K
Khách

Hãy nhập câu hỏi của bạn vào đây, nếu là tài khoản VIP, bạn sẽ được ưu tiên trả lời.

25 tháng 8 2018

Giúp mình với mình cần gấp mình cảm ơn

24 tháng 11 2016

Trong cuộc đời mỗi con người chúng ta có thể quên đi nhiều điều, nhưng ký ức tuổi thơ thì khó có thể phai nhạt. Đối với Bằng Việt, kỷ niệm thơ gắn liền với hình ảnh người bà thân thương và bếp lửa nồng đượm. Tất cả kỷ niệm thời thơ ấu thậtấy đc tác giảlàm sống dậy trong bài thơ “Bếp lửa”. Bài thơ đc viết năm 1963 khi tác giả đang sinh sống và học tập xa đất nc.

Bài thơ đã khắc họa chân thật hình ảnh người bà gắn liền với những kỷ niệm trong wá khứ để từ đó tác giả bộc lộ tâm trạng nhớ nhung cùng với những tình cảm yêu thương xen lẫn cảm phục của mình đối với người bà thân yêu.

Đi ra từ nỗi nhớ, tất cả những hình ảnh, ngn6 từ bị cuốn theo dòng hoài niệm. Một thờ wá khứ đc tái hiện lại trong tâm tưởng với những chi tiết rất cụ thể. Tác giả nâng niu từng mảnh ký ức ký ức hiện về. Theo diễn biến tâm tư của ngân vật người cháu, chúng ta cảm nhận thắm thía từng cung bậc tâm trạng theo từng ngọn lủa trong bài thơ: lửa của kỷ niệm tuổi thơ, lửa của cuộc sống lúc đã trưởng thành ; bếp lửa của bà ngày xưa, bếp lửa ngày nay.

Sống xa quê hương, giã từ xứ lạnh đầy sương tuyết, tác giả chạnh lòng nhớ đến một bếp lửa thật ấm áp của quê hương. Bêp lửa gắn chặt với hinh ảnh người bà, bếp lửa của 1 thời thơ ấu với nhiều kỷ niệm khó phai.
“Một bếp lửa chờn vờn sương sớm
Một bếp lửa ấp iu nồng đượm
Chàu thương bà biết mấy nắng mưa”
Trong mấy câu thơ mở đầu có một bếp lửa chờn vờn mang màu cổ tích. Hình ảnh “chờn vờn sương sớm” thật sống động, gợi lên ngọn lửa ko định hìnhm khi to khi nhỏ, khi lên khi xuống nhưng rất mạnh mẽ. Sử dụng hình ảnh ấy rất thích hợp với trạng thái tâm lý hồi tưởng những z đã wa, đã rời ra nhưng lại có sức ám ảnh day dứt. Từ láy “ấp iu” bao gồm hàm ý bé nhỏ, thầm kín bên trong, đồng thời còn gợil ên cho ta bàn tay khéo léo, kiên nhẫn và chăm chút của người nhóm lửa. Điệp ngữ “một bếp lửa” đc lặp lại ở đầu những câu thơ có tác dụng nhấn mạnh dấu ấn kỷ niệm sâu lắng trong ký ức tác giả. Nó trở thành hình tương xuyên suốt hết bài thơ. Hồi tưởng về bếp lửa của quê hương, cũng chính là hồi tưởng về người bà thân yêu của mình. “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Đọng lại trong 3 dòng thơ đầu có lẽ là chữ “thương” và hình ảnh người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh lầm lũi “biết mấy nắng mưa”. Hai chữ “nắng mưa” ko chỉ để nói đến nắng mưa của thiên nhiên mà còn gợi cho ta nghĩ đến nắng mưa cuộc đời. Biết bao tình cảm xúc động mà nghẹn ngào trong câu thơ ấy!
Từ tình thương và nỗi nhớ da diết tràn đầy đã đánh thức tác giả sống lại với những năm tháng ấu thơ.
“Lên 4 tuổi….
…còn cay !”
Lẽ thường, vui thì người ta cũng nhớ, nhưng những kỷ niệm buồn thừong sâu đậm hơn nhiều. Tuổi thơ ấy có bóng đen ghê rợn, đau buồn của nạn đói năm 1945. Đó là năm “đói mòn đói mỏi”, “bố đi đánh xe khô rạc ngưạ gầy”. Đứa trẻ đã sớm có ý thức tự lập và phải sống trong sự cưu mang của người bà. Cảm nhận về nỗi vất v gián tiếp tác giả bộc lộ thời thơ ấu của mình. “Mùi khói” rồi lại” khói hun nhèm”, có thể nói nhà thơ đã chọn đc mội chi tiết thật chính xác, vừa miêu tả chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện những tình cảm da diết, bâng khuâng, xót xa, thương mến. “Hình ảnh “khói hun nhèm mắt” cũng gợi cho ta nghĩ đến sự cay cực, vất vả tỏa ra từ 1 bếp lửa của gia đình nghèo khổ. Câu thơ “nghĩ lại …. cay” tô đậm nỗi niềm thổn thức của tác giả. Thơ BV có sức truyền cảm mạnh mẽ nhờ những chi tiết, ngôn từ chân thật. giản dị như thế. Cái bếp lửa kỷ niệm của nhà thơ chỉ mới khơi lên, thoang thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói … mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thưc, thấm đậm biết bao nghĩa tình sâu nặng.

Từ sau sương khói mịt mờ của tuổi thơ, tác giả đã thổi phồng lên những kỷ niệm của tuổi thiếu niên khi quê hương đất nước có chiến tranh.
“Tám năm ròng….
…trên những cánh đồng xa.”
Ngôn ngữ, hình ảnh thơ rõ dần. Giọng thơ như thể giọng kể trong 1 câu chuệyn cỏ tích, có thời gian, không gian, có sự việc và các nhân vật cụ thể. Nếu tròng hồi ức, lúc tác giả lên bốn tuổi, ấn tươbg đậm nét nhất của đứa cháu là “mùi khói”, thì đến đây, xuất hiện 1 ấn tượng khác là “tiếng tu hú”. Lúc mơ hồ, vắng lặng “trên những cánh đồng xa”., lúc gần gũi, nghẹn ngào “sao mà tha thiết thế”, tiếng tu hú như than thở, sẽ chia những nỗi nhớ xa cách, trông ngóng mỏi mòn. Đưa tiếng tu hú, một âm thanh rất đồng nội ấy vào thơ, BV wả là có 1 tâm hồn gắn bó sâu nặng với quê hương.

Trong những câu thơ ấy, ta thấy từ “bà” đc lặp lại nhiều lần cùng với cấu trúc “bà-cháu” són đôi gợi sắc đêịu tình cảm xoắn xuýt, gắn bó, ấm áp của tình bà cháu. Tác giả như trách móc laòi chim tu hú vô tình chỉ gợi sự cô đơn đến vắng vẻ mà ko đến san sẻ với bà. Cách nói này đã bộc lộ kín đáo, ý nhị tình cảm của tác giả đối với bà. Tiếng chim tu hú trong khổ thơ làm cho không gian kỷ niệm có chiều sâu. Nõi nhớ của cháu về bà bỗng trở nên thăm thẳm và vời vợi. Ẩn chứa đằng sau những câu chữ ấy là tình cảm thưong yêu, xót xa của nhà thơ trc nỗi cô đơn và sự vất vả của bà.

Khổ thơ tiếp theo với những hình ảnh bà cháu và bếp lửa trong những năm kháng chiến.
“Năm giặc …
…. bình yên!”.
Đứa cháu lớn dần, cuộc sống khó khăn hơn trước song nghị lực của bà vẫn bền cững, tấm lòng của bà vẫn nhân hậu, mênh mông. Lời người bà dặn cháu thật nôm na nhưng chân thực và cảm động. “Bố ở chiến khu bố còn việc bố – Mày có viết thư chớ kể này, kể nọ .” Gian khổ, thiếu thốn và nhớ nhung cần phải che giấu cho con người đi xa đc yên lòng. Tấm lòng người bà thương con thương cháu ân cần, chu đáo biết bao.
“Rồi sớm rồi chiều….
…dai dẳng.”
Trong những câu của khổ thơ này, hình ảnh “bếp lửa” đã chuyển thành “ngọn lửa” trong ý nghĩ tượng trưng, khái quát. “Bếp lửa” với những ấm áp bình lặng của tình cảm gia đình, của tình bà cháu, đã trở thành ngọn lửa của trái tim, của niềm tin và sức sống mãnh liệt con người. Tình thương và lòng nhân ái bao la của con người mãi ấm nóng, bền bỉ tỏa sáng, trường tồn.

Từ cảm xúc nhớ thương của đứa cháu nhỏ với bà, tác giả đã chuyển sang bộc lộ những cảm xúc, suy nghĩ của 1 thanh niên đã trường thành đối với người bà trong hiện tại.
“Lận đận ….
….bếp lửa!”
Chiến tranh đã đi wa, những gian khổ đã vơi bớt, cuôc sống đã đổi thay nhưng bà vẫn giữ thói quen “thói quen dậy sớm”, bếp lửa của bà vẫn “ấp iu nồng đượm” nhuw ngày nào. Điệp từ nhóm đc nhắn lại 4 lần mang bốn nghĩa khác nhau, tỏa sáng dần nét “kỳ lạ”, thiêng liêng và nhất là tình nghĩa của bà. Nếu trc đây, đó là ngọn lửa nồng đươm nhóm niềm tin trong những ngày gian khổ, khó khăn vì vật vã đói kém., thì bây giờ ngọn lửa ấy còn nhóm lên trong lòng tác giả bao vẻ đẹp khác nữa. “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” ấy là bếp lửa có thật, có ánh sáng và hơi ấm. “Nhóm niềm yêu thương” có nghĩa là bà truyền cho cháu tình ruột thịt nồng đượm, ngọt ngào. “Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui” hay cũng chính là bà mở rộng tấm lòng đoàn kết, gắn bó với làng xóm quê hương. Và cuối cùng, người bà kỳ diệu ấy “nhóm dậy”, thức tỉnh và bồi đắp cho đứa cháu về tâm hồn và cách sống. Âm đệiu trong đạon thơ này dạt dào như sóng dồi, lan tỏa như lửa ấm hay đây chính là cảm xúc đang dâng trào, đang tỏa ấm trong trái tim nhà thơ?Mỗi câu, mỗi chữ cứ hồng lên, nồng ấm biết bao tình cam nhớ thương nhân nghĩa! Có thể nói câu thơ cuối bộc lộ rõ nhất thái độ kính trọng và cảm xúc đang dâng trào ào ạt trong tâm hồn BV. Câu thơ chỉ có 8 chữ mà có sức khái quát cả suy nghĩ lẫn tình cảm của tác giả đối với bếp lửa gắn liền hình ảnh người bà, với cách ngắt nhịp là 1 dấu lặng đầy nghệ thuật chứa đựng bao cảm xúc và suy nghĩ ko thể diễn tả hết bằng ngôn từ.

Đoạn thơ cuối cùng vẫn tiếp tục mạch cảm xúc nhớ thương khôn nguôi thể hiện kín đáo tình cảm biết ơn sâu nặng của tác giả đối với người bà đã từng cưu mang, đùm bọc mình.
“Giờ cháu đã ….
….bếp lửa lên chưa?…”
Giờ đây, tác giả đã sống xa xứ, đã trưởng thành, đã rời xa vòng tay ngừoi bà. Đaứ cháu ấy đã đc mở rộng tầm mắt để nhìn thấy “khói trăm tàu” , “lửa trăm nhà”, “niềm vui trăm ngả”. Cuộc sống đầy đủ vật chất hơn, nhưng vẫn ko nguôi ngoai tình cảm nhớ thương bà. Tình cảm ấy đã trở thành thường trực trong tâm hồn tác giả. Câu hỏi tu từ khép lại bài thơ thật khéo, tậht hay, có sức ám ảnh day dứt tâm trí người đọc (tui chưa bị ám:33. Nhà thơ hỏi nhưng cũng là nhắc nhở chính mình phải luôn nhớ tới ngọn lửa quê hương, nhớ tới người bà đã trở thành chỗ dựa tinh thân của đứa cháu ở phưong xa. Đó là nỗi nhớ tha thiết, da diết. Hình ảnh bếp lửa cứ trở đi trở lại trong bài thơ, vừa là 1 hình ảnh rất cụ thể, vừa có sức khái quát sâu sắc.

“Bếp lủa ấp iu nồng đượm” đã trở thành biểu tượng của tấm lòng người bà, mãi mãi sưởi ấm tâm hồn nhà thơ. Thật ko ngờ, một bếp lửa bình thường như trăm ngàn bếp lửa khác lại có tác dụng xúc động đến như vậy. Người bà trong “Bếp lửa” đã nuôi con nuôi cháu, đã đi wa đói khát và chiến tranh, đã cho cho con mình đi kháng chiến vì đất nước, đã âm tầhm ở lại nhà giữ mảnh đất tổ tiên để lại, âm thầm chờ đợi và hy vọng… Đó chẳng phải là biểu tượng về sự sống lớn lao và cao cả của con người sao? Bà là người phụ nữ VN, như ngọn lửa cháy sáng và ấm mãi.

Trong hành trình cuộc đời của mỗi con người có những ngày tháng, những kỷ niệm và những con người ko thể nào quên đc. BV đã có đc 1 tuổi thơ gắn bó với người bà mà ông yêu quý, kính trọng. Ông đã gửi gắm tâm sự trong bài thơ và thể hiện nó bằng giọng điệu tâm tình, sâu lắng, hình ảnh thơ gợi cảm & giàu sức liên tưởng, suy ngẫm. Bài thơ chính là món quà quý giá mà BV gửi đến cho người đọc. Tác phẩm có tác dụng giáo dục rất tốt về tình nghĩa thủy chung với gia đình, quê hương, đối với những gì đã nhen nhóm và nuôi dưỡng ngọn lửa thiêng liêng trong tâm hồn mỗi con người.

18 tháng 8 2018

vẻ đệp thanh cao là:

người nhắm trăng cao ngoài cửa sổ   rất giản dị

7 tháng 3 2018

- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả, tự sự, biểu cảm và bình luận. - Hình ảnh thơ vừa cụ thể, gần gũi vừa gợi nhiều liên tưởng, mang ý nghĩa biểu tượng.

7 tháng 3 2018

.

Năm sau mik mới học đến.

.

15 tháng 6 2018

I. Về phương diện nội dung

1. Mối quan hệ hôn nhân

a. Chồng:

Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, nhân vật Trương Sinh được giới thiệu:Trương Sinh có tính cả ghen, hay để tâm xét nét vợ, nhưng vợ chàng thường giữ gìn khuôn phép nên không có chuyện gì xảy ra.Vợ chồng hương đượm lửa nồng chưa được bao lâu thì bỗng nghe tin chốn biên thùy có giặc, chồng vâng lệnh quan phải từ giã mẹ và vợ đi lính thú

Qua cách giới thiệu này, ta thấy tác giả dân gian chỉ nói đến nhân vật Trương Sinh có đặc điểm hạn chế thường thấy của đàn ông là hay có tính ghen tuông và thường hay xét nét vợ mình, ngoài ra chàng không hề có một “ưu điểm” nào. Theo quan điểm Nho giáo cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy thì việc Vũ Thị Thiết gặp một người chồng như thế cũng không có gì gọi là may mắn. Xây dựng kiểu nhân vật có mỗi đặc điểm đơn điệu như thế, phải chăng tác giả dân gian chỉ dùng nó cho mục đích dẫn dắt tính tất yếu của bi kịch ghen tuông sau này?

Nhưng ở Chuyện người con gái Nam Xương, nhân vật Trương Sinh xuất hiện đầy đủ các mặt ưu và nhược điểm: Chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra triều đình bắt đi lính đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có học, nên tên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu.

Về ưu điểm, đó là chàng biết chọn vợ (mến vì dung hạnh) và sống có khuôn phép, tôn trọng mẹ (xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về). Và điều quan trọng, chàng Trương thuộc gia đình dòng dõi, phong lưu (con nhà hào phú). Còn nhược điểm, thứ nhất, cũng giống như truyệnVợ chàng Trương, Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Điều này thuộc bản tính tự nhiên, thường tình, rất người. Thứ hai, chàng không có học. Tuy không có học nhưng qua cách tìm vợ và phép tắc với mẹ, ta thấy chàng không phải không biết cách xử sự. Dù rằng, Trương Sinh không thật hoàn hảo, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, với Vũ Nương, nàng lấy được tấm chồng như thế cũng là quá may mắn. Hãy đặt trong sự so sánh với người phụ nữ cùng thời, nàng còn hơn bao kẻ khác. Biết bao người phụ nữ gặp hoàn cảnh đắng cay vẫn phải cắn răng mà chịu đựng:

- Bồng bồng cõng chồng đi chơi

Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng

Chị em ơi! Cho tôi mượn cái gầu sòng

Để tôi tát nước múc chồng tôi lên.

- Bữa cơm múc nước rửa râu

Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm

Đêm đêm dắt cụ đi nằm

Than thân phận gái ôm lưng lão già

Ông ơi, ông buông tôi ra

Kẻo người ta thấy, người ta chê cười.

(Ca dao)

Như thế, tuy chưa phải hoàn hảo, nhưng Trương Sinh vẫn có nhiều ưu điểm của người chồng để đáng được trân trọng. Thêm vào những chi tiết đề cao thế mạnh của chàng Trương như thế, hẳn Nguyễn Dữ có dụng ý riêng trong việc xây dựng nhân vật của mình.

b. Mẹ chồng

Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, hình ảnh mẹ chồng chỉ được gợi đến một cách rất mờ nhạt:Nhớ con sinh ra đau ốm. Vợ chàng Trương hết lòng mời thầy chạy thuốc, nhưng bệnh của mẹ chồng mỗi ngày một nặng, chẳng bao lâu thì mất. Nhờ có bà con xóm giềng, mọi việc tống táng đều lo liệu chu toàn. Ở đây, tác giả dân gian chỉ nói đến quan hệ mẹ chồng – nàng dâu rất mờ nhạt.

Còn trong Chuyện người con gái Nam Xương, hình ảnh mẹ chồng được khắc họa rất rõ nét ở những thời điểm:

- Khi tiễn Trương Sinh đi lính:Buổi ra đi mẹ chàng có dặn rằng: “Tuy hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được”. Thêm vào chi tiết này, Nguyễn Dữ gợi dẫn cho người đọc nhận thức về một người mẹ có tầm hiểu biết.

- Khi sắp qua đời: Bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng: “Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Từ lời trăng trối của mẹ chồng, ta nhận thấy mối quan hệ hai chiều trong tình cảm mẹ chồng – nàng dâu. Người mẹ thấu hiểu công lao và sự thơm thảo của con dâu trong miếng cơm miếng cháo, khi sống chết không khỏi phiền đến con. Điều này trong xã hội phong kiến rất hi hữu, thường là Trách cha trách mẹ nhà chàng/ Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau (ca dao). Đặc biệt, mẹ chồng Vũ Nương đã đặt vào con dâu bằng tất cả niềm tin, hi vọng trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ. Liệu nàng có hiểu hết tấm lòng người mẹ chồng dành cho nàng Con dâu mới thật mẹ cha mua về (ca dao)? Trong Chuyện người con gái Nam Xương, tác giả thêm vào lời thoại ở hai thời điểm như thế nên hình ảnh người mẹ chồng đã được nổi bật rất rõ ở nhiều khía cạnh khác nhau, đó cũng là lợi thế – giá trị tinh thần mà mấy nàng dâu gặp được trong xã hội bấy giờ. Đó không phải là điều có một không hai sao, khi ca dao đã từng nói:

Thật thà cũng thể lái trâu

Thương nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

Qua việc so sánh cách xây dựng mối quan hệ hôn nhân trong hai tác phẩm, ta thấy ý đồ của truyện cổ tích Vợ chàng Trương và Chuyện người con gái Nam Xương hoàn toàn khác nhau. Nếu như ở Vợ chàng Trương, tác giả dân gian xây dựng chi tiết này chỉ mang tính dẫn dắt cho sự tiếp diễn những sự việc sau, thì với Nguyễn Dữ, ngoài việc dẫn dắt, ông đã gợi cho người đọc nhận thức về hoàn cảnh Vũ Nương. Trong xã hội phong kiến khắt khe, có một hoàn cảnh đầy ưu thế như vậy, liệu Vũ Nương có ý thức được điều may mắn hiếm có ấy để phát huy trong cuộc sống hay không? Như thế, dùbi kịch đầu tiên của đời Vũ Nương mà chế độ phong kiến Việt Nam vốn lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính thống, với tôn ti trật tự nghiêm ngặt đã tước mất quyền được chọn chồng của người phụ nữ, thì với nàng, điều may mắn đã đến. May mắn như thế, nhưng Vũ Nương có coi là quan trọng để biết cách gìn giữ, thì điều đó lại tùy thuộc vào ý thức, trách nhiệm của nàng trước cuộc sống.

Xây dựng mối quan hệ hôn nhân với nhiều điều may mắn hơn so với Vợ chàng Trương, phải chăng Nguyễn Dữ để người đọc thấy được một Vũ Nương có những ưu thế trong tay nhưng đã không biết phân biệt điều hơn, lẽ thiệt giữa đời nên dẫn đến việc lựa chọn cái chết đầy tính ích kỉ?

2. Bi kịch ghen tuông

Ở truyện cổ tích Vợ chàng Trương, nguyên nhân bi kịch ghen tuông được kể: Tối nào bố Đản cũng đến… Mẹ Đản đi cùng đi, mẹ Đản ngồi cùng ngồi…Chẳng bao giờ bố bế Đản cả…

Mấy lời nói vô tình của đứa bé làm cho Trương Sinh tin là vợ mình ngoại tình, không còn nghi ngờ gì nữa. Nghĩ đến người vợ trong tay kẻ khác, cơn ghen tự dưng bừng bừng bốc lên. Chàng lẩm bẩm: “Thật là quá rõ. Không ngờ trong khi mình gian lao thế ấy, thì nó ở nhà lại như thế kia”. Về đến nhà Trương Sinh mắng nhiếc vợ tàn tệ: “Tao không ngờ mày là đồ thất tiết. Mẹ chết, chồng đi vắng, tối rước trai về nhà”. Chàng mắng dữ dội nhưng không bảo là tự miệng con nói ra. Vợ chàng một mực chối cãi: “Cách biệt ba năm, thiếp vẫn một lòng một dạ, đâu có hư thân mất nết như lời chàng nói. Xin chàng đừng ngờ oan cho thiếp”. Vợ càng phân trần thì cơn giận của chồng càng không thể dằn xuống được nữa. Chồng bắt đầu dùng lối vũ phu để tra khảo vợ. Hàng xóm láng giềng nghe tin vợ chồng lục đục đổ tới can ngăn, nhưng chẳng ăn thua gì. Chồng cho là vợ khéo mồm khéo mép nên được lòng mọi người che lấp tội lỗi. Trong cơn phẫn uất, người thiếu phụ ôm lấy con khóc nức nở, rồi nhân lúc chồng sang nhà hàng xóm, chạy một mạch ra bến Hoàng Giang đâm đầu xuống nước.

Bi kịch trong Vợ chàng Trươnglà Vũ Thị Thiết tìm đến cái chết trong sự bế tắc về tinh thần. Do cơn hoảng loạn không kiềm chế được, nên nàng đã đâm đầu xuống bến Hoàng Giang trong trạng thái tâm lí hoàn toàn vô thức. Một cái chết trong căng thẳng, ức chế thần kinh nên nàng không thể kiểm soát được hành động của bản thân. Tất nhiên, không phải người phụ nữ nào trong hoàn cảnh bị bạo lực đều mất tự chủ, không có khả năng bảo vệ bản thân như nàng. Tuy không làm chủ được tình thế để đến nỗi phải tìm cái chết, nhưng bản năng người mẹ không mất đi. Trước khi chạy ra bến Hoàng Giang, nàng vẫn nghĩ đến con. Một cái chết mang hiện tượng của bệnh lí không nằm trong chủ quan của nàng, thật đáng thương! Do cơn ghen mù quáng của Trương Sinh, Vũ Thị Thiết mới ra nông nỗi ấy. Vì thế, chính chàng Trương cũng phải chịu một phần trách nhiệm về cái chết của vợ. Bởi đến với cái chết như thế, nên những giá trị nàng có vẫn không hề mất đi. Đọc Vợ chàng Trương, đọng lại trong lòng người đọc là sự xót xa, thương cảm trước một số phận bi đát do hậu quả ghen tuông đưa lại

Cũng nói về bi kịch ghen tuông, Chuyện người con gái Nam Xương được Nguyễn Dữ thể hiện: Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.

Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng: “Thiếp vốn con nhà kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại dấu không kể lời con nói; chỉ lấy lời bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói: “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia, nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Đoạn rồi nàng tắm gội chay sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Kẻ bạc phận này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiến chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng, dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp cho mọi người phỉ nhổ”. Nói xong, nàng gieo mình xuống sông mà chết.

So sánh bi kịch ghen tuông trong hai tác phẩm, ta thấy điểm giống nhau đó là nguyên nhân dẫn đến bi kịch và hành động vũ phu của Trương Sinh đối với vợ. Còn điểm khác nhau, đó là cách xử sự của những người vợ trong việc tìm đến cái chết.

Khác với Vợ chàng Trương,trong Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã để nhân vật Vũ Nương tìm đến cái chết trong trạng thái tâm lí hoàn toàn bình tĩnh, một sự lựa chọn đầy chủ động.

Từ cái chết đầy sự bình tĩnh của Vũ Nương, ta thấy nàng có xứng đáng làm một người mẹ hay không? Một người mẹ như nàng, ngay cái tình mẫu tử tự nhiên cũng không hề có. Chưa nói con người, trong thế giới động vật, thuộc tính tự nhiên của mẹ – con cũng thể hiện rất rõ. Để nói về thuộc tính tự nhiên của tình mẫu tử, câu chuyện dân gian A - Nhi thần lửa đã có cách lí giải rất thú vị. Chuyện kể về năm mẹ con chim đầu rìu bị đe dọa tính mạng bởi một đám cháy bất ngờ. Người mẹ sẵn sàng đón nhận cái chết, đã xòe cánh để bảo vệ các con. Các con không chấp nhận giải pháp này và chúng đưa ra lí lẽ: nếu mẹ chết thì các con cũng sẽ bị chết đói, chết khát. Và điều quan trọng là mẹ sống để duy trì nòi giống. Không thuyết phục được mẹ, bốn chú chim non dọa đâm đầu vào lửa. Chim mẹ bất lực, đành phải bay đi. Còn lại bốn anh em, chúng chụm đầu kêu cứu thần lửa. Thương tình, thần lửa kịp thời đến giải vây. Chính chi tiết này gợi lên suy nghĩ: tình mẫu tử dù được can thiệp bằng lí trí, nhưng cuối cùng phải trả về thuộc tính tự nhiên, bản năng nhất. Vậy nhưng với Vũ Nương, phần bản năng của người mẹ, nàng cũng không hề có. Một người mẹ chỉ vì sự nghi ngờ của chồng mà sẵn sàng tìm đến cái chết, bỏ đứa con thơ dại đã mấy năm quấn quýt, chăm bẵm. Một sự lựa chọn mà thế gian này không phải ai cũng làm được như nàng. Một người mẹ trong phút giây tử biệt mà không một chút nào vương vấn tới con, như trong lòng chưa hề có con vậy. Thật lạ lùng về một người mẹ trong tỉnh táo đã rảnh rang ra đi như chưa làm mẹ bao giờ. Từ điều này, ta có quyền nghĩ rằng, Vũ Nương trong Chuyện người con gái Nam Xương không xứng đáng làm mẹ. Thật đáng tiếc bởi tạo hóa ban tặng cho người phụ nữ thiên chức làm mẹ, vậy nhưng với Vũ Nương, nàng đã tự tước bỏ. Nàng đến với cái chết không phải do nóng giận mất khôn mà đó là sự lựa chọn của nàng sau khi đã suy nghĩ kỹ , đó mới là điều đáng sợ nhất của Vũ Nương. Để Vũ Nương suy nghĩ kỹ mới lựa chọn cái chết, Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật theo kiểu tâm lí, không còn là nhân vật chức năng như trong Vợ chàng Trương. Xây dựng hình ảnh một người mẹ suy nghĩ kỹ – là con người của ý thức nhưng vẫn cư xử với con như thế, Nguyễn Dữ đang hướng người đọc nhìn nhận về cách giải quyết bi kịch của Vũ Nương. Chỉ vì lựa chọn sự tròn trịa của mình mà nàng sẵn sàng từ bỏ mọi thứ, ngay cả tình mẫu tử thiêng liêng nhất. Tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương, có ý kiến đã không đồng tình trong việcchê trách, thậm chí phê phán nàng ích kỷ, vô cảm . Chưa nói việc nhìn toàn cục tác phẩm, chỉ mới nhìn nhận ở khía cạnh tình mẫu tử, thì việc chê trách, thậm chí phê phán nàng ích kỷ, vô cảm ắt sẽ không tránh khỏi, bởi nó nằm trong dự đồ xây dựng nhân vật của Nguyễn Dữ.

Cái chết đầy sự bình tĩnh của Vũ Nương khiến ta suy ngẫm về bổn phận làm dâu của nàng. Khi Trương Sinh đi vắng, nàng tận tụy chăm sóc mẹ ốm,hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Rồi mẹ mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình. Vậy tại sao chỉ vì sự hiểu lầm của Trương Sinh, nàng đã không còn màng đến lời trối trăng của mẹ trong sự khao kháttrời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con? Nếu là người dâu hiếu thảo, thì ít ra nàng cũng trăn trở day dứt về ước nguyện của người mẹ chồng trước khi trút hơi thở cuối cùng còn mong điều tốt đẹp cho mình. Sâu xa hơn, nếu người dâu hiếu thảo, biết con trai mẹ đang sai lầm, bế tắc thì tìm cách mà hóa giải, để đem phúc đức lại cho gia đình mẹ. Nếu một người con dâu thực sự hiếu thảo, chưa nói con cháu đông đàn sau này, chỉ mình bé Đản hiển hiện giữa đời cũng phải cam tâm bỏ qua tất cả để níu kéo sự sống mà nuôi dưỡng nó. Nếu một người con dâu thực sự hiếu thảo, khi được họ hàng làng xóm bênh vực, tin yêu, hẳn nàng sẽ không phụ lòng mọi người như thế. Vậy nên, Vũ Nương chỉ là nàng dâu hiếu thảo khi mọi điều đang diễn ra theo chiều thuận của nó. Nếu chỉ nhìn một chiều, thì quả thật, chừng đó đã đủ cho nàng thành gương sáng của đạo hiếu . Nhưng cuộc sống vốn muôn sắc màu, khi đặt Vũ Nương vào chiều nghịch của nó, nàng đâu bộc lộ được phẩm chất người con dâu thùy mị, nết na. Tỉnh táo trong lựa chọn cái chết, nhưng Vũ Nương lại không dùng sự tỉnh táo đó để nghĩ về bổn phận làm dâu trong niềm tin yêu của mọi người, trong sự so sánh hơn thiệt mình đang có. Tại sao? Bởi vì cơn nư của nàng đang trỗi dậy, lấn át đi mọi thứ.

Từ cái chết đầy sự bình tĩnh của Vũ Nương, ta thấy nàng có thực sự yêu thương chồng không?

Đọc Chuyện người con gái Nam Xương, ta không phủ nhận tình yêu thương của nàng dành cho chồng. Ngay trong buổi tiễn đưa chồng, dù chàng Trương chưa xa, mới chỉ sắp xa mà nàng đã nói những lời tràn đầy yêu thương, nhung nhớ khiến cho “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Trong những đêm xa chồng, cuộc sống của nàng và con thơ cô quạnh, nỗi nhớ càng đốt cháy tâm can, “nàng thường hay đùa với con, trỏ bóng mình trên vách mà bảo là cha Đản”. Giá như tình yêu thương đó song hành cùng thời gian với những thử thách, biến cố giữa cuộc đời thì quả thật là điều đáng trân quí! Nhưng tiếc thay, tình yêu đó cũng chỉ là thứ tình cảm bình thường như bao người vợ trong hoàn cảnh chiến tranh li tán. Duy chỉ một điều là những người vợ khác, khi chồng về, đối mặt với muôn vàn thử thách về vật chất và tinh thần, họ đều nhẫn nhịn vượt qua để bảo tồn cuộc sống theo mẫu người phụ nữ phong kiến, chứ chẳng ai xử sự “hiện đại” như nàng. Nàng đâu phải là người phụ nữ không khôn ngoan, hiểu biết. Ngày tiễn chồng, nàng đã biết lựa chọn hai chữ bình yên chứ không phải là mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm, bởi đến được vinh hoa, mạng sống của chồng sẽ phải đặt trên bàn cân sống/chết. Đặc biệt, nàng ý thức được Bổn phận hàng đầu của người vợ là chung thủy, tiết hạnh. Hoàn cảnh đã thử thách và minh chứng lòng chung thủy, tiết hạnh của nàng , như thế, nàng đâu dại dột gì. Khôn ngoan, hiểu biết đến thế nhưng sao nàng không đưa lợi thế ấy vào để giải quyết bi kịch ghen tuông với mục đích cứu vớt chồng khi mắc sai lầm? Bài toán ghen tuông này, với nàng, trong trạng thái hoàn toàn tỉnh táo, nếu chú trọng vào nó thì không thể không có cách hóa giải. Vì sao? Bởi bi kịch của nàng chỉ đang là sựbóng gió qua lời nói chứ đâu phải là chứng cớ. Với tầm hiểu biết của Vũ Nương, lẽ nào nàng không hiểu câu cửa miệng “dâm tang gian tích” trong dân gian thường dùng hay sao? Ai cũng tin nàng, trừ Trương Sinh. Mà Trương Sinh thì chỉ nói chứ không đưa ra chứng cứ. Nếu cần chứng cứ thì đã có trong tay Trương Sinh. Nếu Vũ Nương thương chồng, tìm cách tháo gỡ bế tắc thì bài toán này lẽ nào không có đáp án. Thực chất nàng đã không có ý thức giải cứu trước sai lầm của chồng thì sao gọi là thương chồng được. Nếu thương chồng thực sự, thì không để chồng cảnh “gà trống nuôi con”, và hơn thế, sinh con cháu đông đàn cho gia đình chồng như người mẹ trước khi qua đời còn nguyện ước. Sâu xa hơn, nếu thương chồng thì trong khi bình tĩnh, nàng đã không chọn cái chết. Bởi nàng chết, hình ảnh chồng nàng – nhưng cũng là cha của bé Đản, con nàng sẽ như thế nào trong mắt mọi người? Bình tĩnh để chọn cái chết như thế, Vũ Nương đâu phải kiểu phụ nữ thùy mị, nết na, đâu phải kiểu người phụ nữ thực sự yêu thương chồng mà sẵn sàng đương đầu với mọi thử thách trong cuộc sống. Tìm hiểu bi kịch ghen tuông, có ý kiến cho rằng:Lẽ ra bé Đản - người phát ngôn của thông tin tày trời nọ - phải được xét hỏi “ba mặt một lời” để vãn hồi sự câu thông cần thiết giữa hai vợ chồng. Không ai hỏi đến, Đản lặng thinh như chưa từng nói ra chi tiết oan khiên nọ. Đản, nhân chứng cuối cùng, giờ như một kênh thông báo vô hiệu hóa, tắt sóng lặng câm”

. Quả thật, để cho Đản, nhân chứng cuối cùng, giờ như một kênh thông báo vô hiệu hóa, tắt sóng lặng câmnhư thế, Nguyễn Dữ đã tạo nên tính kịch tính về bi kịch ghen tuông. Đó cũng là ý đồ của ông trong việc dẫn dắt người đọc nhận thức về nhân vật Vũ Nương một cách sâu sắc nhất. Với nàng, lớn hơn tất cả tình yêu thương là cơn nư đang mỗi ngày bốc hỏa! Bởi thế, đâu phải thái độ ghen tuông cay nghiệt và mù quáng của chàng Trương đã giết chết người vợ đoan chính đáng thương .

Từ cái chết đầy sự bình tĩnh của Vũ Nương, ta thấy có phải Vũ Nương đang tìm cho mình cái danh dự hão?

Cái chết của Vũ Nương không phải không tìm được sự đồng cảm: Khi lựa chọn chết chứ không tiếp tục sống trong sự nghi ngờ, phải mang tiếng là thất tiết, chứng tỏ nàng coi danh dự, phẩm giá cao hơn cả sự sống. Vì danh dự nàng hy sinh sự sống mà mỗi người chỉ có được một lần . Trong cuộc sống, có những tình huống con người phải đặt ra sự lựa chọn coi danh dự, phẩm giá cao hơn cả sự sống. Với Vũ Nương, nếu vì danh dự nàng hy sinh sự sống thì đáng quí biết chừng nào. Nhưng suy xét bản chất vấn đề, danh dự nàng có mất đi đâu. Về chủ quan, hơn ai hết, nàng biết mình cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Về khách quan,họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng. Vậy nút thắt danh dự của nàng nằm ở chỗ Trương Sinh. Mà Trương Sinh lại là một kẻ có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Chỉ mấy lời bóng gió của một kẻ như thế mà Vũ Nương coi mình bị mất danh dự hay sao? Trên thế gian này, từ cổ chí kim, chỉ vì lời nói bóng gió mà tự vận vào mình là bị mất danh dự, thì hẳn không mấy ai còn danh dự. Quả thực là người trọng danh dự, thì Vũ Nương, bằng sự khôn ngoan hiểu biết của mình phải tìm cách mà lấy lại danh dự chứ. Nếu nàng bình tĩnh trong cái chết (biết tắm gội chay sạch, biếtxin làm ngọc Mị Nương, cỏ Ngu mĩ), thì sao nàng không nghĩ đến việc chờ thời gian tìm ra chứng cứ, bởi nó ở ngay Trương Sinh chứ đâu phải việc “mò kim đáy bể”. Mà nếu nàng không lấy được chứng cứ ở Trương Sinh thì còn họ hàng, làng xóm, và cao hơn nữa còn có pháp luật. Xét cho cùng, với Trương Sinh, sự mù quáng của chàng còn có lí (bởi từ lời con trẻ), chứ sự mù quáng của Vũ Nương thì không còn giới hạn. Vì sao? Vì cơn nư thúc đẩy, nàng vội vã chứng minh cho sự tròn trịa của mình mà bất chấp tất cả. Bởi thế, cái danh dự nàng cần chỉ là thứ danh dự hão. Về điều này, tác giả đã xây dựng tình tiết trong truyện rất thống nhất. Giả sử cứ cho nàng mất danh dự, thì theo yêu cầu của nàng, khi Trương Sinh lập đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang thì chẳng phải danh dự nàng đã được trả lại gấp bội hay sao? Vậy nhưng nàng vẫn đâu cần đến. Không tìm đâu xa, trong thời đại của nàng, có những người vì danh dự đích thực, họ phải sống và chờ đợi bằng cả đời người để chứng minh. Làm phép so sánh giữa nhân vật Vũ Nương và Thị Kính, ta thấy Thị Kính gần như không có chút lợi thế nào. Xét về mức độ oan trái, thì tội giết chồng còn mất danh dự lớn gấp bao nhiêu lần tội thất tiết. Vậy nhưng Thị Kính cũng đâu tìm con đường chết. Nếu như Vũ Nương chỉ nằm trong hoàn cảnh bị Trương Sinh nóibóng gió, còn khi cần chứng cứ, thì tự khắc nó trở thành lợi thế để hóa giải. Và thực tế, chỉ một thời gian rất ngắn, mối nghi ngờ đã được chứng minh. Còn Thị Kính, nhân chứng, vật chứng sờ sờ ra đó, làm sao chối cãi. Dù nàng lựa chọn con đường đi tu, nhưng cho đến chết, tội giết chồng cũng đâu được hóa giải. Vì thế, tác giả dân gian đã bằng cách cho Thị Mầu gieo oan,khẳng định sự trong sạch này để chứng minh cho oan trái kia nhằm đưa lại cái hậu cho Thị Kính. Danh dự đích thực của Thị Kính phải đánh đổi bằng cả đời người chứ đâu chỉ ngày một ngày hai. Còn như Vũ Nương, khi chồng nóng giận đã được một cộng đồng người bên cạnh chở che, ôm ấp, vậy nhưng bỏ qua những điều quí giá, nàng đã vội tìm đến cái chết. Trong khi đó, Thị Kính, dù bế tắc đến tận cùng cũng tìm cho mình lối thoát tích cực, một lối thoát ít ra thì cũng giữ gìn hình hài cha mẹ ban cho. Bởi thế, không thể biện hộ cho Vũ Nương rằngkhông có lựa chọn nào khác .

Qua phân tích bi kịch ghen tuông trong Chuyện người con gái Nam Xương, ta nhận thấy Nguyễn Dữ đang gợi cho người đọc những suy nghĩ, đánh giá về nhân vật Vũ Nương một cách công bằng, khách quan nhất. Đặt trong sự so sánh về cách xây dựng nhân vật của hai tác phẩm ở bi kịch ghen tuông, người đọc dễ nhận thấy dụng ý hoàn toàn khác nhau. Nếu như ở Vợ chàng Trương, Vũ Thị Thiết đứng trước oan trái không thể làm chủ được nên đã tìm đến cái chết để giải thoát bản thân thì ở Chuyện người con gái Nam Xương, Vũ Nương đứng trước oan trái vẫn bình tĩnh, chủ động trong việc lựa chọn cái chết để chứng minh sự hoàn hảo của mình và trừng phạt chồng theo cách của người đàn bà vì to nư mà sẵn sàng rũ bỏ tất cả. Có phải bằng cách xây dựng nhân vật theo cách rất độc đáo của mình, từ cái chết của Vũ Nương, Nguyễn Dữ gợi ý cho người đọc tìm hiểu mặt trái bản tính thùy mị, nết na của nàng, để từ đó có cái nhìn lí tính hơn về nhân vật này?

II. Về phương diện nghệ thuật

1. Cách xây dựng hình ảnh chiếc bóng

Ở tác phẩm Vợ chàng Trương, chiếc bóng xuất hiện hai lần theo thứ tự thời gian. Lần thứ nhất: Có những hôm phải chong đèn khâu vá dọn dẹp và nô đùa với con. Những lúc con khóc nàng thường chỉ vào bóng của mình trên vách mà bảo: “Nín đi con! Kìa, kìa bố đã về. Đấy! Đấy!”. Đứa bé nhìn vào bóng, nín bặt. Cứ như thế, lâu dần thành thói quen. Thằng Đản thường đòi gặp bố trước khi đi ngủ. Cái bóng đen đen trên tường từ đấy đối với cả mẹ lẫn con như một người thân thích. Lần thứ hai: Tối lại, thằng bé khóc. Trương Sinh thắp đèn dỗ cho con nín. Chợt thằng bé kêu lên: “Ồ, bố Đản đã đến kia kìa!”. Trương Sinh hỏi: “Đâu con”. Nó trỏ vào bóng chàng trên vách mà nói: “Đấy! Đấy!”. Ở tác phẩm dân gian, chiếc bóng đã được nói đến ở lần thứ nhất, trong câu chuyện hai mẹ con, vì thế nên khi bé Đản kể với bố về người đàn ông xuất hiện mỗi tối, người đọc đã hiểu ngay vấn đề của mối nghi ngờ từ chỗ cái bóng. Cũng vì thế, tình tiết truyện không tạo nên sự gay cấn cho người đọc.

Nhưng với Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã cắt bỏ ở Vợ chàng Trương chi tiết chiếc bóng xuất hiện lần thứ nhất, nên tạo cho người đọc hồi hộp khi dõi theo câu chuyện để xem mấu chốt bi kịch như thế nào. Mãi đến khi kết thúc truyện, người đọc mới bất ngờ nhận ra nỗi oan của Vũ Nương bắt đầu từ cái bóng. Chính cách xây dựng hình ảnh chiếc bóng thay đổi như thế, tác phẩm đã tạo nên sự dồn nén tâm lí cho độc giả. Tính kịch tính của bi kịch đã tăng độ hấp dẫn cho câu chuyện.

1. Thay đổi kết cấu

Ở Vợ chàng Trương, kết cấu truyện đơn giản. Các sự việc được sắp xếp theo trật tự thời gian nên không gây sự bất ngờ cho người đọc. Truyện được xây dựng theo lối kết cấu vòng tròn thường gặp ở mô tip truyện cổ tích: Chàng nhận ra nỗi oan tày trời của vợ chỉ vì lòng ghen tuông nóng nảy của mình.

Nhưng đã muộn mất rồi, còn làm gì được nữa. Chàng chỉ còn biết ngày ngày ẵm con nhìn xuống dòng sông mà khóc.

Từ đó chàng ở vậy nuôi con không lấy vợ khác.Về sau người ta dựng ở bến Hoàng-giang một cái miếu thờ nàng Vũ Thị Thiết, quen gọi là miếu Vợ chồng Trương

Chính kết cấu này đã tạo nên một kết thúc có hậu. Chàng Trương đã hối hận về hành động của mình. Không chỉ nỗi oan của Vũ Thị Thiết được sáng tỏ, mà trong lòng Trương Sinh mãi mãi có nàng. Và điều đặc biệt hơn nữa, phẩm chất nàng đã được đề cao trong lòng người bằng tất cả sự tôn thờ.

Còn ở Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đã thêm vào chi tiết li kì, tạo nên kết cấu hoàn toàn khác so với Vợ chàng Trương. Với lối sử dụng kết cấu mở, Nguyễn Dữ đã gợi cho người đọc bao suy ngẫm và cũng là cách tác giả khẳng định ý đồ bộc lộ tư tưởng chủ đề của Chuyện người con gái Nam Xương khác Vợ chàng Trương.

Câu chuyện li kì nơi thủy cung mở ra, cũng là thêm một lần tác giả đề cao vị thế của Vũ Nương trong xã hội nhằm chứa đựng hàm ý trong cách xây dựng nhân vật của tác giả. Từ góc nhìn của người hàng xóm Phan Lang nơi thủy cung, nàng là người phụ nữ quyền quí. Như thế, vị thế cao sang của nàng trong gia đình, dòng tộc và xã hội, – niềm mơ ước của bao người, dù có sang thế giới khác vẫn không hề mất đi. Bằng sáng tạo nghệ thuật, tác giả đã làm nên sự thống nhất từ cách thêm những chi tiết trong mối quan hệ hôn nhân của nàng. Chỉ trong Chuyện người con gái Nam Xương, nàng mới được làm vợ, làm dâu trong một gia đình dòng dõi. Từ chỗ vốn con nhà nghèo khó, được nương tựa nhà giàu, nhưng nơi nàng nương tựa không phân biệt đối xử, điều thường thấy trong xã hội phong kiến luôn coi trọng “môn đăng hộ đối”. Nơi nàng nương tựa có người chồng biếtmến vì dung hạnh nàng, đã xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Nơi nàng nương tựa có một người mẹ chồng dù trước khi trút hơi thở cuối cùng vẫn nuôi hi vọng vào đức hạnh con của con dâu sẽ đem lại giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn. Từ chỗcon nhà nghèo khó được nâng lên địa vị cao sang với nhiều điều may mắn khác, sao nàng không biết cộng trừ nhân chia trong cái được, cái mất để nhận ra đâu là phần hơn, kém, đích thực của giá trị cuộc sống? Chuyện xảy ra, để hả cơn nư của mình, nàng chỉ bám vào lỗi chồng để đổ vạ, trừng phạt mà không biết trân trọng, quí giá những thứ mình đang có. Bởi thế, ngay việc nâng nàng lên tầm quyền quí qua tên gọi Vũ Nương rồi để nàng xử sự như vậy, Nguyễn Dữ đã hướng người đọc nhận thức về một kiểu dạng người vợ to nư trong cuộc sống, vì một biến cố đã sẵn sàng đánh đổi mọi thứ mà không hề nuối tiếc.

Câu chuyện li kì nơi thủy cung mở ra, qua cuộc trò chuyện với Phan Lang, ta thấy một người mẹ cạn tình đến mức không dành một chút quan tâm sau chót cho con. Có phải để tập trung vào chủ đề, truyện xây dựng hình ảnh người đàn bà to nư và chỉ biết đến hận thù mà từ khi xuất hiện bi kịch, Nguyễn Dữ không để cho Vũ Nương một lần nhắc đến đứa con thơ dại? Có phải cơn nư và sự thù hận trong mỗi con người đã giết đi tất cả mọi thứ, kể cả tình mẫu tử thiêng liêng?

Từ câu chuyện li kì nơi thủy cung, ta thấy cái đẹp cũng không cảm hóa được tâm hồn Vũ Nương. Tác giả xây dựng cho nàng một cuộc sống ở thủy cung hoàn mĩ.Nơi ấy, nàng là một trong số những mĩ nhân, quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ đầy sang trọng được tham gia trong những cuộc yến tiệc quan trọng. Nơi ấy đã đáp ứng mọi điều kiện thuận lợi nhất theo ý muốn của nàng. Hình ảnh nàng xuất hiện khi trở về bến Hoàng Giang Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông như một nữ hoàng. Được đề cao đến mức ấy, nhưng cái đẹp vẫn không đủ sức cảm hóa nàng. Nàng đã sống trong sự lừa dối. Khi không muốn về lại nhân gian, nàng đã trả lời với Trương Sinh: Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng trở về nhân gian được nữa. Lời này thật mâu thuẫn với ý định của nàng trước đó. Khi mới gặp Phan Lang ở thủy cung, trong cuộc trò chuyện, Phan Lang khuyên: “Nương tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà phải ôm mối hận gieo mình xuống nước. Nay thóc cũ không còn, thóc mới vừa gặt, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư?”. Vũ Nương nói: “Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa”. Trong thâm tâm, nàng không về vì đang ôm mối hận chàng Trương chứ đâu phải vì đức Linh Phi! Rồi nàngquả quyết đổi giọng mà rằng: “Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiến xấu xa. Vả chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cảm vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày”. Sao đã thề sống chết cũng không bỏ, vậy mà giờ nàngtất phải tìm về có ngày? Vậy ra, nàng đã sống không thủy chung với lời thề ấy! Nàng đã lừa dối Linh Phi, người cho nàng thêm một lần sự sống.Với những biểu hiện ấy, ta thấy rằng, đối với nàng chẳng có gì là đáng quí, thiêng liêng. Rồi nàng tiếp tục lừa dối, gieo hi vọng cho Trương Sinh. Khi gửi tín vật cho Phan Lang, Vũ Nương dặn: “Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về”. Nàng đã trở về, nhưng chỉ đủ cho người đời nhận thấy trong tiếc nuối rồi nhanh chóng biến mất trước sự ngỡ ngàng, bất ngờ! Sao nàng lại gieo hi vọng cho Trương Sinh và cướp đi niềm hi vọng ấy trong một con người đã biết ân hận, sám hối, chờ đợi, khao khát đúng kiểu của con người?(Vũ Nương, nhìn nhận và suy xét – Cùng tác giả). Tại sao nàng lừa đối Linh Phi và Trương Sinh như vậy? Có một sự giằng níu trong tâm lí và cuối cùng nàng đã quyết định chọn lựa ở lại thủy cung. Với quyết định ấy, cái ảo thực sự chiến thắng. Nguyễn Dữ đã xây dựng chi tiết ảo trong Chuyện người con gái Nam Xương một cách rất thống nhất và logic. Một người không chấp nhận thử thách trước hiện thực cuộc sống, nên khi vắng chồng nàng chỉ ôm một cái bóng – ảo ảnh để khỏa lấp chỗ thiếu vắng tinh thần.Đến khi đứng trước bi kịch ghen tuông, với Vũ Nương, thời gian là thước đo phẩm hạnh, nhưng do vội vã và thiếu hiểu biết triết lí sống dân gian về luật nhân quả, kèm theo ý thức sống nương nhờ, sống ảo nên trước thực tế cuộc sống khi phải đối mặt với thử thách nàng đã không nhẫn nhịn để vượt qua (Vũ Nương, nhìn nhận và suy xét – Cùng tác giả). Vừa phát triển cốt truyện có sẵn, vừa sáng tạo thêm chi tiết li kì nối tiếp, Nguyễn Dữ cho ta thấy, với Vũ Nương, nàng chỉ sống phù hợp với cái ảo. Vì thế, với nhận xét: Trong những đêm xa chồng, cuộc sống của nàng và con thơ cô quạnh, nỗi nhớ càng đốt cháy tâm can, “nàng thường hay đùa với con, trỏ bóng mình trên vách mà bảo là cha Đản”. Chỉ là để trả lời câu hỏi ngây thơ của con, cũng để cho vơi nỗi nhớ, chứ đâu phải nàng sống ảo như ai đó đã phê phán nàng , chứng tỏ người viết chưa hiểu hết ý đồ của Nguyễn Dữ trong việc xây dựng nhân vật. Ta không có quyền chủ quan phê phán nàng sống ảo, chẳng qua cách xây dựng tình tiết truyện rất khách quan trong tác phẩm đã nói lên điều đó.

Từ câu chuyện li kì của Nguyễn Dữ, ta nhận thấy một chàng Trương, vẫn có lúc nóng giận nhưng đã hết lòng trong việc chuộc lại lỗi lầm. Dù chỉ qua tín vật và khâu trung gian, nhưng chàng sẵn sàng lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang để vợ trở về theo lời dặn. Làm điều ấy, Trương Sinh ắt phải đối mặt với họ hàng, bà con xóm làng, có nghĩa chàng sẵn sàng từ bỏ sĩ diện, mặc cảm, bảo thủ – điều ít xảy ra trong chế độ phong kiến nam quyền. Nếu như ở Vợ chàng Trương, chỉ có mỗi mình chàng Trương biết nỗi oan của nàng, thì ởChuyện người con gái Nam Xương, với thời gian và không gian ấy, danh dự của nàng được trả lại giữa sự chứng giám của trời cao, đất rộng. Vậy nhưng nàng không về, bởi nơi nhân gian, là cuộc sống con người, nàng sẽ không tránh khỏi những thử thách. Mà nếu trở về, gặp thử thách, nàng sẽ tiếp tục xử sự như thế. Từ việc Trương Sinh lập đàn tràng, ta nhận ra một nghịch lí trong cuộc sống. Người được coi là thùy mị, nết na như Vũ Nương, khi đối mặt với thử thách không có ý thức vượt qua, trái lại đã trở nên vô cảm và tàn nhẫn. Còn một người ít học, vũ phu như Trương Sinh, khi xảy ra sai lầm đã có ý thức sửa mình, sẵn sàng vượt qua bản thân để hướng tới điều tốt đẹp. Phải chăng tác phẩm đang nhắc chúng ta phải có cái nhìn khách quan trong việc đánh giá nhân vật?

Xây dựng câu chuyện li kì nơi thủy cung, tác giả đã tạo nên một kết thúc mở cho truyện. Một Vũ Nương đã từng biết lễ bái thần phật mà sao nàng không sợ luật nhân – quả? Hẳn rằng sự lừa dối và cạn tình của nàng sẽ làm cho hình ảnh nàng trong lòng chàng Trương mất đi. Với Nguyễn Dữ, bỏ chi tiết dựng miếu thờ ở bến Hoàng Giang ở nguyên tác cũng là cách ông bày tỏ thái độ rất rõ rệt đối với nhân vật Vũ Nương.

Xây dựng Chuyện người con gái Nam Xương với kết cấu như thế, truyện đã hấp dẫn người đọc bởi những tình tiết bất ngờ thú vị. Điều sâu xa hơn, Nguyễn Dữ đã để cho độc giả nhận thức về một loại hình nhân vật rất gần gũi trong cuộc sống. Người đọc nghĩ gì về cách xây dựng nhân vật của tác giả ở phần giới thiệu ban đầu (Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp) và ở phần kết thúc truyện, khi có cơ hội tốt đẹp để trở về cuộc sống nhưng sẵn sàng chối bỏ (Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất)? Qua tìm hiểu chi tiết li kì ở thủy cung trong Chuyện người con gái Nam Xương thì ý kiến của Nguyễn Nam: chính phần sau ấy (trong đó nàng Vũ thác thiêng thành thần) là cơ sở cho việc thánh hóa người thiếu phụ nhân bản này, tạo cho nàng một thần phả với gốc tích tiên nương .

Phần sáng tạo có tính hoang đường ấy ngoài việc tăng hấp dẫn cho câu chuyện, còn chuyển tải được ý đồ của nhà văn về cái gọi là kết thúc có hậu liệu có phản ánh đúng ý đồ sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ?

Tìm hiểu mối liên hệ của hai tác phẩm, ta thấy nhân vật Vũ Thị Thiết trong Vợ chàng Trương đã để lại sự thương cảm cho bao người. Và không phải ngẫu nhiên mà trong truyện Vợ chàng Trương, tác giả dân gianđã kể về cái miếu thờ vợ chàng Trương. Còn đọc Chuyện người con gái Nam Xương, người đọc dễ bị đánh lừa cái vỏ bọc thùy mị, nết na của Vũ Nương.Ta không thể hoàn toàn phủ nhận nàng, bởi nhân vật Vũ Nương vẫn có đầy đủ yếu tố công, dung, ngôn, hạnh nhưng chỉ biểu hiện một cách mờ nhạt trong đời thường phẳng lặng, bình yên (Vũ Nương, nhìn nhận và suy xét – Cùng tác giả). Mỗi thử thách, chướng ngại trong cuộc sống là câu chuyện thường nhật của con người, nàng không có ý thức đối mặt với nó thì chỗ nhân gian cũng chẳng thể có chỗ cho nàng. Phải chăng sáng tạo Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đang dẫn dắt chúng ta có một cái nhìn đa chiều trong đánh giá nhân vật. Cùng một bi kịch ghen tuông, cùng một cái chết như nhau, nhưng trạng thái tâm lí trong xử lí tình huống khác nhau sẽ làm bản chất sự việc hoàn toàn thay đổi. Thay bằng sự tôn thờ (miếu thờ vợ chàng Trương), người đọc ám ảnh về hình ảnh một Vũ Nương, vì cơn nư của mình đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, kể cả sự thiêng liêng của tình mẫu tử. Dựa vào cốt truyện có sẵn rồi nhào nặn lại thành câu chuyện riêng của mình, Chuyện người con gái Nam Xương luôn gây cảm hứng cho người đọc. Bỏ qua sự hời hợt để tìm hiểu Chuyện người con gái Nam Xương một cách thấu đáo nhất, việc đánh giá theo hướng lên án nhân vật này xem ra cũng có lí. Bởi, hơn gì hết, cách thức sáng tạo nghệ thuật của Nguyễn Dữ sẽ giúp ta có một cái nhìn bản chất về hướng đánh giá nhân vật trong tác phẩm của ông. Đọc Chuyện người con gái Nam Xương, đôi khi chúng ta, vì chính “cái bẫy phi logic” trong sáng tạo nghệ thuật của tác giả mà nhìn nhận nhân vật theo cái nhìn cảm tính.

Tìm hiểu cách xây dựng Chuyện người con gái Nam Xương, đặt trong sự so sánh với Vợ chàng Trương, ta thấy cùng chung một cốt truyện nhưng mỗi tác phẩm lại có một cách lí giải khác nhau. Ở truyện dân gian nói chung và Vợ chàng Trươngnói riêng, cốt truyện thường đơn giản, phạm vi phản ánh cũng đơn chiều. Nhưng ở văn học viết, dấu ấn cá nhân thể hiện rất rõ trong tác phẩm, cũng là cách tác giả gửi gắm quan niệm sống hay một tư tưởng, mà nhiều khi những thông điệp ấy luôn gây sự tranh cãi cho độc giả. Tác phẩm càng độc đáo thì cách đọc càng đa dạng, phong phú. Với Nguyễn Dữ, một nhà văn lớn, khi dựa vào cốt truyện Vợ chàng Trươngđể sáng tạo nên tác phẩm của mình, ông đã rất linh hoạt trong việc thêm, bớt, thay đổi các tình tiết để tạo nên một Chuyện người con gái Nam Xương mang nét đặc trưng riêng, mang tính gợi mở cao. Như vậy là nàng Vũ chết đã hơn 500 năm, mà xem chừng cuộc sống và cái chết của nàng chưa phải là hết chuyện để nói, nhưng nói như thế nào lại tùy thuộc vào cảm xúc thẩm mĩ của mỗi người trong quá trình tiếp nhận văn chương. Nhưng cũng cần phải hiểu rằng, văn chương luôn có cái lí của nó.

Từ Chuyện người con gái Nam Xương, tìm hiểu thêm các áng văn Nguyễn Dữ trong Truyền kỳ mạn lục, ta thấy tác giả đã đa dạng hóa các kiểu nhân vật. Có thể cùng nói về người phụ nữ trong xã hội phong kiến nhưng ở truyện Người nghĩa phụ ở Khoái Châu và Chuyện người con gái Nam Xương, mỗi nhân vật mang một sắc thái riêng biệt. Nếu như ở Chuyện người con gái Nam Xương, Nguyễn Dữ đề cập kiểu người phụ nữ không ý thức điều may mắn của mình, để rồi trước thử thách, vì cơn nư trỗi dậy đã sẵn sàng đánh đổi tất cả, thì trong Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, ông lại xây dựng kiểu người phụ nữ mang bản chất hoàn toàn khác. Nhị Khanh dù đứng trước bi kịch đau đớn nhất do chồng gây ra đã thà chết chứ không có ý định bỏ chồng để ngả vào tay kẻ giàu có. Do một lỗi lầm mà phải lựa chọn cái chết, nhưng Nhị Khanh không ôm mối hận. Dù ở cõi khác nhưng nàng vẫn dõi theo bước chân chồng, có cơ hội là giúp chồng thức tỉnh làm việc tốt.Trọng Quỳ từ chỗ quen thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời, sẵn sàng đưa vợ lên canh bạc, vậy mà kết thúc câu chuyện lại là người biết chăm chỉ nuôi hai con cho nên người.Từ những câu chuyện trên, ta thấy trong xã hội phong kiến nam quyền, mỗi người phụ nữ đều có một bi kịch, dù cách giải quyết bi kịch giống nhau về hiện tượng, nhưng bản chất thì hoàn toàn khác.Điều đặc biệt trong hai tác phẩm là mỗi bi kịch của người phụ nữ đều do người chồng đem đến, nhưng kết thúc câu chuyện, những người đàn ông đều bước qua chính mình, ăn năn hối lỗi và hướng đến điều tốt. Như thế, dù sống trong xã hội luôn đề cao nam quyền nhưng họ đã bắt đầu bớt đi tính bảo thủ. Trương Sinh sẵn sàng làm theo lời vợ nhắn gửi, Trọng Quỳ nghe lời Nhị Khanh mà biết đem lại điều ý nghĩa cho cuộc sống. Qua cách xây dựng nhân vật Trương Sinh và Trọng Quì, ta thấy chế độ nam quyền đã được nới lỏng trong tác phẩm của Nguyễn Dữ. Chế độ nam quyền được nới lỏng thì người phụ nữ cũng bớt đi thiệt thòi, đó chẳng phải là tiếng nói nhân đạo, tôn trọng quyền sống của người phụ nữ được nhà văn gửi gắm khéo léo vào tác phẩm của mình hay sao? Bởi thế, với nhận xét: Song với “Chuyện người con gái Nam Xương” và truyện nữa trong “Truyền kỳ mạn lục” là “Người nghĩa phụ ở Khoái Châu”, câu chuyện kể về nàng Nhị Khanh bị chồng gá bạc nhục nhã tìm đến cái chết để giải thoát, Nguyễn Dữ muốn gióng lên hồi chuông cảnh báo về thân phận con người, đặc biệt là người phụ nữ thời ông sống phải chịu nhiều bất công, phải chịu sự nghiệt ngã của số phận (Trần Thị Bích Hà, nguồn http://vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/vu-nuong-chuyen-nguoi-con-gai-nam-xuong-cua-nguyen-du-cuoc-song-va-cai-chet) thì e rằng người viết chỉ mới có cái nhìn mờ nhạt về hai tác phẩm ấy. Vẫn biết hiện thực phũ phàng, nhưng khi đối mặt với nó, con người biết nhìn nhận và giải quyết ra sao thì mới là điều đáng nói.

Bằng sức mạnh riêng của nghệ thuật, nhà văn đã đưa nhân vật từ nơi u tối ra miền ánh sáng,. Đó chính là điều Nguyễn Dữ đã làm trong Chuyện người con gái Nam Xương vàNgười nghĩa phụ ở Khoái Châu. Có phải, đó chính là cái đẹp của văn chương?

15 tháng 6 2018

Giống:

+Nội dung: Đều bắt nguồn từ truyện cổ tích, có những chi tiết giống truyện cổ tích và được kể lại 1 cách sống động hơn:

-Mối quan hệ vợ chồng:

+)Chàng Trương hay ghen tuông

+)Vợ hết lòng yêu thương mẹ chồng

-Bi kịch: Vì tính ghen tuông vợ chàng trương phải tự vẫn

+Nghệ thuật

-Xây dựng hình ảnh cái bóng

2 tháng 8 2017

trong chị em thúy kiều thực ra có rất nhiều câu giàu biện pháp tu từ trong đó có câu "làn thu thủy nét xuân sơn/ hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh" là đặc sắc nhất. câu thơ này miêu tả nhan sắc của thúy kiều nhưng chỉ đặc tả đôi mắt của nàng. chúng ta biết rằng đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn của môĩ người. tác giả đặc tả đôi mắt chính là đang miêu tả tâm hồn kiều băng nghệ thuật ước lệ tượng trương đặc sắc của văn học trung đại .ông đã lấy cái chuẩn mực là thiên nhiên :"thu thủy ,xuân sơn" miêu tả đôi mắt kiều là một đôi mắt như đáy nước mùa thu một vẻ đẹp đẽ phảng lặng trong vắt như đăý nước vậy . không chỉ có thế, nhờ miêu tả thúy vân trước sau đó tả thúy kiều ông chỉ cần thêm hai từ "hơn vs càng" như một phép đòn bẩy làm nổi bật sắc đẹp của kiều. mặc dù vân xinh đẹp như vậy nhưng vẫn được thiên nhiên chấp nhận" mây thua...tuyết nhường" nhưng còn với kiều nàng đã bị thiên nhiên hờn ghét: 'hoa ghen...liễu hờn...' tác giả làm như vậy như để báo trước tương lai sóng gió của nàng. thực sự câu thơ này là một phần kiệt tác của ông từ một ngòi bút thăng hoa , lẵng mạng.