K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

3 tháng 3 2016

DÀN Ý

  a/ Là cô gái trẻ , đẹp , tài hoa :

Thổi sáo giỏi, thổi kèn cũng hay như thổi sáo .

Có bao nhiêu người mê, ngày đêm đi theo Mỵ  “đứng nhẵn vách buồng nhà Mỵ”

->  Mỵ có đủ phẩm  chất được  sống hạnh phúc . Tâm hồn Mỵ đầy ắp hạnh phúc , ước mơ.

b/ Là cô gái có số phận bất hạnh :

Vì  bố mẹ không trả nổi tiền thống lí Pá Tra – Mỵ phải trở thành con dâu gạt nợ chịu tủi nhục , cực khổ .

Bị đối xử chẳng khác nào nô lệ , bị đánh đập , trói đứng cả đêm , suốt ngày quần quật làm việc      à Mỵ tưởng mình là con trâu , con ngựa .

Mất hết cảm giác, thậm chí mất hết ý thức sống, sống mà như đã chết“lúc nào mặt cũng buồn rười rượi”.

Không mong đợi điều gì , cũng chẵng còn ý niệm về thời gian , không gian . “suốt ngày lùi lũi như con rùa xó cửa” ->  thân phận nghèo khổ bị áp bức . Cái buồng Mỵ ở kín mít ,cửa sổ “lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào trông ra cũng thấy trăng trắng ,không biết là sương hay nắng”  à căn buồng Mỵ gợi không khí nhà giam .

c/ Sức sống tiềm tàng , khát vọng hạnh phúc của MỴ :

    -   Lần 1 : lúc mới làm con dâu gạt nợ .

*  Mỵ định ăn lá ngón tự tử ( ý thức về đời sống tủi nhục của mình) à không chấp nhân cuộc sống đó .

*   Tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát , là khẳng định lòng ham sống ,khát vọng tự do của mình

  -     Lần 2 : trong đêm tình mùa xuân .

Lòng ham sống ,niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi được đánh thức .

Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những ngày tháng tươi đẹp trong quá khứ .Mỵ lấy rượu ra uống “ ừng ực từng bát một” –như uống những khao khát , ước mơ ,căm hận vào lòng . Mỵ cảm thấy “phơi phới đến góc nhà lấy ống mỡ , xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”à thắp sáng niềm tin ,giã từ bóng tối . Mỵ lấy váy áo định đi chơi nhưng ngay lập tức bị A Sử ûtrói vào cột nhà, nhưng vẫn thả hồn theo cuộc vui .

 -   Lần 3 : cởi trói cho A Phủ .

Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị hành hạ có nguy cơ chết , lúc đầu Mỵ không quan tâm “dù A Phủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi”.

 Nhưng thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại” của A Phủ. Mỵ xúc động , thương mình, thương người .   à Mỵ quyết định cởi trói A Phủ.

 Đứng lặn trong bóng tối , rồi chạy theo A Phủ cùng trốn khỏi Hồng Ngài à hành động mang tính tự phát . 

Quá trình phát triển tính cách phong phú , phức tạp . Cởi trói cho A Phủ cũng chính là cởi trói cho cuộc đời mình .  Chấp nhận cuộc sống trâu ngựa và khao khát được sống cuộc sống con người , nhẩn nhục và phản kháng là hai mặt mâu thuẫn trong con người Mỵ ,  Cuối cùng tinh thần phản kháng , khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng .

     Giá trị tư tưởng , nhân đạo của tác phẩm :

-         Phản ánh cuộc sống cơ cực , bị đè nén bởi áp bức nặng nề của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn phong kiến câu kết thực dân Pháp .

-        Mở ra lối thoát cho nhân vật vùng lên làm CM, xóa bỏ chế độ PK – gắn cuộc đấu tranh tự giải phóng cá nhân với cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp , giải phóng dân tộc.

   Nghệ thuật :

    Đậm đà màu sắc dân tộc   .

-     Khắc họa bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ  thơ mộng với phong tục độc đáo,  hình ảnh người dân TB hồn nhiên chân thật .

-    Thành công trong việc xây dựng nhân vật , diễn biến tâm lý phức tạp .

* Qua việc khắc họa nhân vật Mỵ , Tô Hoài tố cáo chế đ6ï PK miền núi ,ca ngợi phẩm chất cao đẹp của người vùng cao nói chung ,của thanh niên Mèo nói riêng .Họ biết yêu cái đẹp , cái lẽ phải để rồi vượt lên tìm lại chính mình .

* Sức sống của nhân vật Mỵ được Tô Hoài khắc họa hết sức tài tình , độc đáo . Từ một con người dường như bị mất hết quyền làm người , tâm hồn Mỵ dường như không còn tồn tại . Thế nhưng , với một nghị lực phi thường , một lòng ham sống mãnh liệt ,Mỵ đã tìm thấy` hạnh phúc cho bản thân , dám đấu tranh với những thử thách để rồi vượt qua.  Nguyễn Khải đã từng triết lý “hạnh phúc bắt nguồn từ những hi sinh gian khổ . Ở đời không co ùcon đường cùng mà chỉ có những ranh giới . Điều quan trọng là phải có sức mạnh để vượt qua thử thách đó”.

 

11 tháng 3 2016

1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhân vật Mỵ, đặc biệt nhấn mạnh nghệ thuật miêu tả tâm lý của Tô Hoài => Đi vào phân tích tâm lý của Mỵ trong đêm cởi trói cho A Phủ.

2. Giới thiệu về A Phủ và sự việc A Phủ bị trói.

            - A Phủ là một người nông dân nghèo, vì tội đánh con quan nên bị bắt về làm nô lệ nhà thống lý.

            - A Phủ chăn bò và để hổ ăn thịt mất một con bò nên bị thống lý bắt trói đứng vào cột mấy ngày liền.

3. Giới thiệu nỗi cô đơn, tủi nhục của Mỵ:

            - Cô đơn: Làm bạn với ngọn lửa.

            - Tủi nhục: Nhiều lần bị A Sử đánh khi ngồi sưởi ấm.

            - A Phủ bị trói gần nơi bếp lửa của Mỵ.

4. Tâm trạng ban đầu của Mỵ trước việc A Phủ bị trói

            - Mỵ vẫn thản nhiên . Dẫu A Phủ là cái xác chất đứng đấy cũng thế thôi -> Có lẽ vì cảnh trói người ở nhà thống lý diễn ra thường xuyên. Mỵ không buồn bận tâm.

5. Tâm trạng khi nhìn thấy một dòng nước mắt bò xuống má A Phủ:

            - Mỵ nhớ lại quá khứ, việc mình cũng bị trói => Đồng cảnh => đồng cảm sâu sắc.

            - Mỵ nghĩ nhiều đến cái chết:

            + Có một người đàn bà từng bị trói đến chết.

            + Người kia nay mai phải chết.

            + Ta là thân đàn bà ... đợi ngày rũ xương ở đây thôi.

            + Biết đâu A Phủ trốn thoát, Mỵ bị trói thay đến chết

            => Cái chết trở thành nỗi ám ảnh và vì thế Mỵ rơi vào trạng thái sợ hãi.

6. Đằng nào Mỵ cũng chết và lập tức sau đó Mỵ lựa chọn cái chết có nghĩa, chết vì tình thương ( chứ không phải chết vì con ma nhà thống lý, càng không phải chết oan, chết bị trói thay). Điều này khiến Mỵ quyết định cởi trói cho A Phủ.

7. Hành động cởi trói:

- Mỵ lấy dao cắt lúa cắt nút dây mây.

            => Tình thương chiến thắng nỗi sợ hãi.

            => Hành động này mang ý nghĩa là sự giải thoát cho đồng loại

8. Hành động chạy theo A Phủ:

            => Mang ý nghĩa là sự tự giải thoát, thể hiện khát vọng sống mạnh mẽ của Mỵ.

9. Đánh giá chung:

            - Thông qua diễn biến tâm lý và hành động của Mỵ trong đêm cởi trói cho A Phủ tác giả phát hiện ra sức sống tiềm tàng, mãnh liệt của Mỵ.Điều này góp phần thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của tác phẩm.

            + Lên án chính sách cai trị đọc ác, dã man của bọ địa chủ vùng rừng núi Tây Bắc.

            + Cảm thông và chia sẽ trước đời sống tủi nhục của người nô lệ.

            + Đề cao những phẩm chất và khát vọng của người nông dân - nô lệ và vạch ra con đường đấu tranh tự giải phóng đến với cách mạng của họ.

18 tháng 3 2016

1.  Tình cảnh của Mỵ bị bắt làm dâu trừ nợ:

- Do bố Mỵ mắc nợ của nhà giàu, Mỵ bị thống lý Pátra bắt làm con dâu gạt nợ.

- Khi bị trở thành cô con dâu gạt nợ, cuộc sống địa ngục của nhà tên chúa đất PáTra đã biến cô từ một cô gái hồn nhiên với bao ước mơ thành một nô lệ, lầm lũi, cam chịu, thành một con vật trong nhà thống lý: “ Mỗi ngày mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa” Thậm chí nhiều khi cô không bằng con vật, sống như chết.

            - Trong tình trạng sống như chết ấy, Tô Hoài đã phát hiện ra sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mỵ.  Điều này thể hiện như sau:

2.  Mỵ định tự tử:

            - Mỵ cầm nắm lá ngón trên tay về gặp cha để rồi chất.  Nhưng vì thương cha, Mỵ không chết, Mỵ ném nắm lá ngón xuống đất, Mỵ quay trở lại nhà thống lý chấp nhận cuộc đời nô lệ, đợi ngày rũ xương ở đây.

=> Hành động muốn tự tử thể hiện khát vọng sống, sống một cách tự do, hạnh phúc ở Mỵ.  Đó là biểu hiện thứ nhất về sức sống tiềm tàng ở Mỵ.

3. Trong cái đêm tình mùa xuân:

            - Nổi bật nhất ở Mỵ là khao khát được đi chơi, được hòa vào không khí xuân tình bên ngoài.

            - Khi bị Asử trói đứng vào cột, tâm hồn Mỵ vẫn men theo những cuộc chơi với tiếng sáo gọi bạn đầu làng. . .  có lúc mỵ nhớ lại qus khứ tươi đẹp trong những đêm xuân tình ngày trước. . . .

            => Tất cả những biểu hiện ấy thể hiện khát khát tự do, tình yêu và hạnh phúc mãnh liệt ở Mỵ.  Đây là biểu hiện thứ hai của sức sống tiềm tàng ở Mỵ

4.  Trong đêm cởi trói cho Aphủ:

            - Việc Aphủ bị trói, ban đầu Mỵ thờ ơ.  Nhưng sau khi nhìn thấy “một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má của Aphủ”, Mỵ đã đồng cảm và cuối cùng là cởi trói cho Aphủ và chạy theo Aphủ.  

            => Hành động cởi trói thể hiện tình thương sâu sắc và hành động chạy theo Aphủ thể hiện khát vọng sống mạnh mẽ ở Mỵ.  Tất cả là những biểu hiện sống động cho sức sống tiềm tàng ở Mỵ

5.  Việc phát hiện ra sức sống tiềm tàng ở Mỵ của Tô Hoài đã góp phần thể hiện sâu sắc giá trị nhân đạo của tác phẩm.  Đó là nhà văn trân trọng và đề cao những phẩm chất tốt đẹp, những khát vọng sống của người nô lệ.  Với sức sống tiềm tàng ấy, người nô lệ ở miền núi Tây Bắc đã đứng lên đấu tranh tự giải phóng và đến với cách mạng. 

8 tháng 6 2016

  I. Mở bài:

 - Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn hay của Tô Hoài, có vị trí chắc chắn trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

- Ở tác phẩm này, Tô Hoài đã miêu tả đặc sắc số phận tăm tối và con đường thức tỉnh của đôi thanh niên dân tộc Hmông. Thành công ấy được thể hiện ở nhân vật Mị, một cô gái dù phải chịu những ách nặng của cuộc đời nhưng vẫn tiềm tàng sức sống. Qua Mị, người đọc nhận ra tài năng của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.

II.Thân bài:

 1. Hoàn cảnh và số phận của Mị:

     - Mị là cô gái trẻ đẹp, những đêm tình mùa xuân trai làng đến  thổi sáo đứng “nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”.

     - Mị tài hoa, Mị thổi sáo rất hay, có biết bao người mê, “Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo”.

     - Mị bị bắt cóc về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, bi kịch đời Mị bắt đầu từ đó.

     - Những ngày  đầu sống ở nhà thống lý, Mị đau đớn tột cùng “có đến hàng tháng  đêm nào Mỵ cũng khóc”. Chính sức sống mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tự do, Mị đã phản kháng bằng ý định ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha Mị phải sống để trả món nợ truyền kiếp, trả bằng tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc cả đời mình.

      - Trở lại nhà thống lý, Mị sống cuộc đời nô lệ với bao tủi nhục. Dần dà Mị quen với cái khổ, quen với cái nhục, thích nghi với cuộc đời nô lệ. Mị sống như cái máy, sống như một thực thể không ý thức về mình. Mỗi ngày như mọi ngày, mỗi tháng như mọi tháng, mỗi năm như mọi năm, cái thường nhật tẻ ngắt lặp đi lặp lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp...”.

      - Nơi Mị ở là cái buồng kín mít, cái cửa sổ ô vuông nhỏ bằng bàn tay, cái cửa sổ nhờ nhờ ánh sáng không biết sương hay nắng lở ngoài kia. Mị chỉ là cái bóng vô cảm, vô hồn lãng quên quá khứ, không gắn với hiện tại, không nghĩ đến tương lai. Bố Mị đã chết nhưng Mỵ đã quên nghĩ đến cái chết. Mỵ đã chết chìm nơi cái đáy nô lệ vô tri này!

  2. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt đã trỗi dậy:

      - Ngày tết đến, mùa xuân trở về trên đất Hồng Ngài, “trong các làng Mèo đỏ những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe ra như con bướm sặc sở”. Sắc màu mùa xuân làm tạo vật và con người bừng tỉnh.Gió và rét không ngăn được tiếng cười của trẻ con, không cản được tiếng sáo gọi bạn tình.

      - Ngày tết cái khát vọng tự do trở về mãnh liệt với con người nô lệ này. Nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi Mỵ nhẩm thầm bài hát của người đang thổi, tiếng sáo đã thấm vào tim Mị, thức tỉnh sự căm lặng bấy lâu.

      - Trong không khí ấy, Mị lén lấy hũ rượu “uống ực từng bát”, men rượu, men cuộc đời

đã nâng bổng tâm hồn Mị. Mị uống để quên buồn, quên thực tại nhưng Mị không quên, Mị sống về những ngày trước, những ngày tự do, vui sướng thổi sáo đi chơi hết núi này qua núi khác với bạn tình.

      - Mị chợt thấy lòng mình phơi phới và nhận ra mình còn rất trẻ, Mị muốn đi chơi. Và nếu có nắm lá ngón lúc này.

III. Kết bài:

-         Khẳng định: Dù cuộc sống khổ nhục nhưng ở Mị vẫn tiềm tàng sức sống...

-         Tài năng miêu tả nhân vật của nhà văn

 

8 tháng 6 2016

Nguồn : Số phận khổ đau và sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị

Mở bài:

 – Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn hay của Tô Hoài, có vị trí chắc chắn trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

– Ở tác phẩm này, Tô Hoài đã miêu tả đặc sắc số phận tăm tối và con đường thức tỉnh của đôi thanh niên dân tộc Hmông. Thành công ấy được thể hiện ở nhân vật Mị, một cô gái dù phải chịu những ách nặng của cuộc đời nhưng vẫn tiềm tàng sức sống. Qua Mị, người đọc nhận ra tài năng của nhà văn trong nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Thân bài:

1. Hoàn cảnh và số phận của Mị:

     – Mị là cô gái trẻ đẹp, những đêm tình mùa xuân trai làng đến  thổi sáo đứng “nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”.

     – Mị tài hoa, Mị thổi sáo rất hay, có biết bao người mê, “Mị thổi lá cũng hay như thổi sáo”.

     – Mị bị bắt cóc về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lý Pá Tra, bi kịch đời Mị bắt đầu từ đó.

     – Những ngày  đầu sống ở nhà thống lý, Mị đau đớn tột cùng “có đến hàng tháng  đêm nào Mỵ cũng khóc”. Chính sức sống mãnh liệt, tình yêu cuộc sống tự do, Mị đã phản kháng bằng ý định ăn lá ngón tự tử, nhưng thương cha Mị phải sống để trả món nợ truyền kiếp, trả bằng tuổi trẻ, tình yêu và hạnh phúc cả đời mình.

      – Trở lại nhà thống lý, Mị sống cuộc đời nô lệ với bao tủi nhục. Dần dà Mị quen với cái khổ, quen với cái nhục, thích nghi với cuộc đời nô lệ. Mị sống như cái máy, sống như một thực thể không ý thức về mình. Mỗi ngày như mọi ngày, mỗi tháng như mọi tháng, mỗi năm như mọi năm, cái thường nhật tẻ ngắt lặp đi lặp lại “Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp…”.

   – Nơi Mị ở là cái buồng kín mít, cái cửa sổ ô vuông nhỏ bằng bàn tay, cái cửa sổ nhờ nhờ ánh sáng không biết sương hay nắng lở ngoài kia. Mị chỉ là cái bóng vô cảm, vô hồn lãng quên quá khứ, không gắn với hiện tại, không nghĩ đến tương lai. Bố Mị đã chết nhưng Mỵ đã quên nghĩ đến cái chết. Mỵ đã chết chìm nơi cái đáy nô lệ vô tri này!

2. Sức sống tiềm tàng mãnh liệt đã trỗi dậy:

      – Ngày tết đến, mùa xuân trở về trên đất Hồng Ngài, “trong các làng Mèo đỏ những chiếc váy hoa đã đem ra phơi trên mỏm đá xòe ra như con bướm sặc sở”. Sắc màu mùa xuân làm tạo vật và con người bừng tỉnh.Gió và rét không ngăn được tiếng cười của trẻ con, không cản được tiếng sáo gọi bạn tình.

      – Ngày tết cái khát vọng tự do trở về mãnh liệt với con người nô lệ này. Nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha, bồi hồi Mỵ nhẩm thầm bài hát của người đang thổi, tiếng sáo đã thấm vào tim Mị, thức tỉnh sự căm lặng bấy lâu.

      – Trong không khí ấy, Mị lén lấy hũ rượu “uống ực từng bát”, men rượu, men cuộc đời

đã nâng bổng tâm hồn Mị. Mị uống để quên buồn, quên thực tại nhưng Mị không quên, Mị sống về những ngày trước, những ngày tự do, vui sướng thổi sáo đi chơi hết núi này qua núi khác với bạn tình.

   – Mị chợt thấy lòng mình phơi phới và nhận ra mình còn rất trẻ, Mị muốn đi chơi. Và nếu có nắm lá ngón lúc này.

Kết bài:

  • Khẳng định: Dù cuộc sống khổ nhục nhưng ở Mị vẫn tiềm tàng sức sống…
  • Tài năng miêu tả nhân vật của nhà văn
3 tháng 3 2016

DÀN Ý

1. Phân tích nhân vật:

 -Mị trước khi làm dâu nhà thống lý: Cô gái người Mèo xinh đẹp, yêu đời, có tài thổi sáo, khao khát yêu và đã được yêu.

 - Mị, con dâu gạt nợ nhà thống lý: Người đàn bà sống nhẫn nhục trong tăm tối =>Danh nghĩa là con dâu song kì thực là nô lệ, Mị là nạn nhân của sự đầu độc, áp chế về tinh thần

 - Sức sống mãnh liệt của Mị:

            + Lần 1: Mới bị bắt về làm dâu=> định tìm đến cái chết vì không chấp nhận sống nô lệ

            + Lần 2: Trong đêm tình mùa xuân=> Mị muốn đi chơi

             + Lần 3: Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, Mị đã cắt dây cởi trói và chạy theo A Phủ=> hành động bất ngờ, bột phát thể hiện tinh thần phản kháng và khát vọng hạnh phúc đã chiến thắng.

- Mị đến với cách mạng như là một tất yếu của quy luật có áp bức có đấu tranh, từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác

2. Giá trị nhân đạo của tác phẩm được thể hiện qua nhân vật Mị:

- Nhân đạo là thương người vì con người mà lên tiếng

- Câu chuyện đau buồn của Mị không phải là chuyện riêng của Mị mà tiêu biểu cho người phụ nữ miền núi trong chế độ phong kiến- thực dân

- Nhân vật Mị là một hình tượng nghệ thuật đẹp tiêu biểu cho khát vọng sống khát vọng hạnh phúc của người dân miền núi và hành trình tất yếu tìm đến cách mạng của họ

=> Truyện mang giá trị nhân đạo sâu sắc: xót xa với những số phận bất hạnh, ngợi ca những tâm hồn tuổi trẻ yêu đời trong sáng, bất bình với những tội ác man rợ của bọn quan lại miền núi và đồng tình với khát vọng giải phóng của người dân miền núi với chế độ thực dân phong kiến xưa

. Điều này có tác dụng to lớn, khắc hoạ rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng tới tương lai, vẫn khao khát một mái ấm gia đình

6 tháng 2 2019

Vợ chồng A Phủ:

- Số phận và cảnh ngộ của con người. Số phận bi thảm của người dân miền núi Tây Bắc dưới ách áp bức, bóc lột của bọn phong kiến trước cách mạng khi chịu sự thống trị của thực dân, phong kiến, thần quyền, hủ tục

Tư tưởng nhân đạo: ngợi ca sức sống mãnh liệt, tiềm tàng của con người và con đường họ tự giải phóng, đi theo cách mạng

Vợ nhặt:

- Số phận, cảnh ngộ của con người: Đặt nhân vật vào tình cảnh thê thảm của người dân lao động trong nạn đói 1945, tác giả dựng lên không khí tối tăm, ảm đạm bao trùm xóm ngụ cư

- Tư tưởng nhân đạo của tác phẩm:

    + Đi sâu lí giải, phân tích hiện thực bằng cái nhìn vừa đau xót, căm giận

    + Ngợi ca tình người cao đẹp, khát vọng sống, hạnh phúc và hi vọng vào một tương lai tươi sáng

26 tháng 11 2021

Tham khảo:

Tô Hoài là cây bút đầy sức sáng tạo của nền văn học Việt Nam với phong cách viết gần gũi với đời sống của con người. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” in trong tập “Tây Bắc” là câu chuyện giàu giá trị nhân văn khẳng định sức sống phi thường của con người khi bị áp bức, bóc lột. Đặc biệt, Tô Hoài đã khắc họa thành công nhân vật Mị có sức ám ảnh đối với người đọc.

Tô Hoài đã dẫn dụ người đọc vào câu chuyện bằng một lời giới thiệu nhẹ nhàng nhưng đầy ý vị “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lý Pá Tra thường thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tầu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Tô Hoài đã rất khéo léo khi gợi tả hình ảnh của Mị qua những cử chỉ và nét mặt đặc trưng đó. Một sự đối lập đến đau lòng giữa căn nhà rộng lớn của thống lý và sự lầm lũi, côi cút của người con gái bí hiểm đó. Một cô gái chịu sự dày vò về tinh thần, nhưng dường như lại có sức mạnh, nghị lực phi thường đang được nhen nhóm trong lòng của Mị.

Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nết na, được nhiều trai làng theo đuổi. Những tưởng rằng cuộc sống của Mị sẽ sung sướng, hạnh phúc nhưng vì món nợ mà mẹ Mị với nhà thống lí đã khiến cho cuộc đời cô rơi vào bế tắc và tuyệt vọng như bây giờ. Thương cha, thương cho thân phận hẩm hiu của mình mà Mị đành lặng lẽ về làm dâu nhà thống Lý trong tủi nhục và đau khổ.

Tô Hoài đã diễn tả cuộc sống như chết rồi của Mị tại nhà thống Lý, một cuộc sống cơ cực, không khác gì thân trâu ngựa. Phận là con dâu nhưng Mị lại bị đối xử không khác gì nô lệ, thậm chí thân trâu ngựa còn có lúc được nghỉ ngơi “con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái ở nhà này vùi đầu vào công việc cả ngày lẫn đêm”. Bị đày đọa về thể xác và tinh thần khiến cho Mị ngày càng rơi vào cảnh bế tắc, tuyệt vọng.

Bằng sự quan sát tỉ mỉ và nhạy cảm, Tô Hoài đã khắc họa trạng thái lầm lũi, một kẻ sống lặng câm y hệt “một con rùa trong xó cửa, căn phòng chỉ có một lỗ sáng to bằng bàn tay”. Căn phòng đó giống như địa ngục trần gian, giam giữ cuộc đời Mị, khiến cho cuộc đời một người con gái đang tuổi thanh xuân phải chôn vùi nơi đây. Thống lí Pá Tra là hiện thân của xã hội phong kiến nhiều hà khắc, hủ tục, đẩy con người vào bước đường cùng không thương tiếc. Những người nông dân thấp cổ bé họng không biết kêu than ai, chỉ biết chấp nhận và chịu đựng.

Đã có lúc Mị muốn tìm đến cái chết để giải thoát bản thân mình nhưng nghĩ đến cảnh người cha già, thương cha nên cô đành chấp nhận cuộc sống hiện thực. Niềm khát khao sống, khát khao yêu trong con người Mị dường như đã không còn. Mị chấp nhận sống, chấp nhận sự tồn tại như đã chết. Bên trong Mị vẫn còn tiềm ẩn sức sống rất mãnh liệt, chỉ chờ thời cơ thì sức sống sẽ bùng nổ.

Tô Hoài đã khắc họa bức tranh mùa xuân tươi đẹp của Hồng Ngài khiến cho chính người đọc cũng cảm thấy thích thú. Nó dường như là đòn bẩy để khơi gợi lên niềm tin và nghị lực trong cuộc sống. Mị đã lén uống rượu, trong cơn say, Mị đã ý thức được bản thân mình muốn gì “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng ngày tết vẫn đi chơi. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn ở với nhau”. Lúc ấy Mị đã ý thức được những khát khao trong lòng mình cháy bỏng như thế nào và tiếng sáo ngoài kia là một trong những động lực khơi gợi lại những kỉ niệm êm đẹp một thời Mị từng có.

Nhưng chính hành động này của Mị đã khiến cho A Sử biết được, hắn trói Mị vào cột và bỏ đó đi chơi. Mị vẫn đang lâng lâng trong hơi men rượu, và ký ức của cô lại ùa về dữ dội. Tuy nhiên thực tại đã kéo Mị lại với những gì mà Mị đang đối mặt: đau đớn và tủi nhục, khắp mình mẩy đau nhức.

Tuy nhiên có thể nói cảnh tượng Mị cởi trói cho A Phủ mới là cảnh tượng khắc họa cực kỳ sắc nét và chân thực tâm trạng, khát khao của Mị. Mị đã vùng lên đấu tranh, vùng lên đòi hạnh phúc của chính mình. Giọt nước mắt của A Phủ đêm hôm ấy đã đánh thức tình cảm, sự bùng cháy trong trái tim của Mị: “Đêm ấy A Phủ khóc, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xạm đen”. Giọt nước mắt ấy đã khiến thay đổi cuộc đời Mị về sau.

Chi tiết Mị cởi trói cho A Phủ và quyết định chạy trốn theo A Phủ là một sự bùng nổ về tinh thần. Sự đè nén bấy lâu nay trong lòng Mị đã được bứt phá và giải tỏa ra. Mị đã có thể tự lựa chọn con đường đi cho chính mình, Mị tự đấu tranh, Mị không thể mãi chịu cảnh bị người ta hành hạ, đè nén. Đây chính là sự bứt phá trong con người của Mị. Đây cũng chính là sự thành công của Tô Hoài khi khắc họa hình tượng nhân vật này.

“Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài là tác phẩm có giá trị nhân văn sâu sắc. Đặc biệt hình tượng nhân vật Mị để lại trong lòng người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc nhất.

26 tháng 11 2021

Mịn Nguyeeth lớp 12 à

Cảm nhận của anh chị về nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài qua đoạn trích sau:…Một loạt người vừa hút xong, Pa Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất gọng lè nhè gọi: - Thằng A Phủ ra đây. A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu...
Đọc tiếp

Cảm nhận của anh chị về nhân vật A Phủ trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài qua đoạn trích sau:

Một loạt người vừa hút xong, Pa Tra ngồi dậy, vuốt ngược cái đầu trọc dài, kéo đuôi tóc ra đằng trước, cất gọng lè nhè gọi: - Thằng A Phủ ra đây. A Phủ ra quỳ giữa nhà. Lập tức, bọn trai làng xô đến, trước nhất, chắp tay lạy lia lịa lên thống lý rồi quay lại đánh A Phủ. A Phủ quỳ chịu đòn, chỉ im như cái tượng đá...

Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh. Mặt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu. Người đánh, kể, chửi , lại hút. Khói thuốc phiện ngào ngạt tuôn qua các lỗ cửa sổ. Rồi Pá Tra lại ngóc cổ lên, vuốt tóc, gọi A Phủ... Cứ như thế, suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút.

[…] Sáng hôm sau, đám kiện đã xong. Mấy người chẳng biết từ bao giờ, ngủ ngáy ngay bên khay đèn. Bọn xéo phải đang bắc cái chảo đồng và xách ấm nước ra nấu thêm lạng thuốc để hút ban ngày cho các quan làng thật tình, các quan làng còn một tiệc ăn cỗ nữa. Thống lý mở tráp, lấy ra một trăm đồng bạc hoa xoè bày lên mặt tráp, rồi nói: - Thằng A Phủ kia, mày đành người thì làng xử mày phải nộp vạ cho người phải mày đánh là hai mươi đồng, nộp cho thống quán năm đông, mỗi xéo phải hai đồng, mỗi người đi gọi các quan làng về hầu kiện năm hào. Mày phải mất tiền mời các quan hút thuốc từ hôm qua tới nay. Lại mất con lợn hai mươi cân, chốc nữa mổ để các quan làng ăn vạ mày. A Phủ, mày đánh con quan làng, đáng lẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày được sống mà nộp vạ. Cả tiền phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng. Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền trả thì tao cho mày về, chưa có tiền trả thì tao bắt mày làm con trâu cho nhà tao. Ðời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi. A Phủ! Lại đây nhận tiền quan cho vay.A Phủ lê hai cái đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù. A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi mà về nhận mặt người vay nợ. Pá Tra khấn xong, A Phủ cũng nhặt xong bạc, nhưng chỉ nhặt làm phép lên như thế rồi lại để ngay xuống mặt tráp. Rồi Pá Tra lại trút cả bạc vào trong tráp.

0