K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

18 tháng 2 2021

 Bài 1. Lập bảng thống kê về quốc gia Cham-pa và Phù Nam theo nội dung sau:

 Nội dung Nước Cham-pa Nước Phù Nam
 Hoàn cảnh ra đời

 - Trên cơ sỏ nền văn hóa Sa Huỳnh, vùng đồng bằng ven biển miền Trung và Nam Trung Bộ.

 - Trên cuộc khởi nghĩa thắng lợi của nhân dân Tượng Lâm dưới sự lãnh đạo của Khu Liên nhân lúc Trung Quốc rối loạn vào cuối thế kỉ II. Khu Liên lên ngôi, đặt tên nước là Lâm Ấp. Các vua Lâm Ấp dùng lực lượng quân sự mạnh mở rộng bờ cõi về phía Bắc (đến Hoành Sơn, huyện Tây Quyển) và phía Nam (đến Phan Rang), đổi tên nước là Cham-pa, đóng đô ở Sin-ha-pu-ra (Trà Kiệu - Quảng Nam).

 - Trên cơ sở nền văn hóa Óc Eo, địa bàn vùng châu thổ sông Cửu Long.

 - Do các cư dân cổ Nam Á và Nam Đảo hình thành vào thế kỉ I và phát triển vào thế kỉ III - V.

 Thể chế chính trị Thể chế chính trị quân chủ Thể chế chính trị quân chủ
 Các ngành kinh tế chính

 - Nông nghiệp trồng trọt

 - Khai thác lâm thổ sản

 - Làm đồ gốm

 - Đánh cá

 - Ngoại thương

 - Nông nghiệp trồng trọt, chăn nuôi

 - Thủ công nghiệp (làm gốm, luyện kim, kim hoàn)

 - Ngoại thương đường biển

 Văn hóa

 - Từ thế kỉ IV đã có chữ viết riêng, bắt nguồn từ chữ Phạn của người Ấn Độ.

 - Theo đạo Bà La Môn, đạo Phật.

 - Có tục hỏa táng người chết, bỏ tro vào bình, vò rồi thả xuống sông, biển.

 - Ở nhà sàn, ăn trầu.

 - Nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đặc sắc.

 - Ở nhà sàn trên nền đất đắp cao.

 - Ở trần hoặc mặc áo chui đầu, xăm mình, xõa tóc, đeo trang sức đồng (hoặc hợp kim đồng, thiếc, chì), đất nung.

 - Có tục hỏa táng người chết.

 - Sùng tín đạo Phật và đạo Hinđu.

 - Nghệ thuật xây dựng, kiến trúc, ca, múa, nhạc phát triển

 Bài 2. Em hãy nêu những chính sách cai trị của các triều đại phong kiến phương Bắc đối với nước ta từ năm 179 TCN - Thế kỉ X?

  *Về văn hóa:

 - Thực hiện chính sách đồng hóa (đưa người Hán sang ở chung với dân ta, bắt dân ta học ngôn ngữ, phong tục tập quán của người Hán) hòng biến nước ta thành một phần của nước chúng.

 * Về chính trị:

 - Chia nhỏ các đơn vị hành chính.

 - Đưa người Hán sang cai trị đến tận cấp huyện.

 * Về kinh tế:

 - Đặt ra nhiều thứ thuế nặng nề.

 - Bắt dân ta cống nạp các sản vật quý, sản phẩm thủ công.

 - Bắt dân ta đi lao dịch nặng nề.

 Bài 3: Những biến đổi về địa giới hành chính nước ta từ năm 179 TCN - Thế kỉ X?

 - Năm 179 TCN, Triệu Đà sáp nhập Âu Lạc vào Nam Việt, chia Âu Lạc thành hai quận Giao Chỉ và Cửu Chân.

 - Năm 111 TCN, nhà Hán chiếm Âu Lạc, chia thành ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam, gộp cùng sáu quận của Trung Quốc thành châu Giao. Năm 43, sáp nhập vùng đất của người Chăm cổ vào quận Nhật Nam, đặt ra huyện Tượng Lâm.

 - Đầu thế kỉ III, nhà Ngô tách châu Giao thành Quảng Châu (thuộc Trung Quốc) và Giao Châu (nước Âu Lạc cũ).

 - Đầu thế kỉ VI, nhà Lương chia lại nước ta thành sáu châu: Giao Châu (vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ), Ái Châu (Thanh Hóa), Đức Châu, Lợi Châu, Minh Châu (Nghệ An - Hà Tĩnh) và Hoàng Châu (Quảng Ninh).

 - Năm 679, nhà Đường đổi Giao Châu thành An Nam Đô hộ phủ để cai quản 12 châu, trong đó đất Âu Lạc cũ bị chia thành 6 châu: Giao Châu, Phong Châu, Trường Châu (Bắc Bộ ngày nay), Ái Châu, Phúc Lộc Châu, Hoan Châu (Bắc Trung Bộ ngày nay).

100% đúng, mong bạn k chọn cho mình nha!

 Chúc bạn học giỏi!

18 tháng 2 2021

chọn tớ đi pls

4 tháng 11 2021

em moi lop 3 em ko biet nhung em chon dap an A

4 tháng 11 2021

ak mình nhầm . là A nha

30 tháng 3 2023

Gợi cho em suy nghĩ về công lao của những người của đất nước và những vị anh hùng có công của đất nước 

 

 

 

Tui nghĩ vậy 

30 tháng 3 2023

ok, thanks !

 

8 tháng 3 2016

Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Lương xâm lược do Triệu Quang Phục lãnh đạo :
- Nhân dân ủng hộ.
- Biết tận dụng vị trí, địa hình Dạ Trạch để xảy dựng căn cứ. phát triển lực lượng và tiến hành cách đánh du kích...

 

Mặc dù mình cho bạn là đúng nhưng đó không phải là do cậu nghĩ ra mà do cậu chép từ trang mạng Lời giải hay dug ko

4 tháng 5 2016

Địa danh Đà Nẵng có thể được giải thích theo ngôn ngữ Chăm có nghĩa là “sông lớn” hay “cửa sông cái”. Quả thật nằm trên tả ngạn sông Hàn kề bên cửa biển hiểm yếu này, địa danh Đà Nẵng đã được ghi trên các bản đồ vẽ từ thế kỷ XVI trở đi (như “An Nam hình thắng đồ”, “An Nam thông quốc toàn đồ”).
 
     Còn có một tên khác khá phổ biến về vùng đất này, đặt biệt là trong dân gian, đó là tên gọi gắn liền với con sông Hàn. Trên bản đồ vẽ vào thế kỷ XVII đã thấy ghi địa danh này. Địa danh Cửa Hàn không những được lưu truyền rộng rãi trong dân gian, đồng thời cũng được người Âu Châu nhắc đến rất sớm. Cố đạo Buzomi đến Đàng Trong vào năm 1615 và vào dịp lễ Pâques năm ấy, ông lập một nhà thờ nhỏ tại một nơi được ghi là Kean, địa danh này cũng đã được ghi lại trên tấm bản đồ nổi tiếng của Alexandre de Rhodes vẽ năm 1666, nằm ở vị trí chân đèo Hải Vân. Địa danh Kean bắt nguồn từ cách gọi khá phổ biến đương thời, những nơi tập trung dân cư gọi là Kẻ (kẻ chợ…); Kean có nghĩa là Kẻ Hàn.
 
     Ngoài ra, còn có một tên gọi dành cho thành phố Đà Nẵng nữa, nó tồn tại suốt trong thời gian là nhượng địa của Pháp, và trở thành địa danh hành chính chính thức trước đó cũng như cho đến nay nhiều người Châu Âu vẫn còn quen gọi, đó là Tourane. Trong các bản đồ, sách vở, ghi chép của người Âu từ thế kỷ XVI, XVII, XVIII… chúng ta đã thấy nhắc đến những địa danh như: Turon, Toron, Taraon, Touan, Touane, TouronTourane.
 
     Còn người Trung Hoa vẫn gọi nơi đây là Hiện Cảng. Chữ Hiện theo hai cách viết chữ Hán hoặc có nghĩa là “Cảng con hến” hoặc “Cảng núi nhỏ mà hiểm”; đều có thể giải thích là do hình thù của núi Sơn Trà được nhận thấy ngay từ ngoài khơi cửa biển Đà Nẵng.
     Ngoài ra, nhân dân địa phương vẫn có thói quen gọi vịnh Đà Nẵng là Vũng Thùng (“Tai nghe súng nổ cái đùng, Tàu Tây đã lại Vũng Thùng bữa qua !” – ca dao); còn các nhà nho nói chữ thì gọi là Trà Úc, Trà Áo, Trà Sơn hay Đồng Long Loan.
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Tourane được mang tên Thái Phiên, nhà yêu nước nổi tiếng của đất Quảng Nam lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Duy Tân nổ ra vào năm 1916.
 
     Hai năm sau, thành Thái Phiên lại được đổi tên thành Đà Nẵng và tên gọi này được giữ cho đến ngày nay.

8 tháng 5 2016

quảng nam

5 tháng 5 2016

văn lớp 6 ak bn

5 tháng 5 2016

uk

 

16 tháng 11 2021

Trong thời gian này Việt Nam bị đặt dưới quyền cai trị của các triều đình của phương Bắc như:

  1. Bắc thuộc lần thứ nhất (179 TCN hoặc 111 TCN - 39): nhà Triệu, nhà Hán

    nhà Hán lập quốc vào khoảng năm 206 TCN, đến 111 TCN chiếm Lĩnh Nam (bấy giờ là nước Nam Việt dưới thời nhà Triệu)

  2. Bắc thuộc lần thứ hai (43 - 541): nhà Đông Hán, Đông Ngô, Tào Ngụy, nhà Tấn, nhà Tề, nhà Lương
  3. Bắc thuộc lần thứ ba (602 - 905): nhà Tùy, nhà Đường. Trong giai đoạn Tự chủ từ 905-938 có một thời gian Việt Nam rơi vào tay Nam Hán.

Chỉ có vài thời gian độc lập ngắn ngủi như thời kỳ Hai Bà Trưng (40-43), thời kỳ nhà Tiền Lý với nước Vạn Xuân (541-602).

Một số tài liệu khác chia thành ba thời kì. Cách chia này gộp hai thời kỳ đầu (với gián đoạn là khởi nghĩa Hai Bà Trưng) thành thời kì Bắc thuộc lần thứ nhất. Bài này sử dụng cách chia làm bốn thời kì.

Trong suốt các thời kỳ Bắc thuộc, các triều đại Trung Quốc không ngừng thực hiện đồng hóa người Việt nhằm biến Việt Nam thành một quận huyện của Trung Quốc. Dưới thời kỳ này người Việt phải đóng sưu thuế cho triều đình phía bắc. Ngoài số thuế của nhà nước, một số quan cai trị địa phương vì ở xa nên cũng bòn vét thêm của dân.

Cũng có một số quan cai trị nghiêm minh, đứng đắn, nhưng số này ít hơn. Nền văn minh Trung Quốc cũng du nhập vào Việt Nam thời kỳ này. Sĩ Nhiếp, thái thú nhà Hán (187-226) được các nhà nho thời phong kiến coi là có công truyền bá chữ nho và đạo Khổng vào Việt Nam một cách có hệ thống, được coi là người mở đầu nền nho học của giới quan lại phong kiến ở Việt Nam. Nhiều người Trung Quốc đã di cư đến Việt Nam, họ ở lại, dần dần kết hôn với người Việt và hòa nhập vào xã hội Việt Nam, và con cháu trở thành người Việt Nam.

Bài chi tiết: Bắc thuộc lần 1

Dấu mốc xác định thời Bắc thuộc đầu tiên chưa thống nhất giữa các sử gia, do quan niệm khác nhau về nước Nam Việt và nhà Triệu.

  • Quan điểm thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam xác định rằng khi nhà Triệu bị Hán Vũ Đế diệt năm 111 TCN là lúc bắt đầu thời Bắc thuộc.
  • Quan điểm không thừa nhận nhà Triệu là triều đại chính thống của Việt Nam xác định thời Bắc thuộc bắt đầu từ khi Triệu Đà diệt Âu Lạc của An Dương Vương.
    • Sử cũ thường xác định An Dương Vương và nước Âu Lạc bị diệt năm 207 TCN
    • Sử hiện đại căn cứ theo ghi chép của Sử ký Tư Mã Thiên là Triệu Đà diệt[cần dẫn nguồn] phía Tây nước Âu Lạc "sau khi Lã hậu mất", tức là khoảng năm 179 TCN.

Triệu Đà sau khi diệt Âu Lạc chia làm 2 quận Giao Chỉ và Cửu Chân.

Năm 111 TCN, nhà Hán diệt nhà Triệu, chiếm được Nam Việt và chia làm 6 quận là Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, đồng thời lập thêm 3 quận mới là Chu Nhai, Đạm Nhĩ, Nhật Nam. Riêng đối với quận Nhật Nam, khi Lộ Bác Đức đánh bại nhà Triệu-Nam Việt, lãnh thổ Nam Việt chưa bao gồm quận Nhật Nam (từ Quảng Bình tới Bình Định). Quận Nhật Nam chỉ hình thành sau khi các quan cai trị bộ Giao Chỉ người Hán tiến xuống thu phục các bộ tộc phía Nam dãy Hoành Sơn

Năm 39, thái thú quận Giao Chỉ là Tô Định tàn ác, giết chồng của Trưng Trắc là Thi Sách. Nợ nước thù nhà, Hai Bà Trưng dấy binh khởi nghĩa và đã giành được 65 thành ở Lĩnh Nam. Hai Bà lên ngôi vua, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc lần thứ nhất.

Bài chi tiết: Bắc thuộc lần 2

Năm 43, nhà Hán sai Phục ba tướng quân Mã Viện đem quân sang tái chiếm, Hai Bà Trưng chống không nổi phải rút về giữ Cấm Khê rồi tự vẫn ở sông Hát. Dân địa phương lập đền thờ ở Hát Giang.

Sự cai trị của Đông Hán tại bộ Giao Chỉ tương đối ổn định đến cuối thế kỷ 2. Nhà Hán suy yếu, năm 192 dân huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam ở phía nam theo Khu Liên nổi dậy ly khai, lập ra nước Chăm Pa (Lâm Ấp).

Trong lúc nhà Hán suy yếu, thái thú quận Giao Chỉ là Sĩ Nhiếp dùng người nhà trấn trị các quận, trở thành người cai trị tại đây, dù sau đó trên danh nghĩa, họ Sĩ vẫn chấp nhận các thứ sử do nhà Hán rồi Đông Ngô cử sang. Một dấu mốc quan trọng thời kỳ này là việc bộ Giao Chỉ được đổi gọi là Giao Châu, trở thành 1 châu ngang hàng như các châu khác của Trung Quốc theo đề nghị của Sĩ Nhiếp và thứ sử Trương Tân.

Năm 226, Sĩ Nhiếp qua đời, nhà Đông Ngô đánh chiếm Giao Châu và chính thức cai trị. Trong chiến tranh Tam Quốc, các nước thay nhau giành quyền quản lý Giao Châu. Năm 263, Lã Hưng giết quan cai trị Đông Ngô, theo về Tào Ngụy. Tại trung nguyên năm 265 nhà Tấn diệt Ngụy, Giao Châu lại thuộc Tấn. Năm 271 Đông Ngô chiếm lại Giao Châu. Năm 280 Tấn diệt Ngô, Giao Châu trở lại thuộc Tấn.

Sau thời Tam Quốc, Giao Châu không có biến động về chủ quyền quản lý cho tới khi chấm dứt thời Bắc thuộc thứ hai.

Một số cuộc nổi dậy của người Việt thời kỳ này đều bị thất bại. Cuộc khởi nghĩa lớn nhất năm 248, ở quận Cửu Chân của anh em Triệu Quốc Đạt và Triệu Thị Trinh, sau bị Lục Dận là thứ sử Giao Châu đàn áp phải chịu thất bại. Một số cuộc nổi dậy khác của các thủ lĩnh người Việt như Lương Thạc, Lý Trường Nhân duy trì được quyền cai quản của người Việt trong vài năm.

Thời Bắc thuộc lần thứ 2 chấm dứt năm 541 khi Lý Bí khởi binh chống nhà Lương và chính thức thành lập nhà Tiền Lý cùng nước Vạn Xuân năm 544.

Bài chi tiết: Bắc thuộc lần 3

Năm 602, nhà Tùy cho quân sang xâm lược nước Vạn Xuân, Lý Phật Tử chưa đánh đã hàng, bị bắt về phương bắc rồi chết ở đó.

Năm 605, nhà Tùy đổi Giao châu thành quận Giao Chỉ và Phủ Đô hộ Giao Chỉ để cai trị Việt Nam.

Nhà Đường thay nhà Tùy bãi bỏ các quận do nhà Tùy lập ra, khôi phục lại chế độ các châu nhỏ thời Nam Bắc triều. Năm 622, nhà Đường lập Giao châu đô hộ phủ. Năm 679, nhà Đường đổi quận Giao Chỉ trở lại thành châu Giao, đặt ra Phủ Đô hộ Giao Châu.

Sau đó, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ Giao Châu thành Phủ Đô hộ An Nam. Tên gọi An Nam trong lịch sử Việt Nam bắt đầu từ thời điểm này. Chức quan đứng đầu Phủ Đô hộ An Nam lúc đầu gọi là kinh lược sứ, sau đổi thành Tiết độ sứ. Nhà Đường lại chia Giao Châu làm 12 châu: Giao, Lục, Phúc Lộc, Phong, Thang, Trường, Chi, Vũ Nga, Vũ An, Ái, Hoan, Diễn.

Sau nhiều lần điều chỉnh, năm 866, nhà Đường đổi Phủ Đô hộ An Nam thành Tĩnh Hải quân. Tên gọi này duy trì qua thời Tự chủ của Việt Nam.

Do chính sách bóc lột nặng nề của nhà Đường, người Việt nhiều lần nổi dậy chống nhà Đường. Tiêu biểu nhất là các cuộc nổi dậy của Lý Tự Tiên và Ðinh Kiến (687), Mai Thúc Loan (722), Phùng Hưng (776-791) và Dương Thanh (819-820), song đều thất bại.

Đầu thế kỷ 10, nhà Đường suy yếu nghiêm trọng vì nạn phiên trấn cát cứ (kéo dài từ sau loạn An Sử giữa thế kỷ 8) và quyền thần. Nhân lúc Tiết độ sứ Độc Cô Tổn bị điều đi chưa có người thay năm 905, hào trưởng người Việt là Khúc Thừa Dụ đã vào làm chủ thủ phủ Đại La và xác lập quyền tự chủ cho người Việt.

Người Việt tự chủ chống sự xâm chiếm của Nam Hán[sửa | sửa mã nguồn]

Năm 907, Khúc Thừa Dụ mất, con là Khúc Hạo lên thay tiếp tục thực hiệnTiết độ sứ. Năm 917, Khúc Hạo mất, con là Khúc Thừa Mỹ lên thay.

Năm 923/930, vua Nam Hán sai Lý Khắc Chính đem quân sang đánh, bắt được Khúc Thừa Mỹ đem về nước, Lý Khắc Chính ở lại giữ Giao Châu.

Năm 931, Dương Đình Nghệ là tướng của Khúc Hạo đem quân đánh phủ thành Đại La, lại đánh tan quân Nam Hán do Trần Bảo dẫn sang cứu viện, giết Trần Bảo và tự xưng là Tiết độ sứ.

Năm 937, bộ tướng của Dương Đình Nghệ là Kiều Công Tiễn giết ông để chiếm ngôi.

Tranh giả đồng tái hiện trận Bạch Đằng 938

Năm 938, bộ tướng khác, đồng thời là con rể Dương Đình Nghệ là Ngô Quyền đem quân giết Kiều Công Tiễn, rồi đánh tan đạo quân xâm lược Nam Hán do Lưu Hoằng Tháo dẫn đầu trên sông Bạch Đằng sang tiếp ứng cho Công Tiễn, lập ra nhà Ngô. Từ đó bắt đầu thời kỳ độc lập ổn định của Việt Nam.

Bài chi tiết: Bắc thuộc lần 4

Sau thời nhà Ngô đến thời nhà Đinh, Việt Nam chính thức có quốc hiệu sau ngàn năm Bắc thuộc là Đại Cồ Việt. Sang thời Lý, quốc hiệu được đổi là Đại Việt. Trong hơn 400 năm qua các triều đại Tiền Lê, Lý và Trần, Đại Việt đều đánh thắng các cuộc xâm lăng của các triều đại Trung Quốc.

Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi nhà Trần. Năm 1406, nhà Minh đem quân sang, lấy lý do là để khôi phục nhà Trần, nhưng thực chất đã sáp nhập Việt Nam thành quận huyện của Trung Quốc và cử quan lại người Hán sang cai trị.

Năm 1407, Giản Định vương, con thứ của vua Trần Nghệ Tông xưng làm Giản Định Đế (1407-1409) để nối nghiệp nhà Trần (thành nhà Hậu Trần) và bắt đầu một cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, đến năm 1413 thì hoàn toàn thất bại.

Năm 1418, Lê Lợi khởi nghĩa tại Lam Sơn, Thanh Hóa.

Năm 1427, cuộc khởi nghĩa thành công, kết thúc thời kỳ Bắc thuộc lần thứ tư, và mở đầu một triều đại mới của Việt Nam: nhà Hậu Lê. Theo truyền thuyết, Lê Lợi thắng do nhờ có kiếm thần của Long Quân.

So với giai đoạn một nghìn năm Bắc thuộc, thời kỳ Bắc thuộc này tuy không dài bằng, nhưng chính sách đồng hóa và bóc lột được thực hiện mạnh mẽ hơn. Nhà Minh bắt người Việt phải theo kiểu người Trung Quốc, từ cách ăn mặc, học hành, đến việc cúng tế. Các tài sản quý như người tài, sách vở, báu vật đều bị đem về Trung Quốc. Trong số đó có các cuốn sách văn học, lịch sử, binh pháp,... có giá trị và đã được truyền lại từ nhiều đời, hầu hết đã trở thành thất truyền ở Đại Việt kể từ đó. Khoảng 7600 thương gia và nghệ nhân Đại Việt (trong đó có nghệ nhân chế tạo súng Hồ Nguyên Trừng, nghệ nhân kiến trúc Nguyễn An) đã bị bắt đưa sang Nam Kinh, thủ đô Trung Quốc thời bấy giờ. Ngoài ra, nhà Minh còn áp dụng hệ thống sưu cao thuế nặng (bao gồm cả thuế muối) cùng với việc đẩy mạnh khai thác các sản vật quý phục vụ việc cống nộp.

16 tháng 11 2021

NGẮN THÔI NHÉ

21 tháng 3 2022

dễ ẹt

 hhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhhh

21 tháng 3 2022

Trong kháng chiến chống Mỹ, quân và dân Đông Anh tiếp tục đi đầu trong các phong trào thi đua yêu nước của nhân dân Thủ đô, vừa xây dựng CNXH,chi viện "sức người sức của" cho công cuộc giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vừa đánh trả ngoan cường chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.

Chúc bạn học tốt nhé !!

8 tháng 12 2021

TK

 

Giống nhau:

Ấn Độ, Ai Cập và Lưỡng Hà cả 3 đều nằm ở lưu vực các con sông lớn, nhiều phù sa, khí hậu thuận lợi cho phát triển nông nghiệp

Khác nhau: ở vị trí địa lí:

Lưỡng Hà: Nằm trên lưu vực hai con sông Ơ-phơ-rat ( Euphrates) và Ti-go-rơ.

Là vùng bình nguyên

Ai Cập: Nằm ở phía đông bắc châu Phi, dọc hai bên bờ sông Nin

Phía bắc vùng hạ Ai Cập, nơi sông Nin đổ ra Địa Trung hải

Phía nam là vùng Thượng Ai Cập với nhiều núi, đồi cát

Phía tây và đông giáp sa mạc

Ấn Độ:Ba mặt giáp biển, nằm trên trục đường biển từ tây sang đông

Phía bắc được bao bọc bởi dãy núi Hi-ma-lay-aDãy Vin-di-a vùng Trung Ấn chia đia hình Ấn Độ thành hai khu vực: Bắc Ấn và Nam Ấn

Mình không   biết nên mình chỉ copy trên mạng thôi nhé bạn , sorry nha : 

Tiến trình tiến hóa của loài người vạch ra các sự kiện lớn trong sự phát triển của loài người (Homo sapiens), và sự tiến hóa của tổ tiên loài người. Nó bao gồm giải thích ngắn gọn về một số loài, chi, và các cấp bậc cao hơn của các loài được nhìn thấy ngày nay là tổ tiên có thể có của con người hiện đại.

Biểu thời gian này được tổng kết dựa trên các nghiên cứu nhân loại học, cổ sinh vật học, sinh học phát triển, sinh học hình thái, và từ số liệu về giải phẫu và di truyền. Nó không giải quyết vấn đề nguồn gốc sự sống, mà cuộc thảo luận được cung cấp bởi phát sinh luận, nhưng trình bày một dòng có thể có của nguồn gốc tiến hóa của các loài mà cuối cùng dẫn đến con người hiện đại.

Khác với biểu tượng "cây Haeckel" về lịch sử, bài viết này cung cấp không có phân tích Phát sinh chủng loài học (phylogenes) để giúp khắc họa sự phức tạp, phi tuyến của sự tiến hóa của loài người. Điều quan trọng là các "dòng dõi có thể có nguồn gốc tiến hóa" không nên được hiểu là cung cấp một tiến trình tuyến tính từ đơn vị phân loại rất sớm để (giả định) đến mục tiêu là Homo sapiens.

Thời gian các sự kiện trong bài tính bằng Ma (Mega annum, triệu năm); hoặc Ka (Kilo annum, ngàn năm) trước đây/trước hiện tại/trước ngày nay (khái niệm "hiện tại"/"ngày nay" tiêu chuẩn trong khảo cổ học được tính mốc là ngày 01/01/1950).

8 tháng 3 2016

Nhà Tùy lại yêu cầu Lý Phật Tử sang chầu vì muốn lập lại chế độ đô hộ nước ta như trước. Lý Phật Tử biết ám mưu đó, không chịu khuất phục, nên không sang.