. Mị lại tưởng tượng như có thể một lúc nào, biết đâu A Phủ chẳng đã trốn được rồi. Lúc ấy bố con Pá Tra sẽ bảo là Mị đã cởi trói cho nó, Mị liền phải trói thay vào đấy, Mị phải chết trên cái cọc ấy. Nghĩ thế, trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ…
Lúc ấy, trong nhà đã tối bưng, Mị rón rén bước lại, A Phủ vẫn nhắm mắt nhưng Mị tưởng như A Phủ đương biết có người bước lại… Mị rút con dao nhỏ cắt lúa, cắt nút dây mây. A Phủ cứ thở phè từng hơi, không biết mê hay tỉnh. Lần lần, đến lúc gỡ được hết dây trói ở người A Phủ thì Mị cũng hốt hoảng. Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay…”, rồi “Mị nghẹn lại. A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Nhưng trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên, chạy.
Mị đứng lặng trong bóng tối.
Rồi Mị cũng vuijt chạy ra. Trời tối lắm. Nhưng Mị vẫn băng đi. Mị đuổi kịp A Phủ, đã lăn, chạy, chạy xuống tới lưng dốc, Mị nói, thở trong hơi gió thốc lạnh buốt:
- A Phủ cho tôi đi.
A Phủ chưa kịp nói, Mị lại nói:
- Ở đây thì chết mất.
A Phủ chợt hiểu.
Người đàn bà chê chồng đó vừa cứu sống mình.
A Phủ nói: “Đi với tôi”. Và hai người lẳng lặng đỡ nhau lao chạy xuống dốc núi.
(Trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài, Ngữ Văn 12, tập hai,
NXB Giáo dục Việt Nam, 2015, tr. 13, 14)
Phân tích diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đoạn trích trên và trình bày suy nghĩ về ý nghĩa nhân đạo của tình huống truyện này.
ĐÁP ÁN
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1. Thầy giáo nêu một vấn đề tưởng chừng như rất đơn giản: yêu cầu học trò kể về những người thân của mình theo thứ tự thế hệ ngày một xa hơn.
Theo quy luật: cái gì càng lùi xa vào quá khứ, càng ít xuất hiện trong trí nhớ và cảm xúc của mỗi chúng ta, trừ khi cái đó rất đặc biệt. Từ câu chuyện đó, thầy giáo để học sinh tự nhận ra cách sống sao cho sâu sắc và ý nghĩa.
Câu 2. Câu nói: “Hay là các em cũng sẽ chìm sâu trong dĩ vãng?” của người thầy đặt trong văn cảnh của câu chuyện có nghĩa là nếu các em không “sống” một cuộc sống “có ý nghĩa”, cuộc đời không để lại một giá trị gì thì cũng sẽ rất nhanh chóng bị lãng quên.
Câu 3. Thầy giáo nói với học sinh: “Các em muốn cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu hay là tấm gương soi sáng cho các thế hệ sau? Các em sẽ để lại di sản nào?” là hàm ý nhắc nhở học trò của mình phải xác định rõ mục đích sống, không được sống một cuộc sống nhạt nhẽo, vô nghĩa vì mỗi người chỉ có một cuộc đời để sống.
Câu 4. Bài học ý nghĩa nhất là phải có mục đích sống rõ ràng, phải sống một cuộc đời có giá trị.
II. LÀM VĂN
Câu 1.
a. Yêu cầu về hình thức:
- Viết đúng một đoạn văn khoảng 200 chữ.
- Trình bày mạch lạc, rõ ràng, không mắc lỗi chính tả, dùng từ, đặt câu,…
b. Yêu cầu về nội dung:
Đoạn văn có thể triển khai theo hướng:
* Giải thích:
- Cuộc sống của mình hiện thời sẽ là dấu hiệu báo điềm xấu: mọi việc làm của ngày hôm nay đều sẽ cho kết quả tương ứng của mai sau. Cuộc sống nhạt nhẽo vô nghĩa của bạn hiện tại sẽ khiến bạn nhanh chóng bị lãng quên khi bạn mất đi.
- Bạn… là tấm gương soi cho các thế hệ sau: bạn sống một cuộc sống có ý nghĩa, có giá trị sẽ luôn được người sau nhắc và nhớ đến, đồng thời đó cũng là cách để mỗi người hoàn thành tốt đẹp nhất sứ mệnh tồn tại trên trái đất này.
- Ý nghĩa của cả câu: mỗi người cần xác định mục đích sống cho mình, hơn nữa, phải là những mục đích sống tốt đẹp, giá trị và ý nghĩa.
* Phân tích:
- Giá trị sống là giá trị của chính mình. Vì không có mình thì làm gì có cuộc sống! Bàn về giá trị cuộc sống là bàn về chính ta với các câu hỏi như: Ta là gì? Ta phải làm gì để sống cho đúng một con người?... Và khi sống mà ta được nhiều người kính trọng, quý mến và noi gương thì tức là ta đã xác định và thể hiện được các giá trị sống.
- Mỗi người cần phải xác định: “Mình sống để làm gì?”. Diderot đã nói: “Nếu không có mục đích, anh không làm được điều gì cả. Anh cũng không làm được điều gì vĩ đại nếu mục đích của anh tầm thường”. Chỉ khi có mục đích sống rõ ràng thì cuộc sống mới không bị rơi vào bế tắc, chán chường và nhạt nhẽo. Có mục đích sống ý nghĩa rồi, cuộc sống sẽ càng giá trị hơn nếu bạn theo đuổi nó bằng chính năng lực của bản thân, bằng những con đường tốt đẹp.
- Thực tế ngày nay, khá nhiều bạn trẻ không xác định được mục đích sống, cứ để cuộc sống của mình trôi vô định, mặc cho dòng đời xô đẩy. Đó là những người để cuộc đời làm chủ mình chứ không phải mình làm chủ cuộc đời. Họ sống vội vã, mất phương hướng và bế tắc.
* Bài học:
- Mục đích sống không tự nhiên mà có, nó là kết quả của một quá trình trải nghiệm lâu dài.
- Người trẻ phải sống trải nghiệm ở nhiều ngõ ngách của cuộc đời, càng gặp nhiều biến cố thì càng mau nhận ra mục đích sống của mình. Thế nên đừng từ chối cơ hội được thử mình, đừng quá sợ hãi thất bại.
- Hãy sống dấn thân nhưng phải có lí tưởng rõ ràng.
- Hãy sống cho bản thân, cho người thân, bạn bè và cho tất cả mọi người. Như vậy, cuộc đời sẽ viên mãn và ý nghĩa.
Câu 2. Dàn ý
I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm dẫn vào yêu cầu của đề. Ví dụ:
- Tô Hoài là một trong những nhà văn xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại. Ông sớm nổi tiếng với Dế Mèn phiêu lưu ký và sau này là các tác phẩm viết về nhân dân các dân tộc Tây Bắc.
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ viết về sự vùng dậy của đồng bào Mông Tây Bắc thông qua cuộc đời cô Mị và chàng trai A Phủ.
- Đoạn trích miêu tả tâm trạng của Mị khi cởi trói cho A Phủ là một trong những đoạn văn hay nhất của thiên truyện. Nó thể hiện tập trung giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
II. Thân bài
1. Khái quát:
a. Vị trí, xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
b. Giá trị nội dung, nghệ thuật
c. Những chi tiết quan trọng ở phần đầu của câu chuyện dẫn đến tình huống truyện Mị cởi trói cho A Phủ rồi cùng chạy trốn:
- Mị là một cô gái xinh đẹp, chăm chỉ, hiếu thảo nhưng nhà nghèo.
- Mị trở thành con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra, chịu nhiều đau khổ, toan dùng lá ngón để tự tử.
- Tưởng chừng con người yêu đời, trẻ trung trong Mị đã chết, thế nhưng trong những đêm tình mùa xuân, con người khao khát tình yêu của Mị đã sống dậy. Nhưng rồi, nó lại bị bàn tay tàn ác của A Sử dập vùi.
- Mị tình cờ gặp A Phủ - một người cùng cảnh ngộ. A Phủ cũng là một nô lệ gạt nợ như Mị. A Phủ cũng bị đày đọa (đánh mất bò, A Phủ bị trói đứng vào cột, chỉ chờ chết)
d. Cảm nhận chung
2. Cụ thể
a. Phân tích diễn biến Mị trong đêm cởi trói cứu A Phủ:
- Ban đầu, Mị vẫn “thản nhiên thổi lửa hơ tay”, không có cảm xúc gì, dù đêm nào Mị cũng ra sưởi và nhìn thấy cảnh A Phủ bị trói. Bởi Mị đã quen với cái khổ của chính mình và của người khác. Tâm hồn Mị dường như vô cảm, chai cứng trở lại: “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi”.
- Nhưng rồi trong một đêm, nhìn “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ, Mị đã bồi hồi nhớ về quá khứ (ngày trước Mị cũng bị trói đứng thế kia). Mị cảm thấy sự độc ác của lũ chúa đất. Mị động lòng thương: “chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Mị tự nhủ: “Người kia việc gì mà phải chết”.
- Mị tưởng tượng, nhớ lại đời mình và nghĩ rằng nếu mình cởi trói cho A Phủ thì Mị liền bị trói thay vào đấy… Băn khoăn nhưng rồi Mị quyết định cắt dây trói cứu A Phủ: Mị lặng lẽ cắt nút dây mây, gỡ hết dây thì hốt hoảng giục A Phủ “đi ngay”, rồi Mị nghẹn lại “đứng lặng trong bóng tối”.
- Trong phút chốc, Mị vụt chạy, đuổi kịp A Phủ. Mị sợ. Mị chạy theo A Phủ bởi cô hiểu rằng: “Ở đây thì chết mất”.
b. Nhận xét:
- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cắt dây trói cứu A Phủ khá phức tạp.
- Mị vừa thờ ơ, lãnh đạm, vừa thương thân phận mình vừa thương A Phủ. Mị cũng căm giận nhà thống lí độc ác. Mị vừa lo sợ nghĩ đến cái chết, vừa muốn cứu A Phủ. Tất cả những biểu hiện tâm lí và hành động của Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ đều phù hợp với hoàn cảnh và tính năng của Mị. Chính tình huống truyện này càng khẳng định tài năng nghệ thuật của Tô Hoài trong việc thống nhất giữa chân lí nghệ thuật và chân lí đời sống.
c. Ý nghĩa nhân đạo của tình huống truyện:
- Diễn biến tâm lí của Mị cho thấy cô gái Mông đã dũng cảm vượt lên trên hoàn cảnh, vượt lên trên nỗi sợ hãi để hành động theo tình thương. Hành động của Mị thể hiện tình thương yêu thương con người, sự đồng cảm. Đó là lòng “Thương người như thể thương thân” trong truyền thống của người Việt.
- Ca ngợi khát vọng tự do, khát vọng sống cho mình và cho người khác ở nhân vật Mị. Đó chính là sức mạnh để cứu Mị, giải thoát cho A Phủ khỏi gông xiềng nô lệ. Khát vọng sống của Mị là vẻ đẹp trong tâm hồn của người con gái Mông Tây Bắc.
- Tình huống truyện khẳng định một chân lí đơn giản mà rất sâu sắc: trong xã hội cũ, chỉ bằng tình thương người không thôi thì chưa đủ để giải phóng cho họ. Tình thương người nghèo khổ bị áp bức phải được thể hiện qua sức mạnh, qua hành động để cứu họ, giải thoát cho họ. Chính vì vậy, sang phần sau của truyện, cuối tác phẩm, Mị và A Phủ đã là những chiến sĩ du kích trong phong trào giải phóng Phiềng Sa, giải phóng Tây Bắc.
III. Kết bài